13/01/2018
Thứ Bảy tuần 1 thường niên
BÀI ĐỌC I: 1 Sm 9, 1-4.
17-19; 10, 1a
"Này là người mà Chúa nói
đến. Saolê sẽ cai trị dân Người".
Trích sách Samuel
quyển thứ nhất.
Lúc bấy giờ có một người
thuộc dòng dõi Bengiamin tên là Cis, con trai của Abiel, Abiel con ông Sêror,
Sêror con ông Bêcora, Bêcora con ông Aphia, Aphia con một người dòng dõi
Bengiamin. Cis là một người cường tráng. Ông có một con trai tên là Saolê rất đẹp
trai và tốt lành, không một con cái Israel nào xinh đẹp bằng chàng và anh ta
cao hơn mọi người từ vai trở lên.
Vậy ông Cis, cha của
Saolê, lạc mất mấy con lừa cái, nên ông bảo con ông là Saolê rằng: "Con
hãy đem một đứa đầy tớ theo con, và đi tìm mấy con lừa". Họ đi khắp miền
núi Ephraim, sang vùng Salisa mà không tìm thấy, họ liền sang vùng Salim, cũng
không tìm thấy, đoạn qua vùng Giêmin, cũng chẳng thấy.
Khi Samuel vừa thấy
Saolê, thì Chúa phán cùng ông rằng: "Này là người Ta đã nói với ngươi,
chính người này sẽ cai trị dân Ta". Saolê đến gần Samuel đang đứng ở giữa
cửa và nói rằng: "Tôi xin ông làm ơn chỉ giùm nhà của vị tiên tri ở
đâu?" Samuel trả lời Saolê rằng: "Chính tôi là vị tiên tri đây; xin mời
anh đi trước tôi lên lầu, để hôm nay các anh sẽ dùng bữa với tôi, rồi ngày mai
tôi sẽ cho anh về. Tất cả những gì anh đang có trong lòng, tôi sẽ chỉ bảo cho
anh".
Samuel lấy bình dầu đổ
trên đầu Saolê, rồi hôn anh và nói rằng: "Đây Thiên Chúa xức dầu phong anh
làm vua thống trị cơ nghiệp của Người, và anh sẽ cứu dân Người thoát khỏi kẻ
thù ở chung quanh". Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 20, 2-3.
4-5. 6-7
Đáp: Lạy Chúa, do
quyền năng Chúa mà vua vui mừng (c. 2a).
Xướng: 1) Lạy Chúa, do
quyền năng Chúa mà vua vui mừng, do ơn Chúa phù trợ, vua bao xiết hân hoan!
Chúa đã ban cho sự lòng vua ao ước, và điều môi miệng vua xin, Chúa chẳng chối
từ. - Đáp.
2) Chúa đã tiên liệu
cho vua được phước lộc, may mắn, đã đội triều thiên vàng ròng trên đầu vua. Vua
xin Chúa cho sống lâu, thì Chúa đã ban cho một chuỗi ngày dài tới muôn thuở. -
Đáp.
3) Nhờ Chúa giúp mà
vua được vinh quang cao cả, Chúa khoác lên người vua, oai nghiêm với huy hoàng.
Chúa đã khiến vua nên mục tiêu chúc phúc tới muôn đời, Chúa đã cho vua được hân
hoan mừng rỡ trước thiên nhan. - Đáp.
ALLELUIA: Tv 129, 5
Alleluia, alleluia!
- Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy ở lời Chúa. -
Alleluia.
PHÚC ÂM: Mc 2, 13-17
"Ta không đến để kêu gọi
những người công chính, mà kêu gọi những người tội lỗi".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy Chúa Giêsu đi dọc
theo bờ biển, toàn dân đến cùng Người và Người giảng dạy họ. Khi vừa đi qua,
Người thấy ông Lêvi con của Alphê, đang ngồi nơi bàn thu thuế. Người bảo ông:
"Hãy theo Ta". Ông liền đứng dậy theo Người. Và xảy ra là khi Người
dùng bữa tại nhà ông, nhiều người thu thuế và tội lỗi cùng đồng bàn với Chúa
Giêsu và các môn đệ của Người, vì đã có nhiều kẻ theo Người. Những luật sĩ và
biệt phái thấy Người ngồi ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi, liền nói
với các môn đệ Người rằng: "Tại sao thầy các ông lại ăn uống với những người
thu thuế và tội lỗi?" Nghe vậy, Chúa Giêsu bảo họ: "Những người khoẻ
mạnh không cần gì đến thầy thuốc, nhưng là những người đau yếu. Ta không đến để
kêu gọi những người công chính, mà kêu gọi những người tội lỗi". Đó là lời
Chúa.
Suy Niệm : Kêu gọi người
tội lỗi
Ơn gọi của Lêvi được
coi là khác thường và gây ngạc nhiên hơn ơn gọi của các Tông đồ khác, bởi vì
ông là một người tội lỗi công khai. Lêvi sau này được gọi là Matthêu, một trong
bốn thánh sử, ông làm nghề thu thuế cho đế quốc Rôma, lúc đó đang cai trị xứ
Palestina. Những người làm nghề thu thuế được hưởng lợi tức cao, nhưng bị dân
chúng ghét bỏ vì thường xảy ra những vụ gian lận hoặc lạm thu.
Ðối với người Do thái,
những người thu thuế là gương mù cần phải tránh xa, xét về phương diện tôn giáo
và xã hội, vì hai lý do: thứ nhất, vì họ cộng tác với chính quyền ngoại quốc;
thứ hai, vì họ có bàn tay dơ bẩn bởi tiền của dơ bẩn. Ðối với những vị có trách
nhiệm về luật Môsê và về phụng tự, thì người thu thuế bị loại trừ khỏi ơn cứu độ,
vì họ bị coi như không thể từ bỏ con đường xấu xa, cũng không thể sửa lại những
gian lận trong nghề được. Do đó, tiền của người thu thuế dâng cúng vào đền thờ
không được nhận; họ không có quyền dân sự, không thể làm thẩm phán hoặc chứng
nhân, tất cả những tiếp xúc với họ đều bị coi là nhơ uế.
Nhưng đó không phải là
thái độ của Chúa Giêsu, bởi vì Ngài đến để kêu gọi những người tội lỗi. Việc
Chúa kêu gọi Lêvi, một người thu thuế tội lỗi và ghi tên ông vào số các Tông đồ,
đã bị những người Biệt phái chỉ trích và bị coi như một gương mù: "Sao ông
ấy lại ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi". Chúa Giêsu nghe những lời
chỉ trích này và Ngài giải thích: "Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc,
chỉ có người đau ốm mới cần. Tôi đến không phải để kêu gọi người công chính,
nhưng để kêu gọi người tội lỗi".
Cũng như thời Chúa
Giêsu, ngày nay không thiếu những kẻ giả hình, tự cho mình là nhân đức, thánh
thiện, nhưng lại khinh thường kẻ khác. Cần phải sống kinh nghiệm tình yêu
thương của Thiên Chúa để hiểu được bài Tin Mừng hôm nay. Không gì an ủi hơn việc
khám phá ra tình thương của Thiên Chúa đối với người tội lỗi. Thiên Chúa đã so
sánh mình với vị Mục Tử nhân lành dám bỏ 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc,
và khi tìm được Ngài vác nó trên vai đưa về đàn chiên. Việc Thiên Chúa yêu
thương người tội lỗi không có nghĩa là Ngài dung thứ tội lỗi. Tình yêu thương của
Thiên Chúa không miễn trừ việc nhìn nhận lỗi lầm của con người, cũng không cho
phép con người lạm dụng lòng nhân hậu của Ngài. Chúa Giêsu đã đến để giải thoát
con người khỏi ách nô lệ tội lỗi. Ngài thấu hiểu sự yếu đuối của con người và sẵn
sàng tha thứ, với điều kiện là con người thành thật nhìn nhận tội lỗi của mình
và trở lại với Ngài.
Hãy để ơn Chúa tha thứ,
cứu rỗi và giải thoát chúng ta. Như Lêvi xưa, xin Chúa cho chúng ta biết lắng
nghe tiếng Chúa và mau mắn chỗi dậy theo Chúa, ngay lúc này đây, sợ rằng ơn
Chúa qua đi mà không trở lại. "Hôm nay, nếu các ngươi nghe tiếng Chúa, các
ngươi đừng cứng lòng nữa".
(Trích trong ‘Mỗi Ngày
Một Tin Vui’)
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Thứ Bảy Tuần I TN2
Bài đọc: I
Sam 9:1-4, 17-19, 10:1a; Mk 2:13-17.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Công hiệu của Lời Chúa
Theo truyền thống
Do-Thái, một khi lời nói phát xuất từ miệng một người, nó có thể hiện hữu cách
độc lập. Nó không chỉ là một âm thanh với một ý nghĩa, nó còn có một năng lực
thoát ra để hoàn thành ý định của người nói. Ví dụ, biết bao việc làm là hậu quả
của những lệnh truyền của vua chúa và các vĩ nhân trên thế giới. Điều này càng
đúng hơn với Lời Chúa. Theo tiên-tri Isaiah: “Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ
trời không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và
đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn, thì lời
Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt
kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó” (Isa
55:10-11).
Các Bài Đọc hôm nay đặt
trọng tâm trong việc đề cao sự quan trọng của Lời Chúa. Trong Bài Đọc I, năm chẵn,
Thiên Chúa chọn ông Saul để làm vị vua đầu tiên của Israel, và Ngài xếp đặt mọi
sự để ông ngôn-sứ Samuel gặp và xức dầu phong vương cho ông. Trong Phúc Âm, Lời
của Chúa Giêsu có sức hấp dẫn một người thu thuế như Matthew, làm cho ông bỏ dĩ
vãng và sự nghiệp thu thuế, để trở nên một Tông-đồ và một Thánh-ký nhiệt thành
của Chúa Giêsu.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I (năm
chẵn): Đức Chúa đã xức dầu tấn phong ông làm
người lãnh đạo cơ nghiệp của Người.
1.1/ Thiên Chúa chọn Saul
làm vua đầu tiên của Israel: Nhìn lại cách
chọn người lãnh đạo của Thiên Chúa, chúng ta thấy Ngài không theo cách chọn lựa
của con người. Con người thường có khuynh hướng chọn người trong những dòng tộc
quan trọng, Thiên Chúa chọn Saul từ dòng dõi Benjamin, một dòng tộc nhỏ nhất
trong 12 chi tộc của Israel. Khi chọn David để thay thế Saul cũng thế, Thiên
Chúa không chọn các người con lớn và khỏe mạnh của ông Jesse; nhưng lại chọn
David, người con út là đứa chăn chiên đang ở ngoài đồng.
Sau khi đã chọn lựa,
Ngài quan phòng để ngôn-sứ Samuel có cơ hội gặp Saul bằng việc mất các con lừa.
Vì chuyện mất lừa, nên ông Kish, cha ông Saul, sai con ông đi tìm lừa:
"Con hãy đem một trong các người đầy tớ đi với con và lên đường đi tìm lừa."
Ông Saul đi qua miền núi Ephraim, rồi đi qua đất Shalishah, mà không tìm thấy.
Họ đi qua đất Saalim: cũng không thấy gì. Ông đi qua đất Benjamin, mà không tìm
thấy. Khi thấy trời đã tối, Saul muốn quay trở về nhà để cha mình khỏi mong mỏi;
nhưng người đầy tớ thúc giục ông đi vào thành trước mặt để vấn ý thầy thị kiến
cho biết những con lừa cái thất lạc hiện đang ở đâu.
1.2/ Ông Samuel xức dầu
phong vương cho Saul: Cùng lúc ấy, Thiên
Chúa cũng mặc khải cho ông Samuel trong một thị kiến, về người mà Ngài đã chọn
để làm vua đầu tiên của Israel (I Sam 9:16). Khi ông Samuel thấy ông Saul thì Đức
Chúa mách bảo ông: "Đây là người mà Ta đã nói với ngươi: chính nó sẽ cai
trị dân Ta."
Khi ông Saul lại gần
ông Samuel ở giữa cửa thành và nói: "Xin ông làm ơn cho tôi biết nhà thầy
thị kiến ở đâu." Ông Samuel trả lời ông Saul rằng: "Tôi là thầy thị
kiến đây. Ông hãy lên nơi cao, trước mặt tôi. Các ông sẽ dùng bữa với tôi hôm
nay. Sáng mai tôi sẽ để cho ông đi và sẽ nói cho ông biết tất cả những gì đang
làm ông bận tâm."
Hôm sau, ông Samuel dậy
sớm để tiễn Saul lên đường; và trên đường đi, ông Samuel lấy lọ dầu và đổ trên
đầu ông Saul, rồi hôn ông và nói: "Chẳng phải Đức Chúa đã xức dầu tấn
phong ông làm người lãnh đạo cơ nghiệp của Người sao?'' Và ông Samuel cũng cho
ông Saul biết về chuyện những con lừa cái đã được cha ông tìm lại được.
Qua sự quan phòng kỳ
diệu này cho chúng ta thấy tất cả tiến trình chọn người và phong vương được xếp
đặt bởi Thiên Chúa. Saul không biết và cũng không có ý định trở thành vua. Khi
Thiên Chúa đã chọn ai, Ngài sẽ xếp đặt mọi sự để việc ấy thành sự.
2/ Phúc Âm: Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi
người tội lỗi.
2.1/ Chúa Giêsu gọi Lêvi,
người thu thuế: “Đi ngang qua trạm thu thuế,
Người thấy ông Lêvi là con ông Anphê, đang ngồi ở đó. Người bảo ông: "Anh
hãy theo tôi!" Ông đứng dậy đi theo Người.”
Người Do-Thái quan niệm:
người thu thuế như ông Lêvi là người tội lỗi công khai, vì đã toa rập với nước
ngòai để bóc lột dân chúng. Họ bị ngăn cấm không cho vào Đền Thờ, và được xếp hạng
cùng với hàng đĩ điếm và trộm cướp. Chúa Giêsu không những chọn Matthew, mà còn
công khai dùng bữa với các người thu thuế khác tại nhà ông. Thái độ của Matthew
rất anh hùng và dứt khoát, vì một khi đã bỏ nghề thu thuế là ông đã mất tất cả
về phương diện vật chất. Nhưng bù lại, ông đã nhận được rất nhiều về phương diện
tinh thần: bình an vì từ nay không còn bị khinh thường, trở thành Tông-đồ, và
trở thành Thánh-sử để loan báo Tin Mừng của Chúa.
2.2/ Xung đột ý kiến giữa
Chúa Giêsu và Nhóm Biệt-phái: Có hai phản ứng
chính trong cuộc trở lại của Matthew:
(1) Những kinh-sư thuộc
nhóm biệt-phái: Thấy Người ăn uống với những kẻ tội lỗi và người thu thuế, thì
nói với các môn đệ Người: "Sao! Ông ấy ăn uống với bọn thu thuế và quân tội
lỗi!" Họ có lý phần nào khi kết tội Chúa Giêsu, vì như quan niệm của cha mẹ
Việt-nam "gần mực thì đen, gần đèn thì rạng." Nhưng quan niệm này
không thể áp dụng cho Đức Kitô, vì Ngài đến để chinh phục và mang con người về
cho Thiên Chúa.
(2) Đức Giêsu nói với
họ: "Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không
đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi." Ngược lại với
cách cư xử của con người, Thiên Chúa không giữ quá khứ tội lỗi của con người;
trái lại Ngài không ngừng kêu gọi con người từ bỏ quá khứ tội lỗi để hướng về
tương lai. Như một bác sĩ rành nghề, Chúa Giêsu biết Ngài có thể chữa bệnh cho
Matthew, và dùng những tài năng sẵn có của ông cho việc rao giảng Tin Mừng.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Lời Chúa có sức để
làm hiện thực những chuyện không thể đối với con người. Chúng ta đừng bao giờ
khinh thường hiệu quả của Lời Chúa.
- Lời Chúa có uy quyền
thay đổi những tâm hồn tội lỗi thành thánh thiện. Khi chúng ta quyết định áp dụng
Lời Chúa trong cuộc đời, chúng ta sẽ gặt hái những kết quả mà chúng ta không
bao giờ nghĩ có thể đạt được.
- Chúng ta phải dành địa
vị quan trọng cho Lời Chúa trong cuộc đời, được chứng tỏ qua việc chúng ta dành
thời gian, cố gắng khắc phục khó khăn, và thực thi Lời Chúa.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
13/01/2018
THỨ BẢY TUẦN 1 TN
Mc 2,13-17
Mc 2,13-17
NGƯỠNG MỘ MỘT BẬC THẦY
Đi ngang qua trạm thu thuế, Người thấy ông Lê-vi là con ông
An-phê, đang ngồi ở đó. Người bảo ông: “Anh hãy theo tôi!” (Mc 2,14)
Suy niệm: Khi kêu gọi Lê-vi làm môn đệ, Đức Giê-su biết rõ ông là một
nhân viên thu thuế. Đối với người Do Thái, người thu thuế bị coi là cộng tác với
ngoại bang là chính quyền Rô-ma để bóc lột dân tộc mình. Đó là chưa kể đến những
sự nhũng nhiễu lạm thu mà họ có thể gây ra. Người Do Thái gọi họ bằng cái tên
miệt thị “quân thu thuế” đồng hàng với “phường tội lỗi.” Ngày
ngày Lê-vi ngồi đó nơi trạm thu thuế như một kẻ tội lỗi công khai. Cũng chính tại
nơi này Chúa Giê-su đã bắt gặp Lê-vi và gọi ông đi theo Ngài. Chúa Giê-su không
coi Lê-vi như một chướng ngại cho sự hoà hợp trong nhóm môn đệ cũng như sứ vụ của
mình. Đức Giê-su đã gọi Lê-vi làm môn đệ và đồng bàn với ông để cảm hóa và chữa
lành ông như một bậc thầy đáng ngưỡng mộ.
Mời Bạn: Đức giáo hoàng Phanxicô
khuyến khích hãy “xây cầu” chứ đừng “xây tường”. Đức Giê-su đã từng “xây cầu”
qua việc chọn Lê-vi làm môn đệ mình mà không chấp nhất tội lỗi quá khứ của ông.
Sống ở đời ai cũng cần có người cộng tác giúp đỡ. Tha nhân sẽ là người giúp ích
cho ta và cho người khác nếu ta biết quên đi quá khứ tội lỗi của họ và kêu mời
họ sống và làm việc với mình như Đức Giê-su đã kêu mời Lê-vi.
Sống Lời Chúa: Nhìn vào việc Đức Giê-su
kêu gọi Lê-vi để xác tín hơn rằng mọi tội nhân đều có hy vọng đổi đời và mưu
ích cho người khác.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xin dạy chúng con biết nhìn về tương lai
của anh chị em kém thánh thiện trong niềm hy vọng họ sẽ đổi đời để chúng
con “xây cầu” như Chúa đã xây.
(5 phút Lời Chúa)
Kêu gọi người tội lỗi (13.1.2018 – Thứ bảy Tuần 1 Thường niên)
Hôm nay Đức Giêsu vẫn đi ngang
qua đời tôi, tưởng như tình cờ, vẫn thấy tôi và gọi tôi, vẫn mời tôi ra khỏi chỗ ngồi vững chãi của mình, và bỏ lại tất cả sau lưng.
Suy niệm:
Trong bài Tin Mừng hôm
qua, Đức Giêsu đã tha tội cho anh bất toại.
Và chuyện này đã bị các
kinh sư coi là phạm thượng (Mc 2, 6).
Trong bài Tin Mừng hôm
nay, ngài lại tiếp tục bị tấn công,
vì làm những điều dưới
mắt các kinh sư là gai chướng.
Trước hết là việc chọn
ông Lêvi vào số các môn đệ.
Như bốn môn đệ đầu tiên,
khi được gọi Lêvi cũng đang làm việc.
Lúc đó ông đang ngồi nơi
bàn thu thuế, bận bịu với tiền bạc và sổ sách.
Ánh mắt của Thầy Giêsu
chụp lấy ông và lôi cuốn ông.
Lời mời của Thầy thật rõ
ràng và ngắn gọn: “Anh hãy theo tôi.”
Lêvi có ngỡ ngàng không?
Ông đang làm một nghề bị
mọi người coi là ô uế
vì phải tiếp xúc với dân
ngoại và dính dáng đến dối trá tham lam.
Ông bị coi là tội nhân,
bị gạt ra khỏi cộng đoàn Dân Chúa.
Bây giờ ông được Thầy mời
vào nhóm môn đệ của mình
Đức Giêsu có liều lĩnh
không?
Ngài có sợ uy tín nhóm bị
giảm sút vì sự có mặt của Lêvi không?
Đức Giêsu không định
thành lập một nhóm gồm toàn những người hoàn hảo,
nên ngài đã chọn sự có
mặt của Lêvi.
Như thế ranh giới giữa
“môn đệ” và “tội nhân” đã bị xóa.
Môn đệ chính là tội nhân
được kêu gọi để chia sẻ tình bạn và sứ vụ.
Lêvi diễn tả niềm vui của
người được gọi bằng một bữa tiệc,
trong đó ông mời các bạn
bè đồng nghiệp đến để chia tay.
Đức Giêsu và các môn đệ
cũng được mời tham dự.
Ngài đã vui vẻ nhận lời,
đã đến nhà và ăn với họ, dù đây là điều bị cấm.
Để biện minh cho thái độ
này, ngài coi tội nhân như người đau ốm.
Người đau thì cần thầy
thuốc, cần sự lại gần để săn sóc của lương y.
Họ cần chữa lành và đón
nhận, chứ không cần phán xét và lên án.
Đức Giêsu chính là vị
lương y đến để kêu gọi người tội lỗi (c. 17).
Nhưng có ai trong chúng
ta lại không là tội nhân?
Có ai trong chúng ta lại
công chính thánh thiện
đến độ không cần phải sám
hối (Mc 1, 15)?
Hôm nay Đức Giêsu vẫn đi
ngang qua đời tôi, tưởng như tình cờ,
vẫn thấy tôi và gọi tôi,
vẫn mời tôi ra khỏi chỗ ngồi vững chãi của mình,
và bỏ lại tất cả sau
lưng.
Xin được như Lêvi đứng
lên ngay để theo Ngài.
Cầu nguyện:
Lạy Cha,
thế giới hôm nay cũng như
hôm qua
vẫn có những người bơ vơ
lạc hướng
vì không tìm được một
người để tin;
vẫn có những người đã
chết từ lâu
mà vẫn tưởng mình đang
sống;
vẫn có những người bị ám
ảnh bởi thần ô uế,
ô uế của bạc tiền, của
tình dục, của tiếng tăm;
vẫn có những người mang
đủ thứ bệnh hoạn,
bệnh hoạn trong lối nhìn,
lối nghĩ, lối sống;
vẫn có những người bị
sống bên lề xã hội,
dù không phải là người
phong...
Xin Cha cho chúng con
nhìn thấy họ
và biết chạnh lòng thương
như Con Cha.
Nhưng trước hết,
xin cho chúng con
nhìn thấy chính bản thân
chúng con.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
13 THÁNG GIÊNG
Những Sứ Giả Đầu
Tiên
Của Đức Tin
Gia đình Kitôhữu không
duy chỉ là một cộng đồng nhân loại. Món quà vô giá là sự sống con người cần phải
được tháp nhập vào chính sự sống của Đức Kitô và nhờ đó trở nên phong phú. Sứ mạng
chân chính của gia đình là bảo vệ các giá trị nhân bản, nhưng đồng thời gia
đình cũng phải dồn tâm lực đào sâu các giá trị Kitô giáo.
Nhiều người có thể bị
cám dỗ để nghĩ rằng chỉ các linh mục và tu sĩ mới được ủy trao trách nhiệm đối
với Giáo Hội. Thật là một quan niệm sai lầm. Rõ ràng chính gia đình là môi trường
đầu tiên để các trẻ em học biết thế nào là “thông dự vào lời hứa của Đức Giêsu
Kitô qua Tin Mừng” (Ep 3, 6). Như Công Đồng Vatican II nêu rõ: “Các đôi vợ chồng
Kitô giáo là những người cộng tác với ơn thánh và là nhân chứng đức tin đối với
nhau, cũng như đối với con cái và những phần tử khác trong gia đình của họ.
Chính họ là những người đầu tiên phải rao truyền và giáo dục đức tin cho con
cái mình. Bằng lời nói và gương sáng họ huấn luyện con cái sống đời Kitô giáo
và làm việc tông đồ. Họ thận trọng giúp đỡ con cái trong việc lựa chon ơn kêu gọi,
và nếu thấy chúng có ơn kêu gọi sống đời linh mục hay đời sống thánh hiến, họ tận
tình nuôi dưỡng ơn gọi ấy.” (SL Tông Đồ Giáo Dân 11)
Gia đình Kitôhữu là mảnh
đất đầu tiên để các ơn gọi nẩy mầm và phát triển. Đó là một chủng viện hay một
tập viện cho trẻ em. Chúng ta hãy dứt bỏ quan niệm sai lầm rằng Kitô giáo chỉ
là một cái gì đóng khung bên trong cánh cổng nhà thờ. Bất cứ gì diễn ra trong
phụng vụ cần phải được chuyển hóa vào đời sống hằng ngày. Gia đình phải là nơi
sống phụng vụ. Để rồi, sự sống trong Đức Kitô sẽ lớn lên và trưởng thành dưới
mái nhà của mỗi gia đình. Khi ấy, gia đình mới đích thực là một diễn tả chính
Giáo Hội.
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 13/01
1Sm 9, 1-4.17-19;
Mc 2, 13-17
LỜI SUY NIỆM: “Đi ngang qua
trạm thu thuế, Người thấy ông Lêvi là con ông Anphê đang ngồi ở đó. Người bảo
ông: “Anh hãy theo tôi”. Ông đứng dậy đi theo Người.”
Ông Lêvi, một con người
bị mọi người thù ghét, và bị xếp vào hàng người tội lỗi và ô uế. Nhưng đối với
Chúa Giêsu, khi Người đi ngang qua trạm thu thuế thấy ông, thấy khát vọng tận
dáy lòng ông. Người đã cất tiếng gọi ông, ông đã mạnh dạn đứng lên từ bỏ tất cả
mọi sự đi theo Người để trở thành bạn của Người , trở thành vị Tông Đồ của Người.
Lạy Chúa Giêsu. Ông
Lêvi đã gặp được Chúa là Đấng đến thế gian để tìm và cứu kẻ bị hư mất. Xin cho
chúng con cũng được diễm phúc như ông Lêvi, biết từ bỏ tất cả mọi sự mà bước đi
theo Chúa cho đến trọn đời.
Mạnh Phương
Hạnh Các Thánh
13 Tháng Giêng
Thánh Hilary ở Poitiers
(315 - 368)
Vị
trung kiên bảo vệ thiên tính của Ðức Kitô này là một người hiền lành và can đảm,
tận tụy sáng tác một số văn bản tuyệt vời về Ba Ngôi Thiên Chúa, và cũng giống
như Thầy Kitô, ngài được coi là "người xáo trộn sự bình an." Trong
giai đoạn cực kỳ khủng hoảng của Giáo Hội, sự thánh thiện của ngài nổi bật cả
trong lãnh vực uyên bác và tranh luận.
Sinh trưởng trong một gia đình ngoại giáo, ngài trở lại Kitô Giáo khi tìm thấy
Thiên Chúa qua Kinh Thánh. Sau khi lập gia đình và có được một người con gái là
Apra, ngài được chọn làm Giám Mục của Poitiers nước Pháp trái với ý muốn của
ngài. Không bao lâu ngài phải chiến đấu với một tai họa của thế kỷ thứ tư, là
bè rối Arian, những người khước từ thiên tính của Ðức Kitô.
Tà
thuyết này lan tràn nhanh chóng. Khi hoàng đế Constantius ra lệnh cho mọi giám
mục Tây Phương phải ký vào bản kết án Ðức Athanasius, vị bảo vệ đức tin của
Giáo Hội Ðông Phương, Ðức Hilary từ chối và bị trục xuất khỏi nước Pháp đến
vùng Phrygia hẻo lánh (khi bị lưu đầy là khi ngài được mệnh danh là
"Athanasius của Tây Phương"). Vị bảo vệ chính giáo một cách kiên cường
này lại là người rất nhân từ khi hòa giải các giám mục của nước Pháp, là những
người vì sợ mang tiếng là ngu dốt nên đã chấp nhận bản kinh tin kính của Arian.
Và trong khi ngài viết bản cáo trạng sắc bén lên án hoàng đế về tội bao che tà
thuyết, thì ngài lại ôn tồn giải thích rằng, đôi khi sự khác biêät giữa các học
thuyết chính giáo và lạc giáo chỉ là nghĩa chữ hơn là tư tưởng. Do đó, ngài
khuyên các giám mục Tây Phương đừng vội kết án. Chính vì vậy, ngài lại có thêm
những kẻ thù mới.
Trong thời gian lưu đầy và viết lách, ngài được mời tham dự một công đồng do
hoàng đế triệu tập để chống với Công Ðồng Nicea. Như chúng ta có thể tiên đoán,
Ðức Hilary đã đứng lên bảo vệ Giáo Hội, và khi ngài thách thức tranh luận một
cách công khai với vị giám mục đã đầy ải ngài, những người theo Arian, vì sợ buổi
tranh luận ấy và những hậu quả của nó, đã xin hoàng đế tống cổ "người xáo
trộn sự bình an" này về nhà. Nhưng thay vì về thẳng Poitiers, ngài đã sang
Hy Lạp và Ý, rao giảng chống lại tà thuyết Arian.
Có
lẽ một số người hiện nay nghĩ rằng tất cả những khó khăn ấy chỉ trên phương diện
ngôn từ. Nhưng Thánh Hilary không chỉ tham dự cuộc chiến ngôn ngữ, mà còn chiến
đấu cho sự sống vĩnh cửu của các linh hồn đã nghe theo tà thuyết Arian và không
còn tin vào Con Thiên Chúa, là nguồn hy vọng cứu độ của họ.
Cái
chết của hoàng đế Constantius năm 361 cũng chấm dứt việc bách hại Kitô Giáo
chính thống. Ðức Hilary từ trần năm 367 hoặc 368, và được tuyên xưng là tiến sĩ
Hội Thánh vào năm 1851.
Lời Bàn
Ðức
Kitô đã nói Ngài đến thế gian không để đem lại sự bình an nhưng đem lại gươm
giáo (x. Mátthêu 10:34). Nếu chúng ta nghĩ rằng sự thánh thiện chói lòa không
đem lại nhiều khó khăn thì điều ấy không được thấy trong Phúc Âm. Ngay cả giây
phút cuối cùng, Ðức Kitô cũng không thoát, mặc dù từ đó trở đi Ngài đã sống hạnh
phúc -- sau một cuộc đời đầy tranh đấu, khó khăn, đau khổ và thất vọng. Ðức
Hilary, như mọi vị thánh khác, cũng không khác gì hơn.
Trích từ NguoiTinHuu.com
13 Tháng Giêng
Tiếng Chó Sủa
Những người có chức vụ và quyền hành trong bất
cứ xã hội nào cũng thường bị chỉ trích và chống đối.
Có một nhà lãnh đạo quốc gia kia thường
bị những người đối lập tấn công và thóa mạ một cách bất công, nhưng lúc nào ông
ta cũng tỏ ra bình thản như không có gì xảy ra. Một hôm, có người bạn hỏi lý do
tại sao ông có thể tỏ ra bình tĩnh được trước không biết bao nhiêu khiêu khích
của người khác, ông đã giải thích như sau:
"Tôi đã học được bí quyết giữ
bình tĩnh ngay từ lúc nhỏ. Chúng tôi sống bên cạnh một nhà láng giềng có nuôi một
con chó khó tính. Cứ mỗi lần trăng tròn, con chó lại sủa một cách giận dữ vô
căn cứ, có khi cơn sủa của nó kéo dài đến cả tiếng đồng hồ. Tất cả những người
xung quanh đều tỏ ra bực bội đối với con vật khó tính ấy, chỉ trừ có người chủ
của nó. Oâng không bao giờ tỏ ra bực bội, bởi vì ông ta là một người điếc.
Tất cả bí quyết của tôi nằm ở đó.
Trăng sáng, con chó sủa. Một lúc sau, nó lại mỏi mệt và thôi sủa mặc dù trăng vẫn
cứ sáng".
Kiên nhẫn chịu đựng thường bị xem như một thể hiện của tính thụ động, tiêu cực.
Có người còn gọi đó là nhân đức của người nghèo. Thế nhưng, trong cuộc sống, nhất
là trong hoàn cảnh hiện tại, có lẽ chúng ta cần đến nhân đức này hơn bao giờ hết.
Thiên Chúa là đấng kiên nhẫn. Kiên nhẫn vẫn là nét đặc thù trong công trình
sáng tạo của Ngài. Chúng ta có biết rằng trái đất của chúng ta có bao nhiêu tuổi
chưa? Các nhà địa chất nói với chúng ta rằng trái đất đã được cấu tạo qua từng
thời kỳ kéo dài đến cả triệu triệu năm. Ðịa chất học quả thực là môn học của sự
kiên nhẫn của Thượng Ðế. Thiên Chúa luôn tỏ ra kiên nhẫn đối với con người. Toàn
bộ Cựu Ước là một quyển ký lục về những nhẫn nhục chịu đựng của Thiên Chúa đối
với sự yếu đuối, khờ dại cũng như hung bạo của con người. Ngài phải chờ đợi đến
cả trăm năm để cho lụt Hồng Thủy trút xuống trên con người. Ngài chờ đợi đến cả
mười năm mới trừng phạt vua Saolô.
Tân
Ước lại càng cho chúng ta cảm nhận được bằng xương thịt. Tình yêu thương nhẫn
nhục, chịu đựng của Thiên Chúa. Chúng ta hãy chiêm ngắm sự nhẫn nhục của Chúa
Giêsu đối với các môn đệ, đối với kẻ thù của Ngài và nhất là đối với đám đông
nghèo khổ, lạc lõng. Nhưng nhất là những đau khổ, bách hại mà chính bản thân
mình gánh chịu, Chúa Giêsu chỉ biết giữ thinh lặng, thinh lặng không phải của
căm hờn, oán trách mà là của yêu mến, tha thứ cho đến cùng.
Trích sách Lẽ Sống







Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét