Trang

Thứ Sáu, 5 tháng 1, 2018

06-01-2018 : THỨ BẢY TRƯỚC LỄ HIỂN LINH

06/01/2018
Thứ Bảy trước lễ Hiển Linh


Bài Ðọc I: 1 Ga 5,5-6.8-13
"Thánh Thần, nước và máu"
Bài trích thơ thứ nhất của Thánh Gioan Tông Ðồ.
Các con thân mến, ai là người chiến thắng thế gian, nêu không phải là người tin rằng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa?
Ðấng đã đến nhờ nước và máu, chính là Ðức Giêsu Kitô, không phải trong nước mà thôi, nhưng trong nước và máu nữa.
Có Thánh Thần làm chứng: Thánh Thần, nước và máu, cả ba chỉ là một.
Nếu chứng của Người đời mà chúng ta còn nhận lấy, thì chứng của Thiên Chúa còn mạnh hơn.
Vì đó là chứng của Thiên Chúa, chứng mạnh hơn là Người đã làm chứng về Con mình.
Ai tin kính Con Thiên Chúa, thì có chứng của Thiên Chúa nơi mình.
Còn ai không tin Thiên Chúa, thì cho Người là gian dối, vì kẻ ấy không tin nơi chứng mà Thiên Chúa đã làm chứng về Con mình.
Và chứng đó là thế này: Thiên Chúa đã ban cho chúng ta sự sống đời đời, và sự sống đó ở trong Con của Người.
Ai có Chúa Con, thì có sự sống, còn ai không có Chúa Con, thì cũng không có sự sống.
Ta viết các điều này cho các con, để các con biết rằng: Các con là những người tin vào danh Con Thiên Chúa, các con được sống đời đời.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv. 147, 12-13, 14-15, 19-20
Ðáp: Giêrusalem hỡi, hãy ngợi khen Chúa. (12a)
Xướng 1) Giêrusalem hỡi, hãy ngợi khen Chúa, Hãy ngợi khen Thiên Chúa ngươi, hỡi Sion, vì Người đã củng cố then chốt cửa thành ngươi, con cái ngươi được Người chúc phúc trong ngươi. - Ðáp.
2) Người sắp đặt bờ cõi ngươi trong thanh bình, cho ngươi hưởng no nê những tinh hoa lúa miến. Người đã sai Lời Người xuống mặt đất, và Lời Người đã mau mắn chạy đi. - Ðáp.
3) Người đã rao Lời Người cho Giacób, Lề Luật và giới răn người cho Israel. Người không làm như thế cho dân khác, không bày tỏ cho họ biết giới răn Người. - Ðáp.

Alleluia: Ga 1, 14 và 12b
Alleluia, Alleluia. Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta. Những ai tiếp rước Người, thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa. - Alleluia.

Phúc Âm: Mc 1, 6b-11
"Con là con yêu qúy của Cha, con đẹp lòng Cha mọi đàng".
Bài trích Phúc Âm theo Thánh Marcô.
Khi ấy Gioan rao giảng rằng: "Có Ðấng đến sau tôi, nhưng quyền lực hơn tôi, tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Người.
Phần tôi, tôi đã rửa anh em trong nước, nhưng Người, Người sẽ rửa anh em trong Thánh Thần.
Và đã xảy ra là trong những ngày đó, Chúa Giêsu từ Nazarét xứ Galilêa đến và chịu phép rửa bởi Gioan ở sông Giođan.
Khi vừa lên khỏi nước, Người liền thấy trời mở ra, thấy Thánh Thần như chim bồ câu ngự xuống trên mình.
Và có tiếng từ trời: Con là con yêu quí của Cha, con đẹp lòng Cha mọi đàng.
Ðó là Lời Chúa.


Suy Niệm: Phép rửa
Có hai anh bạn đi mua đồ phế thải. Sau khi xem xét một hồi, anh thứ nhất nói:
- Toàn là đồ “năm vố” không à.
Còn anh kia thì nhặt lên một cây thánh giá cũ kỹ đã han dỉ và nói:
- Thật là khó mà tin được, tôi đã tìm thấy một món đồ quý. Cây thánh giá này được làm bằng chất bạc ngày xưa.
Anh ta mang cây thánh giá về nhà, lau chùi, rồi đưa cho đứa con mới đi học giáo lý về. Nó kính cẩn cầm trong tay, ngắm nghía một hồi rồi bật khóc. Thấy vậy anh liền hỏi:
- Tại sao con khóc.
Nó trả lời:
- Con không thể cầm lòng được khi nhìn vào Chúa Giêsu bị treo trên thập giá.
Và như thế, cả ba người đều nhìn vào cây thập giá, thế mà người thứ nhất chỉ thấy đó là đồ ve chai mủ bể, người thứ hai thì thấy đó là một đồ vật có giá trị. Còn người thứ ba thì nhận ra Chúa Giêsu trên đó. Cách nhìn cây thập giá trên cũng tương tự như cách chúng ta nhìn Phúc âm.
Tất cả chúng ta đều nghe cùng một đoạn Phúc âm, thế nhưng mỗi người lại hiểu và phản ứng một cách khác nhau. Có thể chúng ta chỉ nghe như nghe một câu chuyện bình thường, chẳng có chi đặc sắc. Có thể chúng ta đã lắng nghe và tiến thêm một bước nữa, đó là tìm hiểu ý nghĩa của câu chuyện. Có thể ngoài việc học hỏi ý nghĩa, chúng ta còn cố gắng áp dụng vào cuộc sống. Đó là ba bước tiếp nhận Phúc âm: lắng nghe, học hỏi và áp dụng.

Đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay về sự việc Chúa Giêsu chịu phép rửa:
Bước thứ nhất, chúng ta lắng nghe câu chuyện và biết rằng: sau khi Gioan làm phép rửa cho Chúa Giêsu thì tầng trời mở ra, Chúa Thánh Thần ngự xuống và có tiếng từ trời phán ra. Và cũng chỉ có vậy mà thôi.
Bước thứ hai, chúng ta đi xa hơn một chút, bằng cách cố gắng tìm hiểu ý nghĩa của những sự kiện trên. Chẳng hạn hình ảnh trời mở ra cho ta thấy Thiên Chúa đã nghe lời cầu nguyện của dân Ngài và Ngài đang đến để cứu vớt họ. Hình ảnh Chúa Thánh Thần ngự xuống gợi lên cho chúng ta về một kỷ nguyên mới, vũ trụ này được tái tạo để trở nên tốt đẹp hơn, như ngày xưa, khi tạo dựng trời đất, Thánh Thần Chúa cũng đã bay lượn trên nước. Còn hình ảnh thứ ba, có tiếng nói từ trời phán ra:
Đây là con Ta rất yêu dấu.
Những lời này cho thấy Đức Kitô là Con Thiên Chúa, là Adong mới của cuộc tạo dựng mới, như lời thánh Phaolô:
- Người thứ nhất tức Adong được tạo dựng là con người sống. Nhưng Adong cuối cùng là Đức Kitô, lại là thần khí ban sự sống. Adong thứ nhất bởi đất mà ra. Còn Adong thứ hai thì từ trời mà đến. Như chúng ta đã mang ảnh hưởng của con người bởi đất, tức Adong thứ nhất thế nào thì chúng ta cũng sẽ mang hình tượng con người bởi trời, tức Adong thứ hai là Đức Kitô như vậy.
Ngoài việc lắng nghe, tìm hiểu ý nghĩa, chúng ta còn phải áp dụng ý nghĩa câu chuyện ấy vào cuộc sống chúng ta.
Chẳng hạn, chúng ta có thể nhớ lại rằng: Cuộc sáng tạo mới bắt đầu với phép rửa của Chúa Giêsu và đã trở thành một thực tại gắn bó với mỗi người chúng ta. Khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, thì một cách nào đó, bầu trời cũng mở ra, Chúa Thánh Thần ngự xuống trên chúng ta và chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa.
Và như thế chúng ta phải sống thế nào cho xứng đáng với tước vị cao cả ấy. Chính vì thế mà thánh Phaolô đã khuyên chúng ta:
- Anh em đã sống lại cùng Đức Kitô, vậy anh em hãy hướng tâm hồn vào những sự trên trời chứ đừng vào những sự vật của trần thế này.



LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Ngày 6 tháng 1 GS
Bài đọc1 Jn 5:5-6, 8-13; Mk 1:6b-11.


GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Đức Kitô có đủ bằng chứng cho chúng ta tin tưởng nơi Ngài.
Để tin điều gì, chúng ta cần có bằng chứng. Một trong những cách con người dùng để tin là qua các nhân chứng, vì chúng ta không luôn luôn được chứng kiến sự thật.
Các bài đọc hôm nay xoay quanh các nhân chứng của Đức Kitô. Tất cả đều chứng nhận ngài là Đấng Thiên Sai được Thiên Chúa sai đến để chuộc tội cho con người. Trong bài đọc I, thánh Gioan liệt kê 3 nhân chứng trong cuộc đời của Đức Kitô là Thánh Thần, Nước (lời chứng của Chúa Cha), và Máu của Đức Kitô đã đổ ra trong lịch sử để chuộc tội cho con người. Trong Phúc Âm, Gioan Tẩy Giả là nhân chứng của Đức Kitô cho sự hiện diện của Chúa Cha và Chúa Thánh Thần; vì ông là người đã chứng kiến những điều này khi ông làm phép thanh tẩy bằng nước cho Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thánh Thần, nước, và máu; cả ba cùng làm chứng một điều.

1.1/ Ba chứng nhân của Đức Kitô: “Chính Đức Giêsu Kitô là Đấng đã đến, nhờ nước và máu; không phải chỉ trong nước mà thôi, nhưng trong nước và trong máu. Chính Thánh Thần là chứng nhân, và Thánh Thần là sự thật. Có ba chứng nhân: Thánh Thần, nước và máu. Cả ba cùng làm chứng một điều.” Để hiểu đọan văn này, chúng ta cần đọc lại Phúc Âm Gioan, và hoàn cảnh lịch sử thời đại của Ngài. Đọan văn trong Phúc Âm nói về “nước và máu” như sau: “Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì, “máu cùng nước” chảy ra. Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin” (Jn 19:34-35). Nước và Máu là 2 biến cố quan trọng trong cuộc đời của Chúa Giêsu: Nước khi Ngài chịu Phép Rửa bởi Gioan trong giòng sông Jordan. Máu khi Ngài chịu chết trên Đồi Golgotha.
Sở dĩ Gioan nhấn mạnh đến “nước  máu” là vì có bè rối “Thuần Tri Thức.” Cerinthus, người đại diện cho bè rối này, tin Chúa Kitô đến bằng “nước,” khi Ngài chịu Phép Rửa. Thánh Thần hiện xuống và ở lại trong Đức Kitô, và làm cho Ngài trở thành Con Thiên Chúa. Họ không chấp nhận “máu,” vì họ không tin Thiên Chúa phải chịu đau khổ. Họ giải thích: trên Đồi Golgotha, Thánh Thần xuất khỏi Đức Kitô và về trời. Có người còn cho người chịu đóng đinh là ông Simon, chứ không phải là Đức Kitô. Thánh Gioan muốn chống lại bè rối này bằng cách nhấn mạnh đến cả 3 nhân chứng đều cần thiết để tin vào Đức Kitô là Đấng Thiên Chúa sai đến để chuộc tội cho nhân loại.
(1) Thánh Thần: hiện xuống và xức dầu cho Đức Kitô khi Ngài chịu Phép Rửa (Mk 1:9-11, Mt 3:16-17, Lk 3:21, Jn 1:32-34, Acts 10:38). Phép Rửa này hoàn toàn khác với Phép Rửa của Gioan (Mk 1:8, Mt 3:11, Lk 3:16, Acts 1:5, 2:33). Thánh Thần hiện xuống với các Tông-đồ trong Ngày Lễ Ngũ Tuần (Acts 2:4), và trong đời sống của Giáo-Hội (Acts 8:17, 10:14).
(2) Nước: Tại biến cố Chúa Giêsu chịu Phép Rửa, Gioan Tẩy Giả làm chứng cho Đức Kitô: "Tôi đã thấy Thánh Thần tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người. Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: "Ngươi thấy Thánh Thần xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần." Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn" (Jn 1:32-34).
(3) Máu: Theo truyền thống Do-Thái, máu súc vật phải đổ ra để làm lễ hy sinh đền tội cho con người. Đức Kitô là Chiên Thiên Chúa đến xóa tội trần gian bằng lễ tế hy sinh của Ngài trên Thập Giá. Ngài thiết lập bí-tích Thánh Thể trong Bữa Tiệc Ly, và Giáo Hội chúng ta hằng ngày cử hành Thánh Lễ để liên tục tái diễn hy lễ của Đức Kitô trên Thập Giá để xóa tội cho con người.

1.2/ Chúng ta phải tin lời của các chứng nhân: Đức Kitô đến từ Thiên Chúa.
(1) Lời chứng của Thiên Chúa cao trọng hơn lời chứng của người phàm: Luật dạy khi có 2 hoặc 3 nhân chứng, lời chứng đó là sự thật. Đức Kitô có rất nhiều nhân chứng: Gioan Tẩy Giả, các phép lạ Ngài làm, Kinh Thánh, các Tông-đồ …, nhưng lời chứng của Chúa Cha qua tiếng vọng từ trời “Đây là Con Ta yêu dấu,” và lời chứng của Thánh Thần qua hình ảnh chim bồ câu đậu lại trên Đức Kitô, là những lời chứng có thế giá hơn cả. Con người phải nhận những lời chứng này và tin vào Đức Kitô; vì “ai không tin Đức Kitô, thì coi Thiên Chúa là kẻ nói dối, vì kẻ ấy không tin vào lời Thiên Chúa đã làm chứng về Con của Người.”
(2) Tin vào Đức Kitô mới có sự sống đời đời: “Lời chứng đó là thế này: Thiên Chúa đã ban cho chúng ta sự sống đời đời, và sự sống ấy ở trong Con của Người. Ai có Chúa Con thì có sự sống; ai không có Con Thiên Chúa thì không có sự sống.”
2/ Phúc Âm: "Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con."
3.1/ Sự khác biệt giữa hai Phép Rửa của Gioan và của Đức Kitô: Gioan Tẩy Giả phân biệt sự khác biệt như sau: "Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần." Phép Rửa làm bởi Gioan là phép rửa làm bởi con người để tha tội. Phép Rửa làm bởi Đức Kitô là phép rửa làm bởi Thiên Chúa, Đấng quyền thế hơn con người. Người chịu Phép Rửa sẽ được xức dầu bởi Chúa Thánh Thần, và được lãnh nhận mọi ơn cần thiết cho con người.
3.2/ Phép Rửa của Đức Kitô: “Hồi ấy, Đức Giêsu từ Nazareth miền Galilee đến, và được ông Gioan làm phép rửa dưới sông Jordan. Vừa lên khỏi nước, Người liền thấy các tầng trời xé ra, và thấy Thánh Thần như chim bồ câu ngự xuống trên mình. Lại có tiếng từ trời phán rằng: "Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con."”
(1) Tại sao Chúa Giêsu chịu Phép Rửa bởi Gioan? Phép Rửa của Gioan là phép rửa để tha tội. Tại sao Chúa Giêsu, Đấng không hề phạm tội, lại muốn chịu Phép Rửa của Gioan? Chính Gioan đã ngăn cản Ngài: "Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi!" Nhưng Đức Giêsu trả lời: "Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính." Bấy giờ ông Gioan mới chiều theo ý Người (Mt 3:14-15). Thánh Ambrose đưa một lý do khác: Chúa Giêsu, Đấng thánh thiện tinh tuyền, chịu Phép Rửa để thánh hiến nước của giòng sông Jordan; và Giáo Hội dùng nước này để rửa tội cho các tín hữu.
(2) Sự hiện diện của Chúa Thánh Thần dưới hình chim bồ câu: Truyền thống Do-Thái tin chim bồ câu tượng trưng cho sư hiền lành. Như Sách Tiên-tri trong Bài Đọc I mô tả Người tôi trung: Người chinh phục con người không bằng những lời đe dọa hay sức mạnh, nhưng bằng tình yêu và sự kiên nhẫn. Chúa Giêsu được xức dầu bởi Thánh Thần và được tấn phong để thi hành sứ vụ Cứu Độ.
(3) Tiếng của Chúa Cha tuyên phán: "Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con." Khác với trình thuật của Matthêu: “Đây là Con Ta yêu dấu, Ta hài lòng về Người.” Chúa Cha nói trực tiếp với Chúa Con, và bày tỏ sự hài lòng về tất vả mọi việc của Chúa Con làm. Nếu so sánh, chúng ta thấy trình thuật của Marcô gần với những gì tường thuật bởi tiên-tri Isaiah trong Bài Đọc I hơn.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

- Đức Kitô có đủ bằng chứng cho chúng ta tin tưởng nơi Ngài.
- Bổn phận của chúng ta là làm chứng cho Đức Kitô để mọi người đều tin vào ngài.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.


06/01/2018
THỨ BẢY ĐẦU THÁNG TRƯỚC LỄ HIỂN LINH
Mc 1,7-11

HÃY LÀM CHO NGÀI LỚN LÊN

“Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho  Người.” (Mc 1,7)

Suy niệm: Larry Stewart là “ông già No-en bí ẩn”. Trong suốt 26 năm, ông đã âm thầm tặng rất nhiều tiền cho các gia đình nghèo vào dịp Giáng Sinh. Nay bị bệnh hiểm nghèo, Larry phải tiết lộ danh tánh để kêu gọi mọi người tiếp tục hoạt động nhân ái của mình. Chuyện “cổ tích thời đại” này đã làm nhiều người cảm động và hưởng ứng. Tin Mừng hôm nay trình bày một thái độ chuẩn mực của Gio-an đối với Đức Giê-su. Khiêm tốn và thẳng thắn, Gio-an xác nhận rằng Đức Giê-su trổi vượt hơn mình và mình không đáng cởi quai dép cho Người. Đây là mẫu mực cho một bài giảng, bài giáo lý qui Ki-tô; hơn thế nữa, cả cuộc đời và con người của Gio-an cũng là mẫu mực cho cuộc đời và con người qui Ki-tô. Đức Ki-tô là trung tâm và giềng mối của tất cả. Người là Đấng Cứu Tinh của tất cả. Khác với “ông già No-en bí ẩn” trên kia, Người trao ban cho ta không phải một món quà nào đó, mà là chính bản thân Người, tức chính bản thân Thiên Chúa. Còn món quà nào lớn lao hơn?

Mời Bạn: Cuộc sống hôm nay xô bồ và tất bật. Người ta mải mê với đủ thứ chuyện trên đời và nhiều khi quên mất Đức Giê-su, hay khá hơn thì chỉ xem Người là một giá trị nào đó xen lẫn trong nhiều thứ giá trị khác. Trong bối cảnh ấy, người môn đệ của Chúa hôm nay càng phải triệt để qui Ki-tô như vị Tiền Hô của Người: nói năng, hành động, và cả con người mình phải được định hướng qui Ki-tô. Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại!

Cầu nguyện: Xin Chúa lớn lên trong con và trở thành tất cả ý nghĩa của đời con. Amen.
(5 phút Lời Chúa)


Con yêu du ca Cha (6.1.2018 – Th by)
Đc Giêsu chu phép ra là mu nhim đu tiên ca Năm S Sáng. Ánh sáng ca Thiên Chúa ch bng ta trên con người khiêm nhu.


Suy nim:
Sau khi mừng Lễ Chúa Hiển Linh cho các đạo sĩ dân ngoại,
chúng ta mừng Đức Giêsu được hiển linh trên sông Giođan,
dù theo Tin Mừng Máccô, cuộc hiển linh này chỉ mình Ngài biết.
Nghe lời kêu gọi của Gioan từ hoang địa,
bao người từ khắp nơi kéo đến thú tội và chịu phép rửa của ông.
Phép rửa này nhằm bày tỏ lòng sám hối để được tha các tội (Mc 1, 4-5).
Trong số những người xếp hàng chờ đến lượt mình,
có Đức Giêsu, một ông thợ mộc từ vùng Nadarét.
Đức Giêsu có thú tội với Gioan, và sám hối để được tha thứ không?
Đức Giêsu có biết mình là Đấng cao trọng mà Gioan loan báo không?
Chúng ta cần chiêm ngắm mầu nhiệm lạ lùng này thật lâu.
Hành vi công khai đầu tiên của Đức Giêsu
là đứng chung với đồng bào, với tội nhân,
là khiêm hạ để mình bị dìm xuống nước, hầu được thanh tẩy.
Nhưng vào chính giây phút Ngài lên khỏi nước (c. 10)
bất ngờ Ngài thấy trời cao mở ra:
Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống trên Ngài,
bất ngờ Ngài nghe tiếng Thiên Chúa nói riêng với mình :
“Con là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Con” (c. 11).
Đối với Đức Giêsu, đây thật là một mặc khải quan trọng.
Thiên Chúa vén mở mối tương quan Cha-Con thân thiết,
đồng thời ban Thần Khí để Thần Khí ở lại mãi với Đức Giêsu.
Nơi dòng sông Giođan hôm đó, có sự hiển linh của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Đức Giêsu là Đấng vô tội, vì luôn làm đẹp lòng Cha,
nhưng vẫn đến với Gioan để xin chịu phép rửa sám hối.
Đức Giêsu là Đấng gần gũi với Thiên Chúa như Con với Cha,
nhưng cũng gần gũi với anh em của mình.
Những gì đã xảy ra ở sông Giođan, sẽ xảy ra mãi cho Đức Giêsu.
Mỗi lần Ngài khiêm hạ dìm mình, xóa mình, hủy mình,
là mỗi lần Ngài được nghe, được thấy Thiên Chúa mặc khải.
Sau khi chấp nhận đi con đường thập giá (Mc 8, 31),
Đức Giêsu được biến hình và được Cha tỏ mình trên núi (Mc 9, 2).
Sau khi chấp nhận dìm mình trong cái chết nhục nhằn,
Đức Giêsu đã được Cha phục sinh và nâng dậy.
Có thể câu đầu tiên Chúa Cha nói với Ngài là: “Cha hài lòng về Con”.
Cuộc sống người Kitô hữu cũng là liên tục dìm mình.
Thánh Phaolô nói: khi được dìm vào nước lúc chịu phép thánh tẩy,
chúng ta được dìm vào trong cái chết của Đức Giêsu (Rm 6,3).
Chỉ ai chấp nhận bị dìm như thế, người ấy mới được sống đời sống mới.
Đức Giêsu chịu phép rửa là mầu nhiệm đầu tiên của Năm Sự Sáng.
Ánh sáng của Thiên Chúa chỉ bừng tỏa trên con người khiêm nhu.
Cầu nguyn:

Lạy Chúa,
xin cất khỏi con mọi lo lắng bề ngoài.

Xin tha thứ cho con
vì đã quá bận tâm
đến những điều mình nói,
đến ảnh hưởng của mình,
đến những điều người ta nói và nghĩ về con.

Xin tha thứ cho con
vì muốn nên giống kẻ khác
mà quên mất chính mình,
vì khao khát có được những đức tính của họ,
mà quên phát triển bản thân.

Xin tha thứ cho con
vì đã mất nhiều thời gian
cho việc phô trương
hơn là cho việc xây dựng bản thân.

Xin cho con biết cởi mở với anh em;
nhờ đó, Chúa có thể đến với con
như đến với một người bạn.

Và Chúa sẽ làm cho con trở nên “người”
mà Chúa mong muốn trong tình yêu của Ngài
vì con là con của Chúa
và là anh em của mọi người.
(Michel Quoist)

Lm Antôn Nguyn Cao Siêu, SJ


HÃY NÂNG TÂM HỒN LÊN
6 THÁNG GIÊNG
Tiếng Gọi Của Lễ Hiển Linh
“Mầu nhiệm này tôi đã được mạc khải cho biết” (Ep 3,3). Giáo Hội lấy những lời ấy của Tông Đồ Phao-lô trong thư gửi giáo đoàn Ê-phê-sô để nhận hiểu ý nghĩa của ngày Lễ Hiển Linh (Epiphany), ngày lễ này đã được gọi tên như thế ngay từ thuở đầu của Giáo Hội. Chúng ta muốn suy tôn ân sủng của Thiên Chúa trong ngày lễ này, ân sủng dẫn con người đến với đức tin.
Vâng, mầu nhiệm Đức Kitô được vén mở cho con người nhận biết qua đức tin. Đây là cốt lõi của ngày Lễ Hiển Linh. Bằng một cách thức nào đó, đức tin này được mạc khải vào tâm khảm của kẻ nhận thần khải, như ngày ấy Đức Giêsu đã tự tỏ hiện cho Sao-lô người Tarsus trên đường đi Damas. Thế là, Phao-lô trở thành một chứng nhân đặc biệt nhờ cuộc trở về đón nhận đức tin. Như chính Phao-lô tuyên bố: “… anh em nghe nói đến ân huệ mà Thiên Chúa đã ưu ái ban cho tôi vì thiện ích của anh em” (Ep 3,2).
Thánh tông đồ muốn làm chứng hùng hồn cho ân sủng Hiển Linh. Và Giáo Hội lấy lại lời của Thánh tông đồ, vì trong lời chứng ấy chúng ta có thể nhận ra tất cả những ai được Đức Kitô kêu gọi qua đức tin. Tất cả những ai tin đều trở thành “người thông dự vào lời hứa của Đức Giêsu Kitô qua Tin Mừng” (Ep 3,6). Thánh Phao-lô muốn nhấn mạnh với chúng ta tiếng gọi giục giã loan báo Tin Mừng cho dân ngoại – vì chúng ta là những người đã tin. Đó là tiếng gọi đem ánh sáng mạc khải của Thiên Chúa đến cho các dân tộc. Đó là tiếng gọi của ngày Lễ Hiển Linh.



Hạnh Các Thánh
6 Tháng Giêng

   
Thánh Andre Bessette
    (1845 - 1937)


    Khi Alfred Bessette đến tu hội Các Thầy Thánh Giá vào năm 1870, anh mang theo tờ giấy giới thiệu của cha xứ viết rằng, "Tôi gửi đến các thầy một vị thánh." Thật khó để các thầy dòng ở đây tin nổi. Bệnh đau bao tử kinh niên đã khiến Alfred không thể đảm nhận được công việc nào lâu dài, ngay từ khi còn nhỏ Alfred đã lang thang từ nông trại này sang nông trại khác, tiệm này sang tiệm khác, ở ngay trên quê hương Gia Nã Ðại hoặc ở đất Hoa Kỳ, mà chỉ được có vài hôm là chủ nhân đã phải sa thải vì anh không thể làm được việc nặng nhọc. Công việc của các thầy dòng Thánh Giá là dạy học và dù đã 25 tuổi, Alfred vẫn chưa biết đọc biết viết. Dường như anh đến nhà dòng vì sự tuyệt vọng hơn là vì ơn gọi tu trì.
Alfred thật tuyệt vọng, nhưng anh cũng là người siêng năng cầu nguyện và rất thành tâm với Thiên Chúa cũng như sùng kính Thánh Giuse. Có lẽ anh chẳng còn nơi nào để nương tựa, nhưng anh tin rằng đây là nơi anh phải sống trong suốt cuộc đời.

    Nhà dòng nhận anh vào đệ tử nhưng sau đó không lâu họ thấy đúng như những gì trong quá khứ -- dù Alfred, bây giờ là Thầy Andre, rất muốn làm việc, nhưng sức khỏe không cho phép. Họ yêu cầu thầy rời nhà dòng, nhưng trong sự tuyệt vọng, thầy đã xin đức giám mục sở tại can thiệp để được ở lại và được giao cho công việc khiêm tốn là gác cổng trường học Notre Dame ở Montreal, cùng với các nhiệm vụ phụ là dọn lễ, giặt giũ và đảm trách việc thư từ. Thầy Andre khôi hài rằng, "Khi tôi gia nhập cộng đoàn này, cha bề trên chỉ cho tôi cánh cửa ấy, và tôi ở đó suốt 40 năm."

    Trong căn phòng nhỏ bé của ngài ở gần cổng trường, hầu như suốt đêm ngài quỳ gối cầu nguyện. Trên thành cửa sổ, trông ra đồi Royal, là bức tượng Thánh Giuse nhỏ, là người mà thầy hằng sùng kính ngay từ khi còn nhỏ. Khi được hỏi về điều ấy thầy trả lời, "Một ngày nào đó, Thánh Giuse sẽ được tôn kính một cách đặc biệt trên đồi Royal!"

    Khi biết có ai bị đau yếu, ngài đến thăm để cổ võ tinh thần cũng như để cầu nguyện với họ. Ngài cũng thường thoa lên bệnh nhân chút dầu lấy từ chiếc đèn luôn cháy sáng trước tượng Thánh Giuse trong nguyện đường của trường học. Từ đó tiếng đồn về sức mạnh chữa lạnh bắt đầu lan tràn.

    Khi bệnh dịch bùng nổ từ một trường kế cận, Thầy Andre đã xung phong đến đó chăm sóc bệnh nhân. Không một ai bị thiệt mạng. Số người bệnh đến với thầy ngày càng gia tăng. Cha bề trên cảm thấy bối rối; giới thẩm quyền địa phận nghi ngờ; các bác sĩ gọi ngài là lang băm. Thầy thường lập đi lập lại rằng "Ðâu có phải tôi chữa mà là Thánh Giuse đó." Sau cùng thầy phải cần đến bốn người thư ký để trả lời 80,000 lá thư ngài nhận được hàng năm.

    Ðã nhiều năm Tu Hội Thánh Giá cố nài nỉ để mua lấy miếng đất trên ngọn đồi Royal nhưng không thành công. Thầy Andre và một vài người khác đã leo lên đó để đặt một tượng Thánh Giuse. Bỗng dưng, chủ đất đồng ý. Thầy Andre quyên góp được $200 để xây một nhà nguyện nhỏ và dùng làm nơi tiếp khách thập phương mà ở đó lúc nào thầy cũng tươi cười để thoa dầu Thánh Giuse trên bệnh nhân. Có người được khỏi bệnh, có người không. Số nạng, gậy chống cũng như xe lăn người ta bỏ lại để minh chứng cho sức mạnh chữa lành của Thánh Giuse ngày càng gia tăng.

    Nguyện đường cũng cần được nới rộng thêm. Vào năm 1931, một thánh đường to lớn được khởi công xây cất, nhưng tài chánh bị thiếu hụt vì đó là thời kỳ kinh tế đại suy thoái. "Hãy đặt tượng Thánh Giuse vào trong ấy. Nếu ngài muốn có mái che trên đầu thì ngài sẽ giúp cho." Sau cùng, Vương Cung Thánh Ðường Thánh Giuse nguy nga trên đồi Royal đã hoàn thành sau 50 năm xây cất. Nhưng Thầy Andre đã không được chứng kiến ngày huy hoàng đó, và đã từ trần năm 1937 khi thầy 92 tuổi.

    Lời Bàn

    Thoa lên vết thương với dầu và ảnh tượng? Ðặt một ảnh tượng để mua được miếng đất? Ðó có phải dị đoan không? Ðó có phải là những gì chúng ta muốn quên đi không?

    Người dị đoan chỉ trông nhờ vào "yêu thuật" của lời nói hay hành động. Dầu và ảnh tượng của Thầy Andre là những dấu tích đích thực của một đức tin đơn sơ, trọn vẹn nơi Thiên Chúa Cha là Ðấng đã giúp vị thánh của thầy chữa lành cho các con cái của Thiên Chúa.

    Lời Trích

    "Chính cây cọ nhỏ bé đã giúp nghệ nhân hoàn thành bức họa tuyệt mỹ."
    
    Trích từ NguoiTinHuu.com


6 Tháng Giêng

    Vị Vua Thứ Tư

    Hôm nay lễ Ba Vua. Phúc Âm chỉ nhắc đến ba vị vua. Thế nhưng văn sĩ Joergernen người Ðan Mạch thì lại tưởng tượng ra một vị vua thứ tư. Vị vua thứ tư này đến chầu Chúa Giêsu sau ba vị vua khác. Triều bái Hài Nhi Giêsu nhưng mặt ông tiu nghỉu bởi vì ông không còn gì để dâng tặng Ngài.

    Trước khi lên đường, ông chọn ba viên ngọc quý nhất trong kho tàng của ông, thế những dọc đường gặp bất cứ ai xin, ông cũng mang ra tặng hết. Người thứ nhất mà ông đã gặp là một cụ già rét run vì lạnh. Ðộng lòng trắc ẩn, ông đã tặng cho cụ viên ngọc thứ nhất. Ði thêm một đoạn đường nữa, ông gặp một toán lính đang làm nhục một cô gái. Ông đành mang viên ngọc thứ hai ra thương lượng với chúng để chuộc lại cô gái. Cuối cùng khi tiến vào địa hạt Bêlem, ông gặp một người lính do vua Herôđê sai đi để tàn sát các hài nhi trong một ngôi làng lân cận. Vị vua thứ tư đành phải rút ra viên ngọc cuối cùng để tặng cho người lính và thuyết phục anh từ bỏ ý định gian ác.

    Tìm được Hài Nhi Giêsu, vị vua thứ tư chỉ còn hai bàn tay trắng. Ông bối rối kể lại cuộc hành trình của mình.

    Nghe xong câu chuyện, Hài Nhi Giêsu mỉm cười đưa bàn tay bé nhỏ ra đón nhận quà tặng của ông. Nó không phải là vàng bạc châu báu, nhưng là tấm lòng vàng được dệt bằng những nghĩa cử đối với tha nhân, nhất là những người túng thiếu, đói khổ, những người cần giúp đỡ.

    Mùa Giáng Sinh là mùa của những bất ngờ. Bất ngờ của một Thiên Chúa hóa thân làm người. Bất ngờ của một thiên Chúa giáng hạ trong hang súc vật. Bất ngờ sự việc những người nghèo hèn nhất trong xã hội đã nhận ra Tin Mừng. Bất ngờ của những người dân ngoại tìm đến triều bái Vua các vua. Nhưng điều khiến con người sẽ không bao giờ ngờ đến: đó là Ðấng Thiên Chúa hóa thân làm người ấy lại tự đồng hóa với mỗi một con người sinh ra trên cõi đời này, nhất là những con người bé mọn nhất trong xã hội. Ngài đã nói: tất cả những gì các người làm cho một trong những kẻ bé mọn nhất là các người làm cho chính Ta. Từ đây, người ta chỉ có thể gặp gỡ được Ngài qua tha nhân. Tất cả những gì người ta làm cho tha nhân là làm cho chính Ngài. Lễ dâng làm đẹp lòng Ngài nhất chính là những gì người ta trao tặng cho tha nhân, nhất là những người nghèo hèn túng thiếu hay bất cứ ai cần sự giúp đỡ.

    Trích sách Lẽ Sống


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét