Trang

Thứ Hai, 15 tháng 1, 2018

16-01-2018 : THỨ BA - TUẦN II THƯỜNG NIÊN

16/01/2018
Thứ Ba tuần 2 thường niên


Bài Ðọc I: (năm II) 1 Sm 16, 1-13
"Samuel xức dầu cho Ðavít trước mặt các anh em ngài; và Thánh Thần ngự xuống trên ngài".
Trích sách Samuel quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Samuel rằng: "Ta đã loại bỏ Saolê không cho cai trị Israel nữa, thế mà ngươi còn thương khóc nó đến bao giờ? Ngươi hãy đổ dầu cho đầy bình và lên đường; Ta sai ngươi đến nhà Isai dân thành Bêlem. Vì Ta chọn một người con của ông ấy lên làm vua". Samuel thưa: "Làm sao mà đi được? Vì nếu Saolê hay biết việc đó, ông sẽ giết con". Chúa nói: "Ngươi hãy tự tay bắt một con bê trong đàn, và nói: 'Tôi đến để dâng lễ tế lên cho Chúa'. Ngươi sẽ mời Isai đến để dự lễ tế, Ta sẽ tỏ cho ngươi biết việc phải làm, và sẽ chỉ cho ngươi biết phải xức dầu cho ai?"
Vậy Samuel làm như lời Chúa dạy và đi đến Bêlem. Các vị kỳ lão trong thành bỡ ngỡ chạy đến Samuel mà nói rằng: "Ông đem bình an đến chăng?" Ông đáp: "Phải, bình an! Tôi đến để dâng lễ tế cho Chúa. Các ông giữ mình thanh sạch và cùng tôi đến dâng của lễ". Vậy ông làm cho Isai và con cái ông ấy được thanh sạch và mời họ đến dâng lễ tế. Khi (họ) vào nhà, Samuel gặp ngay Êliab và nói: "Có phải người xức dầu của Chúa đang ở trước mặt Chúa đây không?" Và Chúa phán cùng Samuel: "Ðừng nhìn xem diện mạo, vóc cao, vì Ta đã loại nó rồi; Ta không xem xét theo kiểu con người, vì chưng con người nhìn xem bên ngoài, còn Thiên Chúa thì nhìn xem tâm hồn". Isai gọi Abinađab đến và dẫn đến trước mặt Samuel. Samuel nói: "Cũng không phải Chúa chọn người này". Isai cho dẫn Samma đến. Samuel lại nói: "Nhưng Chúa cũng không chọn người này". Isai lần lượt đem bảy đứa con mình ra trình diện với Samuel. Samuel nói với Isai: "Chúa không chọn ai trong những người này". Samuel nói tiếp: "Tất cả con ông có bấy nhiêu đó phải không?" Isai đáp: "Còn một đứa út nữa, nó đi chăn chiên". Samuel nói với Isai: "Ông hãy sai người đi gọi nó về, vì chúng ta không ngồi vào bàn ăn trước khi nó về". Isai sai người đi tìm đứa con út. Ðứa út này có mái tóc hoe, có đôi mắt xinh và gương mặt đẹp. Chúa phán: "Ngươi hãy chỗi dậy, xức dầu lên nó, vì chính nó đó". Samuel lấy bình dầu ra, xức lên nó trước mặt các anh em, và Thánh Thần Chúa ngự trong Ðavít từ ngày đó trở đi. Còn Samuel đứng dậy trở về Rama.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 88, 20. 21-22. 27-28
Ðáp: Ta đã gặp Ðavít là tôi tớ của Ta (c. 21a).
Xướng: 1) Xưa trong cuộc thị kiến, Chúa đã phán cùng bầy tôi Chúa: "Ta đội mão triều thiên cho vị anh hùng, Ta cất nhắc người được kén chọn tự trong dân. - Ðáp.
2) Ta đã gặp Ðavít là tôi tớ của Ta. Ta đã xức dầu thánh của Ta cho người, để tay Ta bang trợ người luôn mãi, và cánh tay Ta củng cố thân danh người. - Ðáp.
3) Chính người sẽ thưa cùng Ta: "Chúa là Cha tôi, là Thiên Chúa và Tảng Ðá cứu độ của tôi". Và Ta sẽ đặt người làm trưởng tử, cao sang hơn các vua chúa ở trần gian. - Ðáp.

Alleluia: Ga 8, 12
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta sẽ được ánh sáng ban sự sống". - Alleluia.

Phúc Âm: Mc 2, 23-28
"Ngày Sabbat làm ra vì loài người, chứ không phải loài người vì ngày Sabbat".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Vào một ngày Sabbat, Chúa Giêsu đi qua đồng lúa, môn đệ Người vừa đi vừa bứt lúa. Tức thì những người biệt phái thưa Người rằng: "Kìa Thầy xem. Tại sao ngày Sabbat người ta làm điều không được phép như vậy?" Người trả lời rằng: "Các ông chưa bao giờ đọc thấy điều mà Ðavít đã làm khi ngài và các cận vệ phải túng cực và bị đói ư? Người đã vào nhà Chúa thời thượng tế Abiata thế nào, và đã ăn bánh dâng trên bàn thờ mà chỉ mình thượng tế được ăn, và đã cho cả các cận vệ cùng ăn thế nào?" Và Người bảo họ rằng: "Ngày Sabbat làm ra vì loài người, chứ không phải loài người vì ngày Sabbat; cho nên Con Người cũng làm chủ cả ngày Sabbat".
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Linh hồn của Lề Luật
Nói về luật pháp của con người, triết gia Schopenhauer đã ví von như sau: "Luật pháp cũng giống như một mạng nhện, những con ong gấu thì vượt qua một cách dễ dàng, những thứ ruồi nhặng thì kẹt lại". Ðây là một sự thật đau lòng mà chúng ta chứng kiến mỗi ngày trên khắp thế giới: những con ong gấu, tức những người làm ra luật, những kẻ có quyền thế trong tay, thường chiu qua những kẽ hở của luật pháp một cách dễ dàng; thế lực của đồng tiền, vây cánh, ô dù, giúp họ luôn đứng trên luật pháp mà chính họ lập ra.
Vào thời Chúa Giêsu không có chuyện ô dù, nhưng có một hạng người tự cho mình có quyền lập ra luật, bắt người khác giữ luật, còn mình thì không muốn lay thử một ngón tay. Tin Mừng hôm nay là khởi đầu của một cuộc đối đầu triền miên giữa Chúa và hạng người này, tức là nhóm Biệt phái về vấn đề luật pháp. Chúa Giêsu không phải là một người vô kỷ luật. Ngài sinh ra khi cha mẹ Ngài tuân theo lệnh kiểm tra dân số do Hoàng đế La mã ban hành; sau này Ngài vẫn đóng thuế như bất cứ một công dân của Ðế quốc nào. Trong lãnh vực tôn giáo Ngài tuân giữ lề luật của Môsê. Ngài cũng chịu cắt bì, được hiến dâng trong Ðền thờ vì là con trai đầu lòng, hằng năm lên Yêrusalem để mừng lễ, mỗi ngày hưu lễ Ngài cũng đến Hội đường.
Tuy nhiên, như Chúa Giêsu đã có lần tuyên bố Ngài đến là để kiện toàn lề luật, và kiện toàn lề luật là gì nếu không phải là mặc cho nó linh hồn là tình yêu; không có tình yêu thì lề luật chỉ là những thây chết, nhưng nói đến tình yêu là nói đến con người. Như vậy luật lệ là vì con người, là để giúp con người sống chứ không phải để đàn áp và giết chết con người; luật lệ chỉ có ý nghĩa và giá trị khi nó là một biểu lộ của tôn trọng và yêu thương đối với con người; trái lại, tất cả những luật lệ nào đi ngược lại với sự sống và tình yêu, đều là những luật lệ bất công. Trong Thông điệp "Tin Mừng Sự Sống" ban hành năm 1995, Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã kêu gọi các tín hữu mạnh mẽ và can đảm chống lại những thứ luật lệ xúc phạm đến chính sự sống của con người, như luật cho phép phá thai, luật cho phép kết liễu cuộc sống của bệnh nhân.
Là một xã hội, Giáo Hội cũng ban hành luật lệ. Tất cả lề luật của Giáo Hội được tóm gọn trong một giới luật duy nhất và nền tảng, đó là yêu thương. Ăn chay, giữ ngày Chúa nhật hoặc bao nhiêu khoản luật khác liên quan đến đời sống hôn nhân, tất cả đều qui về một luật duy nhất là để giúp các tín hữu sống tôn trọng và yêu thương con người. Như thế, người Kitô hữu chỉ có một giới răn để tuân giữ, đó là giới răn yêu thương, và họ cũng chỉ có một tinh thần duy nhất để tuân giữ lề luật, đó là tình yêu thương.
Nguyện xin Chúa hướng dẫn để chúng ta luôn sống đạo theo tinh thần yêu thương ấy.

Veritas Asia



LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Thứ Ba, Tuần II TN
Bài đọc I Sam 16:1-13; Mk 2:23-28.


GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Con người quí trọng hơn luật lệ.
Phẩm giá con người rất quí trọng trước mặt Thiên Chúa. Các Lề Luật Ngài ban là để bảo vệ và phục vụ con người. Trong sự quan phòng của Thiên Chúa, Ngài không bao giờ muốn cho con người phải làm nô lệ cho Lề Luật và tội lỗi; nhưng muốn Lề Luật phục vụ con người và làm cho đời sống con người được bảo vệ và an toàn hơn.
Các Bài Đọc hôm nay nói lên sự quan tâm của Thiên Chúa dành cho con người. Trong Bài Đọc I, năm chẵn, tác giả tường thuật việc Thiên Chúa chọn người và phong vương cho một trẻ chăn chiên nhỏ nhất và không ai ngờ trong những người con của ông Jesse; vì Ngài nhìn thấu tâm hồn cao đẹp của David. David đã trở thành vị vua sáng giá nhất của Israel. Trong Phúc Âm, các Pharisees tố cáo với Chúa Giêsu: các môn đệ của Ngài đã vi phạm luật của ngày Sabbath. Chúa Giêsu bảo vệ các môn đệ của Ngài có lý do làm như thế để bảo vệ sự sống. Ngài nhắc cho họ biết luật lệ làm ra là vì con người, chứ không phải con người cho luật lệ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
2/ Bài đọc I (năm chẵn): Người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng.
2.1/ Cuộc lựa chọn người làm vua trong số các con của ông Jesse: Thiên Chúa hứa Ngài sẽ hành động trong ngôn-sứ Samuel ngay tại nơi đang diễn ra cuộc lựa chọn người làm vua trong gia đình ông Jesse. Cả ngôn sứ Samuel và ông Jesse đều không hay biết hậu quả của những gì sắp xảy ra.
- Phản ứng của ngôn-sứ Samuel: Thoạt trông thấy Eliab, ông nghĩ: "Đúng rồi! Người Đức Chúa xức dầu tấn phong đang ở trước mặt Đức Chúa đây!" Nhưng Đức Chúa phán với ông Samuel: "Đừng xét theo hình dáng và vóc người cao lớn của nó, vì Ta đã gạt bỏ nó. Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng."
- Ông Jesse gọi Abinadab và cho cậu đi qua trước mặt Samuel, nhưng ông Samuel nói: "Cả người này, Đức Chúa cũng không chọn." Ông Jesse cho Samah đi qua, nhưng ông Samuel nói: "Cả người này, Đức Chúa cũng không chọn." Ông Jesse cho bảy người con trai đi qua trước mặt ông Samuel, nhưng ông Samuel nói với ông Jesse: "Đức Chúa không chọn những người này."

2.2/ Thiên Chúa chọn một trẻ út chăn chiên làm vua cai trị dân Người: Samuel lại hỏi ông Jesse: "Các con ông có mặt đầy đủ chưa?" Ông Jesse trả lời: "Còn cháu út nữa, nó đang chăn chiên." Ông Samuel liền nói với ông Jesse: "Xin ông cho người đi tìm nó về, chúng ta sẽ không nhập tiệc trước khi nó tới đây."
- Ông Jesse cho người đi đón cậu về. Cậu có mái tóc hung, đôi mắt đẹp và khuôn mặt xinh xắn. Đức Chúa phán với ông Samuel: "Đứng dậy, xức dầu tấn phong nó đi! Chính nó đó!" Ông Samuel cầm lấy sừng dầu và xức cho cậu, ở giữa các anh của cậu. Thần khí Đức Chúa nhập vào David từ ngày đó trở đi.
- Chính ông Jesse cũng không ngờ Thiên Chúa chọn David, một đứa trẻ út đang chăn chiên ngoài đồng. Đó là lý do mà ông không buồn cho gọi con về; nhưng Thiên Chúa nhìn thấu tâm hồn đẹp và các việc tốt lành của David. Ngài muốn chọn cậu làm vua cai trị dân Ngài và David đã trở thành vị vua nổi danh nhất của dân tộc Israel.
3/ Phúc Âm: Con Người làm chủ luôn cả ngày Sabbath.
3.1/ Người Pharisees tố cáo các môn đệ Chúa Giêsu vi phạm ngày Sabbath: Vào ngày Sabbath, Đức Giêsu đi băng qua một cánh đồng lúa. Dọc đường, các môn đệ bắt đầu bứt lúa. Người Pharisees liền nói với Đức Giêsu: "Ông coi, ngày Sabbath mà họ làm gì kia? Điều ấy đâu được phép!" Có tất cả 39 luật về ngày Sabbath ngăn cấm không cho làm việc, và các môn đệ phạm 4 luật bằng hành động bứt lúa để ăn: gặt (bứt lúa), xay (vò lúa trong tay), sàng (thổi vỏ đi), và chuẩn bị bữa ăn (làm lúa sẵn sàng để ăn). Sự tỉ mỉ của Luật có thể có thể làm chúng ta lắc đầu; nhưng đối với các Rabbi, nó liên quan đến tội, và có thể gây ra cái chết. Đó là lý do họ tố cáo các môn đệ với Chúa Giêsu, và họ chờ Chúa sửa phạt các môn đệ.
3.2/ Chúa Giêsu bảo vệ các môn đệ của Ngài: Chúa Giêsu đưa ra một trường hợp riêng đã được ghi lại trong Cựu Ước, và sau đó, Ngài thiết lập một qui luật chung về ngày Sabbath.
(1) Trường hợp vua David (I Sam 21:1-6): Người đáp: "Các ông chưa bao giờ đọc trong Sách sao? Ông David đã làm gì, khi ông và thuộc hạ bị thiếu thốn và đói bụng? Dưới thời thượng-tế Abiathar, ông vào nhà Thiên Chúa, ăn bánh tiến, rồi còn cho cả thuộc hạ ăn nữa. Thứ bánh này không ai được phép ăn ngoại trừ tư tế." Chúa Giêsu có ý muốn nói: trong trường hợp phải bảo vệ sự sống, con người có thể vi phạm Lề Luật.
(2) Luật chung của ngày Sabbath: Người nói tiếp: "Ngày Sabbath được tạo nên cho con người, chứ không phải con người cho ngày Sabbath. Bởi đó, Con Người làm chủ luôn cả ngày Sabbath." Điều này hiển nhiên, vì con người được Thiên Chúa tạo dựng trước khi luật về ngày Sabbath ra đời. Con người không được tạo dựng để trở thành nạn nhân hay làm nô lệ cho luật lệ của ngày Sabbath. Sở dĩ có luật lệ về ngày Sabbath là để bảo vệ con người, làm cho con người biết thân xác họ cần được nghỉ ngơi, và linh hồn họ cần được nuôi dưỡng bởi thức ăn tinh thần.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

- Phẩm giá con người chúng ta rất quí trọng trước mặt Thiên Chúa. Ngài đã hy sinh Người Con của Ngài để cứu chúng ta thóat khỏi làm nô lệ cho Lề Luật, tội lỗi, và sự chết.
- Nhờ lễ tế hy sinh của Người Con, chúng ta có thể đến trực tiếp với Thiên Chúa mà không cần qua trung gian; đến bất cứ lúc nào chứ không phải đợi một ngày cố định trong năm.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN,OP.

16/01/2018
THỨ BA TUẦN 2 TN
Mc 2,23-28

TINH THẦN GIỮ LUẬT

“Ngày sa-bát được tạo ra cho loài người, chứ không phải loài người cho ngày sabát.” (Mc 2,27)

Suy niệm: Một siêu thị yêu cầu khách hàng phải gửi mũ ở quầy trước khi vào siêu thị. Để thực hiện yêu cầu đó, nhân viên bảo vệ siêu thị khăng khăng không cho một ông khách nọ bước vào chỉ vì ông ta không có mũ để gửi. Thế là ông đành phải đi mua một cái mũ mới và gửi cho anh bảo vệ để được vào siêu thị. Tưởng chừng như đây chỉ là câu chuyện khôi hài của “những người thích đùa” thế nhưng nó lại minh hoạ lối sống đạo nệ luật của người Do Thái thời Chúa Giê-su, đặc trưng nhất nơi những người Pha-ri-sêu. Họ đặt ra những luật lệ theo ý riêng của họ chứ không theo ý muốn của Thiên Chúa; họ coi trọng việc giữ luật theo nghĩa đen, theo hình thức bên ngoài, mà bỏ quên tinh thần của lề luật là yêu thương. Chúa Giê-su lên án lối giữ luật vụ hình thức mà bỏ quên “điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công bình, lòng nhân ái và thành tín” (x. Mt 23,23). Người dạy chúng ta Lề Luật -điển hình là luật giữ ngày sa-bát- được đặt ra phải nhằm mục đích đem hạnh phúc đích thực cho con người.

Mời Bạn: Tôi có cảm thấy nặng nề vì sống theo luật Chúa dạy không (chẳng hạn dự lễ ngày Chúa Nhật, tôn trọng sự sống, chung thuỷ một vợ một chồng)? Tôi có chú trọng việc “xem lễ, đọc kinh” nhưng lại coi nhẹ việc sống công bình bác ái không?

Sống Lời Chúa: Mỗi sáng nhắc nhở mình giữ luật Chúa, luật Giáo Hội với lòng mến Chúa, yêu người, chứ không phải để được khen là đạo đức.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su! Xin cho chúng con biết làm mọi việc để thể hiện lòng yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng con. Amen.
( 5 phút Lời Chúa)


Con Người làm ch ngày sabát (16.1.2018 – Th ba Tun 2 Thường niên)
Trong thế gii quá cnh tranh hin nay, chúng ta cn được nhc nh v chuyn ngh ngơi đ sng cho mình, cho nhau, cho Chúa. Ngày Chúa Nht là thi gian tuyt vi đ sng c ba chiu kích y. 


Suy nim:
Các kitô hữu gốc Do Thái của Giáo Hội sơ khai
thường bị chê trách vì đã lơ là trễ nải trong việc giữ ngày sabát.
Giữ ngày sabát là điều hết sức quan trọng đối với người theo Do Thái giáo
Ai vi phạm ngày này có thể bị xử tử (Xh 31, 14), bị ném đá (Ds 15, 32-36).
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu hẳn đã soi sáng cho vấn đề này.
Câu chuyện xảy ra vào một ngày sabát.
Khi thầy trò băng qua đồng lúa, các môn đệ đã bứt các bông lúa.
Và hẳn họ đã vò lúa trong tay trước khi có thể ăn hạt bên trong.
Theo sách Đệ nhị luật (23, 26) thì hành động này được phép làm :
“Khi vào đồng lúa của người đồng loại, anh em có thể lấy tay bứt bông lúa.”
Nhưng theo các kinh sư, điều này bị cấm làm trong ngày sabát,
lý do là vì bứt lúa và vò trong tay cũng giống với hành vi gặt và xay lúa,
mà gặt và xay lúa là một trong ba mươi chín việc không được phép làm ngày sabát.
Từ đó người Pharisêu kết luận việc các môn đệ bứt lúa là phạm đến luật Môsê.
Ngày nay chúng ta có thể buồn cười về chuyện này,
nhưng nó nói lên việc các kinh sư vì sợ người ta phạm luật
nên sau này đã thêm thắt những quy định tỉ mỉ chi li.

Đức Giêsu đã trả lời người Pharisêu bằng đức cách trưng dẫn chuyện vua Đavít.
Trong truyền thống Do Thái, vua này thường được coi là đạo đức mẫu mực.
Đavít đã làm điều không được phép làm, đó là ăn bánh tiến (x. 1 Sm 21, 1-6).
Bánh này gồm mười hai ổ lớn được đặt trước nhà tạm (x. Lv 24, 5-9).
Vào mỗi ngày sabát, bánh mới được thay, bánh cũ chỉ dành cho các tư tế.
Khi kể câu chuyện về vua Đavít, Đức Giêsu muốn cho thấy rằng
nếu Đavít và các thuộc hạ có thể được miễn giữ luật liên quan đến bánh thánh
thì Đức Giêsu và các môn đệ trong trường hợp nào đó
cũng có thể được miễn giữ ngày sabát thánh (x. 1 Mac 2, 34-38).

Theo Đức Giêsu, ngày sabát được tạo cho loài người, chứ không phải ngược lại.
Người Pharisêu có lẽ đã quên đi mục đích của việc giữ luật ngày sabát.
Thiên Chúa lập nên ngày sabát để loài người có thời gian nghỉ ngơi
hầu nhớ đến công trình tạo dựng và giải phóng của Ngài (Đnl 5, 14-15).
Ngày sabát đúng là ngày của Chúa, dành cho Chúa,
nhưng nó cũng là ngày cho loài người sau sáu ngày làm việc vất vả.

Ngày nay chúng ta không còn giữ ngày sabát nữa,
nhưng giữ ngày Chúa Nhật, ngày của Chúa.
Cám ơn vị nào đã lần đầu tiên dùng từ này để chỉ ngày đầu tiên của tuần.
Trong thế giới quá cạnh tranh hiện nay, chúng ta cần được nhắc nhở
về chuyện nghỉ ngơi để sống cho mình, cho nhau, cho Chúa.
Ngày Chúa Nhật là thời gian tuyệt vời để sống cả ba chiều kích ấy.
Cầu nguyn:
Ngày lại ngày, lạy Thiên Chúa,
tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan,
hai tay cung kính, lạy Thiên Chúa muôn loài,
tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan.
Dưới bầu trời bao la,
trong cô đơn và thầm lặng,
với tấm lòng thanh tịnh,
tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan.
Trong thế giới ồn ào vì nhọc nhằn,
huyên náo vì đấu tranh,
giữa đám đông hối hả lăng xăng,
tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan.
Và khi đã hoàn tất việc đời,
lạy Thiên Chúa muôn loài,
một mình, lặng lẽ,
tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan.
(R. Tagore - Ðỗ Khánh Hoan dịch)

Lm Antôn Nguyn Cao Siêu, SJ


HÃY NÂNG TÂM HỒN LÊN
16 THÁNG GIÊNG
Thờ Ơ Hay Chống Lại Các Giá Trị
Của Gia Đình Là Tự Chuốc Lấy Tai Họa
Quyền lợi của gia đình, như chúng ta thấy, không phải chỉ là những vấn đề thuần túy thuộc địa hạt tâm linh tín ngưỡng mà xã hội trần thế có thể phớt lờ không đếm xỉa đến. Để thực thi sứ mạng của mình, Giáo Hội tích cực cổ võ cho các giá trị nền tảng của gia đình. Nhưng các nhà cầm quyền dân sự cũng phải đảm nhận trách nhiệm bảo vệ và đề cao các quyền lợi giúp thăng tiến và nâng đỡ đời sống hôn nhân.
Vận mệnh của cộng đồng nhân loại gắn kết chặt chẽ với “sức khỏe” của gia đình xét như một cơ chế trong xã hội. Khi quyền bính trần thế xem thường những giá trị mà gia đình Kitôhữu đem lại cho xã hội và khi quyền bính trần thế bàng quan đứng ngoài các giá trị đạo đức ấy, thì điều sẽ xảy ra là gia đình bị sụp đổ trong xã hội. Đồng thời, một thái độ dễ dãi đối với tình trạng sống chung chạ bên ngoài mối ràng buộc hôn nhân xem ra có thể là giải pháp cho một số vấn đề nào đó nhất thời. Song, về lâu về dài, tình trạng này sẽ phá hoại ghê gờm chính bản chất và phẩm cách của hôn nhân. Một xã hội như thế không thể tránh khỏi các hậu quả cay đắng.



Hạnh Các Thánh
16 Tháng Giêng

    Thánh Berard và Các Bạn
    (c. 1220)


    Rao giảng Tin Mừng thường là công việc nguy hiểm. Rời bỏ quê hương và thích ứng với các nền văn hóa mới, chính phủ mới và ngôn ngữ mới thì đã đủ khó khăn; nhưng đôi khi sự tử đạo còn vượt quá mọi hy sinh này.

    Vào năm 1219 với chúc lành của Thánh Phanxicô, Cha Berard rời Ý với các tu sĩ Peter, Adjute, Accurs, Odo và Vitalis để đi rao giảng ở Morocco. Trên đường đến Tây Ban Nha thì Cha Vitalis bị đau nặng và ngài xin các linh mục khác cứ tiếp tục sứ mệnh truyền giáo mà đừng bận tâm đến ngài.

    Các cha khác cố gắng đi rao giảng ở Seville nhưng không đạt được kết quả nào. Sau đó họ tiếp tục đến Morocco là nơi họ rao giảng ngay trên đường phố, trong khu thị tứ. Các ngài bị nhà cầm quyền Hồi Giáo khiển trách và ra lệnh cho họ phải rời bỏ nơi đó; nhưng họ từ chối. Khi các ngài lại tiếp tục rao giảng thì vua Thổ Nhĩ Kỳ tức giận đã ra lệnh xử tử họ. Sau khi bị đánh đập và khước từ những dụ dỗ để chối bỏ đức tin, các ngài đã bị chém đầu vào ngày 16 tháng Giêng, 1220.

    Họ là các tu sĩ Phanxicô đầu tiên được tử đạo. Khi Thánh Phanxicô nghe tin về cái chết của họ, ngài đã thốt lên, "Bây giờ tôi có thể thực sự nói rằng tôi có được năm Tu Sĩ Dòng!" Di hài của họ được đưa về Bồ Ðào Nha, là nơi một giáo sĩ trẻ của dòng Augustine vì cảm kích trước cái chết anh hùng của họ, đã gia nhập dòng Phanxicô và sang truyền giáo ở Morocco vào năm kế tiếp. Giáo sĩ trẻ tuổi đó là Thánh Antôn ở Padua.

    Năm vị tử đạo được phong thánh năm 1481.

    Lời Bàn

    Cái chết anh hùng của Thánh Berard và các bạn đã khơi dậy lòng khát khao truyền giáo của Thánh Antôn Padua và những người khác. Có rất nhiều tu sĩ Phanxicô đã đáp lại lời thách đố của Cha Thánh Phanxicô. Rao giảng Phúc Âm có thể nguy hại đến tính mạng, nhưng điều đó không thể ngăn cản các tu sĩ nam nữ của dòng Phanxicô ngày nay liều mạng sống đi rao giảng ở khắp nơi trên thế giới.

    Lời Trích

    Trước thời Thánh Phanxicô, Quy Luật của các dòng không nhắc đến việc rao giảng cho người Hồi Giáo. Trong Quy Luật năm 1223, Thánh Phanxicô viết: "Các tu sĩ, là những người được linh ứng để đi rao giảng cho người Saracen (Hồi Giáo và Ả Rập) và những người ngoại giáo khác, phải xin phép bề trên của họ. Nhưng các bề trên không được cho phép, trừ khi thấy người ấy thích hợp để được sai đi" (Chương 12).

    Trích từ NguoiTinHuu.com


16 Tháng Giêng

    Giấc Mơ Của Mẹ Têrêxa Calcutta
    
    Mẹ Têrêxa Calcutta, người được giải thưởng Nobel Hòa Bình năm 1979 và là người sáng lập viện của dòng Nữ Tử thừa sai Bác Ái chuyên phục vụ người nghèo và hấp hối, đã kể lại ơn gọi phục vụ của Mẹ trong một lá thư viết từ Calcutta như sau:

    "Trong những ngày đầu khi mới khởi sự làm việc cho những người cùng khổ nhất trong vùng ngoại ô, tôi bị sốt liệt giường. Trong cơn mê sảng, tôi bỗng thấy mình được đến trình diện trước mặt thánh Phêrô, người giữ cửa Thiên Ðàng. Nhưng Thánh Phêrô chận lại không cho tôi vào Thiên Ðàng. Ngài nói như sau: "Không thể để cho một người thuộc khu ổ chuột được vào Thiên Ðàng. Thiên Ðàng không có nơi cùng khổ".

    Tôi mới tức giận nói với Ngài như sau: "Thế ư? Vậy thì con sẽ làm mọi cách để làm cho Thiên Ðàng đầy dẫy dân cư của các khu ổ chuột và lúc đó, Ngài bị bắt buộc sẽ để cho con vào Thiên Ðàng".

    Tội nghiệp thánh Phêrô. Kể từ sau giấc mơ ấy, Mẹ Têrêxa và các nữ tu của Mẹ đã không để cho Ngài được ở yên phút nào. Không biết bao nhiêu người cùng khổ và cô đơn đã qua đời trong vòng tay ôm ấp của Mẹ và các nữ tu. Thiên Ðàng đã trở thành nơi cư trú của những người cùng khổ.

    Giai thoại trên đây của Mẹ Têrêxa Calcutta như muốn nói lên một chân lý: không ai nên Thánh một mình, không ai lên Thiên Ðàng một mình.

    Ðức Cha Fulton Sheen, vị diễn giả nổi tiếng trên các đài truyền thanh và truyền hình tại Hoa Kỳ, đã có lần phát biểu như sau: "Không ai trong chúng ta có thể vào Thiên Ðàng, nếu ở đó không có ai nói với chúng ta: chính tôi đã giúp đỡ để bạn được vào Thiên Ðàng".

    Ai cũng có thể là một trợ giúp để đưa chúng ta vào cửa Thiên Ðàng. Họ có thể là những người cùng khổ mà chúng ta chìa tay để san sẻ, để giúp đỡ. Họ cũng có thể là những người cách này hay cách khác làm cho chúng ta đau khổ. Nhưng ưu tiên hơn cả vẫn là những người chúng ta cố gắng làm cho hạnh phúc. Chính những người đó là kẻ giúp đỡ chúng ta được vào Thiên Ðàng. Nhưng Thiên Ðàng không đợi chờ ở đời sau. Hạnh phúc cũng không chỉ dành lại cho đời sau: Thiên Ðàng và Hạnh Phúc có thể đến với chúng ta ngay từ cõi đời này. Và Thiên Ðàng và Hạnh Phúc ấy là gì nếu không phải là mỗi lần chúng ta cố gắng làm cho người khác được hạnh phúc.

    Trích sách Lẽ Sống


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét