20/01/2018
Thứ Bảy tuần 2 thường
niên.
Bài Ðọc I: (năm
II) 2 Sm 1, 1-4, 11-12. 19. 23-27
"Cớ sao các anh hùng lại ngã gục trên chiến trường như thế?"
Khởi đầu sách Samuel quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, sau khi thắng quân Amalec, Ðavít trở về, và tạm nghỉ
hai ngày tại Sicelê. Qua ngày thứ ba, có người từ trại quân của Saolê trở về,
áo quần rách nát, đầu tóc đầy bụi bặm, anh đến trước mặt Ðavít sấp mình kính lạy.
Ðavít hỏi anh: "Ngươi từ đâu tới?" Anh ta trả lời: "Tôi trốn từ
trại quân Israel về". Ðavít lại hỏi: "Có chuyện gì xảy ra đó, hãy kể
lại cho ta nghe". Anh ta nói: "Dân chúng chạy trốn khỏi chiến trường,
nhiều người trong dân đã bị hạ sát, vua Saolê và thái tử Gionathan cũng tử trận".
Ðavít liền xé áo mình ra, các người hầu cận của ông cũng làm như thế. Tất
cả đều than van khóc lóc và ăn chay cho tới chiều để chịu tang vua Saolê, thái
tử Gionathan, dân Chúa và nhà Israel, vì họ ngã gục dưới lưỡi gươm. (Và Ðavít
đã khóc rằng:)
"Các nhân tài Israel đều bị giết trên núi. Cớ sao các anh hùng bị
ngã gục như thế?
"Saolê và Gionathan đáng yêu đáng quý, khi sống cũng như khi chết, họ
không hề lìa nhau. Họ lanh lẹ hơn chim phượng hoàng, và hùng dũng hơn loài sư tử.
Hỡi thiếu nữ Israel, hãy than khóc Saolê đi, người đã mặc cho các cô áo điều sặc
sỡ, đã gắn lên y phục các cô những đồ nữ trang bằng vàng.
"Cớ sao các anh hùng lại ngã gục trên chiến trường như thế?
"Gionathan đã bị giết trên đồi cao. Hỡi anh Gionathan, tôi thương tiếc
anh. Tôi yêu mến anh, và tình bạn giữa đôi ta cao quý hơn tình yêu phụ nữ.
"Cớ sao mà các anh hùng lại ngã gục như thế? Cớ sao binh khí lại bị
phá huỷ như thế?"
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 79, 2-3. 5-7
Ðáp: Lạy Chúa, xin tỏ thiên
nhan hiền từ Chúa ra, hầu cho chúng con được ơn cứu sống (c. 4b)
Xướng: 1) Lạy Ðấng chăn dắt của Israel, xin hãy lắng tai! Chúa là Ðấng
chăn dẫn Giuse như thể bầy chiên. Chúa ngự trên các Vệ Binh Thần, xin hiện ra
trong sáng láng, trước mặt con cháu Ephraim, Bengiamin và Manassê. Xin thức tỉnh
quyền năng của Chúa, và ngự tới để cứu độ chúng con. - Ðáp.
2) Lạy Chúa thiên binh, Chúa còn thịnh nộ tới bao giờ, bởi vì dân Chúa
đang dâng lời khẩn nguyện? Chúa nuôi chúng con bằng cơm bánh trộn giọt châu, và
cho chúng con uống bằng nước mắt chảy tràn trề. Chúa biến chúng con thành miếng
mồi cho lân bang tranh chấp, và quân thù phỉ báng chúng con. - Ðáp.
Alleluia: Ga 14, 5
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy là đường, là sự thật và là sự
sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy". - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 3, 20-21
"Những thân nhân của Người nói: Người đã mất trí".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy Chúa Giêsu cùng các môn đệ trở về nhà, và dân chúng đông đảo lại đổ
xô tới, đến nỗi Người không dùng bữa được. Những thân nhân của Người hay tin
đó, liền đi bắt Người, vì họ nói: "Người đã mất trí".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Vai trò của
gia đình
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta suy nghĩ về tương quan với Chúa Giêsu
và gia đình của Ngài, để từ đó rút ra những bài học thực tiễn về vai trò gia
đình đối với con người.
Chúa Giêsu đã sinh ra và lớn lên trong một gia đình. 33 năm sống kiếp làm
người, Ngài đã sống 30 năm với gia đình. Hơn nữa, cũng như bất cứ một người Á
Ðông nào, Chúa Giêsu rất xem trọng những mối giây liên hệ thân thuộc: trong ba
năm rao giảng công khai, Ngài vẫn tìm dịp trở về thăm làng cũ, và giữa lúc Ngài
bận bịu với sứ vụ công khai, bà con thân thuộc của Ngài vẫn tìm đến thăm Ngài.
Quả thật, Chúa Giêsu xem trọng những liên hệ máu mủ và tình bà con xóm giềng,
Ngài quí trọng gia đình; Ngài đề cao sự thánh thiêng và bất khả phân ly của
giây hôn phối. Tuy nhiên, Chúa Giêsu không lập gia đình; trong ba năm thi hành
sứ vụ công khai, Ngài sống xa gia đình, không nhà, không cửa.
Như vậy, đối với Chúa Giêsu, trên cõi đời này, gia đình cũng như mọi thứ
định chế khác của loài người đều không phải là những giá trị tuyệt đối. Chỉ có
một giá trị tuyệt đối, đó là con người, bởi có con người mới có một vận mệnh
vĩnh cửu. Tất cả đều hiện hữu vì con người. Trong Kinh Tin Kính, Giáo Hội tuyên
xưng: "Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trờ xuống
thế". Như vậy, ngay cả mầu nhiệm Nhập Thể cũng là vì con người. Chính Chúa
Giêsu đã tuyên bố rằng Ngài đến để phục vụ, chứ không phải để được phục vụ; nếu
Con Thiên Chúa nhập thể là để phục vụ con người, thì huống chi những định chế của
xã hội loài người. Tất cả đều hiện hữu vì con người: gia đình cũng như xã hội
hiện hữu vì con người, chứ không phải con người vì gia đình và xã hội.
Từ cái nhìn trên đây của Chúa Giêsu về gia đình, chúng ta có thể thấy được
vai trò của gia đình và một cách cụ thể mục đích của việc giáo dục trong gia
đình. Trong tuyển tập "Giới Luật Yêu Thương", Ðức Cha Bùi Tuần đã có
một phân tích sâu sắc về mục đích của việc giáo dục gia đình, Ngài viết:
"Các bậc cha mẹ muốn biết xưa nay mình nhằm mục đích gì trong việc
giáo dục con cái, thì hãy xét xem ta thường muốn gì, chờ đợi gì ở con cái. Có
phải muốn chúng nên giàu sang không? Có phải chờ đợi ở chúng một lợi lộc vật chất
chăng? Không thiếu những cha mẹ nhắm cái đó khi giáo dục con cái. Những hy vọng
đó không phải là xấu, nhưng chắc chắn không phải là chính mục đích mà cha mẹ phải
nhắm để đưa con cái mình đi tới. Mục đích chính đó là gì?"
Mục đích đó là giúp chúng nên người với tất cả ý nghĩa cao đẹp của nó. Mà
nên người trước hết là thực hiện đầy đủ ý nghĩa câu nói quen thuộc: "Con
người, đầu đội trời, chân đạp đất"... Chân đạp đất là thái độ phải thắng dẹp
những lôi cuốn tội lỗi thế tục, là đạp lên trên những gì làm cho mình ra hèn
như cát bụi, là đạp lên trên những gì đưa ta xuống đất, xuống địa ngục. Nếu
chân đạp đất chỉ những sự phàm trần, thì đầu đội trời chỉ những sự siêu phàm. Ðầu
đội trời chi thái độ vươn lên những gì cao thượng, đầu đội trời chỉ sự cố gắng
phóng mình tới lý tưởng xa vời, đầu đội trời chỉ sự hướng tâm con người về mục
đích ở tận bên kia thế giới, đầu đội trời chỉ nỗ lực băng mình lên cao để tìm về
quê hương trên trời.
Những suy tư của Ðức Cha Bùi Tuần gợi lại cho chúng ta câu nói của Chúa
Giêsu với cha mẹ Ngài khi hai Ðấng gặp lại Ngài trong Ðền Thờ Yêrusalem:
"Cha mẹ không biết con phải lo việc Cha con sao?" Ðầu đội trời chính
là lo việc Cha trên trời, là hướng về trời cao, là sống cho những giá trị vĩnh
cửu. Nên người thực sự là sống đúng ý nghĩa ba chữ "đầu đội trời", và
đó phải là mục đích của giáo dục gia đình, bất cứ hành động nào đi ngược mục
đích ấy đều là phản giáo dục.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tự vấn lương tâm xem đâu là những giá
trị đích thực mà chúng ta đang theo đuổi và muốn truyền đạt cho người khác.
Nguyện xin Ðấng là Ðường, là Sự Thật và là Sự Sống soi sáng và hướng dẫn chúng
ta.
Veritas Asia
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Thứ Bảy, Tuần II TN2
Bài đọc: II Sam 1:1-4, 11-12, 19, 23-27; Mk 3:20-21.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải nhận ra tình yêu vô biên
của Thiên Chúa và của tha nhân.
Khi yêu, con người làm
những việc bị người khác coi là điên khùng; chẳng hạn, đứng chờ người yêu dưới
mưa, hay sẵn sàng chết vì người mình yêu. Nhưng đối với những người đang yêu, họ
được thúc đẩy phải biểu lộ để chứng tỏ tình yêu. Chính Chúa Giêsu đã từng rửa
chân cho các tông-đồ và căn dặn các ông cũng phải rửa chân cho nhau. Ngài cũng
đã nói với các ông: “Không có tình yêu nào lớn lao cho bằng tình của người chết
vì yêu.” Ngài không chỉ nói, nhưng đã vác Thập Giá lên đồi Golgotha để chết cho
con người, để chứng tỏ tình yêu của Ngài.
Các Bài Đọc hôm nay tập
trung trong việc phải nhận ra những biểu lộ tình yêu qua những hy sinh của Chúa
Giêsu và của tha nhân. Trong Bài Đọc I, năm chẵn, David và toàn dân khóc thương
vua Saul, con vua là Jonathan, và những người đã tử trận. Tất cả nhớ lại những
gì hai cha con và binh lính đã hy sinh xương máu để bảo vệ dân chúng trong suốt
cuộc đời. Trong Phúc Âm, vì quá yêu thương dân chúng, Chúa Giêsu và các môn đệ
làm việc không ngơi nghỉ đến nỗi không có thời giờ để ăn uống. Thân nhân của
Người hay tin ấy, liền đi bắt Người, vì họ nói rằng Người đã mất trí.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
2/ Bài đọc I (năm chẵn): "Hỡi Israel, trên các đồi của ngươi, những người con
ưu tú đã bỏ mình."
2.1/ Phải biết tri ân những
người đã hy sinh xương máu để bảo vệ quốc gia:
(1) Nhà lãnh đạo biết
đặt lợi ích quốc gia lên trên những xung đột cá nhân: Thông thường, nhiều người
sẽ vui mừng khi thấy đối phương của mình không còn nữa, không còn phải lo đề
phòng tai hại, và nhất là ngày mình được làm vua sẽ thành tựu. Điều này không
đúng trong trường hợp của David, vì ông tôn trọng vua Saul, người đã được Đức
Chúa xức dầu phong vương; và yêu mến Jonathan, con vua, vì tình bằng hữu và ơn
cứu tử đã dành cho David. Hơn nữa, David còn đau buồn vì tình đồng bào và nghĩa
anh em của những người dân trong cùng một nước; vì thế ông đau đớn khi nghe tường
thuật hung tin bởi một binh lính thoát chết trở về: "Dân đã bỏ chiến trường
mà chạy trốn; nhiều người trong dân tử trận, cả vua Saul và con vua là ông
Jonathan cũng đã chết."
(2) Nhà lãnh đạo phải
có lòng biết ơn đối với những người đi trước: Tiền đồ của dân tộc được xây dựng
trên công lao và hy sinh xương máu của những thế hệ đi trước; vì thế, bổn phận
của những người đi sau là phải biết ơn, cầu nguyện, và cố gắng bảo vệ gia sản của
tiền nhân để lại. Để tỏ lòng thương tiếc và biết ơn, David nắm lấy áo mình mà
xé ra, và tất cả những người ở với ông cũng làm như vậy. "Họ cử hành tang
lễ, khóc lóc và ăn chay cho đến chiều để tỏ lòng thương tiếc vua Saul và ông
Jonathan, con vua, thương tiếc dân Đức Chúa và nhà Israel, vì những người này
đã ngã gục dưới lưỡi gươm." Tất cả những việc làm như: xé áo, bỏ đất lên đầu,
khóc lóc, và ăn chay là theo truyền thống khóc thương thân nhân của con cái
Israel.
2.2/ David khóc thương
Saul và Jonathan:
(1) Vua Saul và
Jonathan đã hy sinh xương máu để lo lắng và bảo vệ dân: Con người rất dễ quên
công ơn của các tiền nhân; nhất là những người mà họ có vấn đề với. Điều này đã
không xảy ra cho David, ông nhận ra những công ơn mà cha con của vua Saul đã làm
cho quốc gia. Sự hy sinh của họ là lý do đất nước được hưng thịnh và bảo vệ.
David khuyên các phụ nữ hãy khóc thương vua Saul và con ông vì những gì hai cha
con đã mang lại cho họ: "Thiếu nữ Israel hỡi, hãy khóc Saul, người đã mặc
cho các cô vải điều lộng lẫy, đính trên áo các cô đồ trang sức bằng vàng. Than
ôi! Các anh hùng đã ngã gục giữa lúc giao tranh! Trên các đồi của ngươi,
Jonathan đã bỏ mình!"
(2) David trân quí
tình bằng hữu và ơn cứu tử của Jonathan: Tình bằng hữu giữa David và Jonathan bắt
đầu bằng việc tôn trọng sự thật. Jonathan nhận thấy cha mình đã không cư xử
đúng đắn với tình yêu của David dành cho vua, lý do chỉ vì ghen tị những thành
công mà David đã gặt hái được qua việc giết tên khổng lồ Philistine. Jonathan
quyết định ngăn cản vua cha về việc đối xử bất công với David, bằng cách cho
David biết tất cả ý đồ của nhà vua (I Sam 19-20). Khi nghe tin Jonathan bỏ mình
trên chiến trường, David trân quí tình bằng hữu và ơn cứu tử của Jonathan dành
cho mình nên khóc thương ông như sau: "Jonathan, anh hỡi, lòng tôi se lại
vì anh! Tôi thương anh biết mấy! Tình anh đối với tôi thật diệu kỳ hơn cả tình
nhi nữ. Than ôi! Anh hùng nay ngã gục, võ khí đã tan tành!"
3/ Phúc Âm: Chúa Giêsu và các môn đệ quên mình để lo cho dân chúng.
3.1/ Lòng yêu thương của
Chúa Giêsu dành cho con người: “Người trở về
nhà và đám đông lại kéo đến, thành thử Người và các môn đệ không sao ăn uống được.”
Những việc này xảy ra là vì Chúa Giêsu và các môn đệ quá thương dân chúng. Nếu
Chúa Giêsu không muốn những điều này xảy ra, Ngài chỉ cần đình chỉ việc chữa
lành hay lánh đi một nơi hẻo lánh, là giải quyết được vấn đề. Chỉ có tình yêu
cho dân chúng mới thúc đẩy Chúa Giêsu và các môn đệ lâm vào hoàn cảnh này; tuy
vậy, các ngài vẫn vui vẻ phục vụ.
3.2/ Thân nhân không thể
hiểu nổi những gì Chúa Giêsu làm: “Thân nhân
của Người hay tin ấy, liền đi bắt Người, vì họ nói rằng Người đã mất trí.” Theo
thói thường, người không yêu không thể hiểu nổi lý lẽ của tình yêu. Các thân
nhân của Chúa Giêsu không thể nào hiểu nổi tình yêu của Chúa Giêsu dành cho
Chúa Cha và cho con người. Theo họ, cuộc sống như Chúa Giêsu đang sống là một
điên khùng và thất bại, vì Ngài phải:
(1) Lang thang khắp
nơi, nay đây mai đó, không có nghề nghiệp gì nhất định; trong khi theo họ, con
người phải có mái nhà an toàn và nghề nghiệp vững chắc để sinh sống.
(2) Kết bạn với những
người nghèo khổ và thất học; trong khi theo họ, phải có kiến thức và địa vị cao
trọng trong xã hội.
(3) Dám đương đầu với
quyền lực của giới cai trị tôn giáo như Biệt-phái, Kinh-sư, Cao-niên. Theo họ,
làm như thế là tự mang án tử cho mình.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Nhìn vào những gì
Chúa Giêsu đã, đang, và sẽ làm cho con người, chúng ta cảm nhận được tình yêu
thâm sâu của Ngài dành cho chúng ta. "Không ai dám hy sinh tính mạng cho
người khác; họa chăng có người dám chết vì người công chính. Đức Kitô đã chết
cho chúng ta khi chúng ta còn là tội nhân."
- Chúng ta cần loại bỏ
tính ích kỷ, kẻ thù của tình yêu và là mối đe dọa cho lợi ích chung; để biết nhận
ra và tri ân những hy sinh cao quí của mọi người đã làm ơn cho chúng ta trong đời.
- Vì Đức Kitô đã yêu
thương và hy sinh tất cả cho chúng ta, chúng ta không được ích kỷ để chỉ biết sống
cho mình; nhưng phải yêu thương và hy sinh cho người khác như Đức Kitô đã dạy
chúng ta.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN,OP.
20/01/2018
THỨ BẢY TUẦN 2 TN
Mc 3,20-21
Mc 3,20-21
NHẪN NẠI VỚI NGƯỜI THÂN
Khi những thân nhân của Ngài nghe biết điều này, họ liền đi
bắt Ngài, vì họ nói: “Ngài đã mất trí rồi.” (Mc 3,21)
Suy niệm: Chúa Giê-su đau khổ vì bị chính những người bà con cho là
người mất trí! Nhiều ki-tô hữu cũng chia sẻ cùng một nỗi đau với Chúa Giê-su
khi vì theo Chúa, họ phải đón nhận những thử thách khó khăn từ chính những người
thân của mình. Trong số những tín hữu Việt Nam đầu tiên có một nhân vật quan trọng
là bà Minh Đức Vương Thái Phi (1568-1649). Bà là phi của Chúa Nguyễn Hoàng. Bà
rất sùng đạo, bà đã làm một nhà nguyện riêng để cùng bổn đạo chung quanh tối
sáng tập trung cầu nguyện. Nhưng người con trai độc nhất của bà là Nguyễn Phước
Khê vì muốn Chúa Nguyễn Phước Lan khỏi nghi ngờ mẹ con ông có âm mưu lật đổ,
nên đã ra lệnh phá bình địa ngôi nhà nguyện này.
Mời Bạn: Không ít những ki-tô hữu
muốn chia sẻ ân huệ đức tin cao quí với những người thân của mình lại bị những
người này từ chối. Nhiều gia đình đau khổ vì chồng khô khan, vợ thất trung; nhiều
cha mẹ ưu phiền vì con cái nguội lạnh, hư hỏng. Thánh nữ Mô-ni-ca suốt 18 năm
trời ròng rã hy sinh, cầu nguyện cho Augustinô, con bà, được ơn trở lại. Chúa
đã nhận lời cầu xin tha thiết của bà. Bà để lại cho chúng ta một tấm gương sáng
về sự nhẫn nại với những người thân yêu yếu kém về đức tin.
Chia sẻ: Trong giáo xứ của bạn có những tín hữu sống đạo nhưng
không được người thân thuận tình, hãy cảm thông, cầu nguyện và nâng đỡ họ.
Sống Lời Chúa: Cảm tạ Chúa vì ơn đức tin
được đón nhận và nuôi đưỡng từ trong gia đình - Quan tâm chăm sóc đời sống đạo
của mọi người trong nhà.
Cầu nguyện: Đọc “Kinh Gia Đình.”
(5 phút Lời Chúa)
Người bị mất trí (20.1.2018 – Thứ bảy Tuần 2 Thường niên)
Đức Giêsu bao
giờ cũng vượt trên những gì chúng ta thường nghĩ. Cần thấy được sự khôn ngoan và lòng nhân hậu của Thiên Chúa nơi sự “mất trí” và điên rồ của Đức Giêsu trên thập giá.
Suy niệm:
Bài Tin Mừng hôm nay thật
là ngắn, chỉ gồm có hai câu.
Nhưng câu chuyện kể lại
có thế làm chúng ta bối rối.
Đức Giêsu đã gặp sự chống
đối từ phía các kinh sư và người Pharisêu.
Bây giờ Ngài lại gặp sự
hiểu lầm từ phía những thân nhân,
trong đó có thể có thân
mẫu của Ngài (x. Mc 3, 31).
Khi Đức Giê su
và các môn đệ trờ về nhà ở Caphácnaum,
đám đông lại kéo đến.
Nhu cầu thật lớn lao và
thúc bách khiến cả nhóm không thể nào có giờ ăn.
Thân nhân của Ngài nghe
tin ấy thì hốt hoảng.
Có lẽ họ đã đi từ quê
làng Nadarét đến để gặp Đức Giêsu.
Họ nghĩ Ngài bị mất trí
và họ muốn lôi Ngài về lại quê nhà.
Họ sẵn sàng dùng sức mạnh
để ép Đức Giêsu phải đi.
Kể cũng lạ nếu chỉ dựa
vào chuyện Đức Giêsu không ăn
để vội vã kết luận là
Ngài mất trí.
Các thân nhân chẳng để ý
đến chuyện đám đông chạy đến với Ngài
để được trừ quỷ, được
chữa bệnh và để được nghe giảng.
Làm sao một người mất trí
có thể làm được những việc như thế ?
Xem ra họ không hiểu mấy
về con người và sứ mạng của Đức Giêsu.
Thật ra dưới mắt của các
thân nhân,
Đức Giêsu có những điều
chẳng bình thường chút nào.
Ngài đã không lập gia
đình như những thanh niên khác.
Ngài đã bỏ nghề thợ mộc ở
Nadarét để lang thang khắp đó đây.
Dù không phải là người
học thức,
Ngài đã chiêu tập một
nhóm môn đệ chủ yếu là dân đánh cá,
đã giao du với những hạng
người nên tránh, đã dám đụng độ với các kinh sư,
và bây giờ Ngài đang mê
mệt với một đám đông cuồng nhiệt theo Ngài.
Họ tự hỏi ông Giêsu,
người thân của họ, có vấn đề gì về tâm lý không,
có rơi vào tình trạng
hoang tưởng tự đại không.
Chúng ta cần nhiều thời
gian để hiểu được sự “mất trí” của Đức Giêsu.
Quan hệ máu mủ có khi lại
làm cản trở việc nhận ra Ngài là ai.
Đức Giêsu bao giờ cũng
vượt trên những gì chúng ta thường nghĩ.
Cần thấy được sự khôn
ngoan và lòng nhân hậu của Thiên Chúa
nơi sự “mất trí” và điên
rồ của Đức Giêsu trên thập giá (1 Cr 1, 18).
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
dân làng Nadarét đã không
tin Chúa
vì Chúa chỉ là một ông
thợ thủ công.
Các môn đệ đã không tin
Chúa
khi thấy Chúa chịu treo
trên thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin
Chúa là Thiên Chúa
chỉ vì Chúa sống như một
con người,
Cũng có lúc chúng con
không tin Chúa
hiện diện dưới hình bánh
mong manh,
nơi một linh mục yếu
đuối,
trong một Hội thánh còn
nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thích ẩn
mình
nơi những gì thế gian chê
bỏ,
để chúng con tập nhận ra
Ngài
bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho
chúng con
để khiêm tốn thấy Ngài
tỏ mình thật bình thường
giữa lòng cuộc sống.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
20 THÁNG GIÊNG
Chia Sẻ Trong Công
Trình Cứu Chuộc
Chúng ta không được
phép quên lý do tại sao Đức Giêsu đã đến làm người trên cõi đời này. Người đã đến
để hoàn thành công trình cứu độ. Người đã hoàn thành bằng cách nào? Bằng đau khổ
và cái chết của Người trên Thập Giá và bằng chiến thắng của Người nơi cuộc Phục
Sinh vinh quang. Mọi lao động của con người, dù có vẻ tầm thường đến mấy đi nữa,
cũng đều tham dự vào công trình cứu độ này của Đức Giêsu. Như tôi đã nói trong
thông điệp về Lao Động: “Bằng thái độ chấp nhận những nỗi vất vả trong công việc
của mình, trong niềm kết hiệp với Đức Kitô Khổ Nạn vì chúng ta, chúng ta đang cộng
tác – một cách nào đó – với Con Thiên Chúa trong công trình cứu chuộc nhân loại;
chúng ta đang chứng tỏ mình là môn đệ đích thực của Đức Giêsu; chúng ta đang
vác thập giá hằng ngày của mình qua công việc mà mình được mời gọi đảm nhận.”
(Laborem exercens 27).
Giáo Hội cố gắng trung
thành với mẫu gương và chứng tá của Đức Kitô bằng cách kiên thủ với nỗi quan
tâm đến thiện ích của người lao động. Những thông điệp nổi tiếng của các giáo
hoàng, bắt đầu với Thông Điệp Rerum novarum của Đức Lê-ô XIII, luôn luôn bênh vực
quyền lợi về lương bổng và về điều kiện làm việc của người lao động.
Giáo huấn của Giáo Hội
dựa trên nguyên tắc rằng mọi con người đều được dựng nên giống hình ảnh Thiên
Chúa và đều được Thiên Chúa ban cho một phẩm giá độc đáo. Vì thế, cần phải bảo
đảm rằng không ai bị sử dụng thuần túy như một phương tiện sản xuất, như kiểu một
cỗ máy hay một con trâu, con bò… Giáo Hội bác bỏ mọi hệ thống xã hội và kinh tế
dẫn đến tình trạng tước đoạt nhân tính của người lao động.
Bên cạnh mối quan tâm
về điều kiện làm việc, Giáo Hội kiên quyết đòi hỏi rằng người lao động phải nhận
được món tiền lương xứng đáng – một món tiền lương có tính đến các nhu cầu của
gia đình họ nữa. “Đối với một người lao động trưởng thành có những trách nhiệm
gia đình, thì một món tiền lương công bằng nghĩa là phải đủ để tạo lập và duy
trì một gia đình đúng phẩm giá và bảo đảm tương lai của gia đình ấy nữa”
(Laborem exercens 19).
20/01/2018
Hạnh Các Thánh
20 Tháng Giêng
Thánh Sebastian
(257? - 288?)
Về
phương diện lịch sử, không có gì chắc chắn về Thánh Sebastian, ngoại trừ ngài
là một vị tử đạo Rôma, được sùng kính ở Milan ngay trong thời của Thánh
Ambrôsiô và được chôn cất ở Appian Way, có lẽ gần Ðền Thánh Sebastian ngày nay.
Việc sùng kính ngài lan rộng nhanh chóng, và ngài được nhắc đến trong vài sổ tử
đạo ngay từ năm 350.
Truyền thuyết về Thánh
Sebastian góp phần quan trọng cho nghệ thuật, có rất nhiều tranh ảnh về thánh
nhân. Chỉ có một truyền thuyết mà các học giả ngày nay đồng ý là việc thánh
nhân gia nhập quân đội La Mã và được Hoàng Ðế Diocletian giao cho việc chỉ huy
đội vệ binh, sau này khi Diocletian đi sang miền Ðông thì Hoàng Ðế Maximian kế
vị cũng giao công việc này cho thánh nhân. Không một hoàng đế nào biết Thánh
Sebastian là một Kitô Hữu và ngài đã bí mật giúp đỡ các vị tử đạo. Sau cùng,
ngài bị bắt gặp, bị đánh đập trước mặt Hoàng Ðế Maximian và được giao cho các
cung thủ của Mauritanian để hành hình. Thân thể ngài ghim đầy những mũi tên và
bị bỏ mặc cho chết dần mòn. Nhưng khi bà quả phụ Castulus đến tìm xác ngài để
đem chôn thì thấy ngài còn sống và bà đã săn sóc, giúp ngài bình phục. Sau khi
khoẻ mạnh, thay vì hèn nhát trốn tránh, ngài đã đứng chờ ở chỗ hoàng đế hay đi
qua và lớn tiếng lăng mạ ông vì sự tàn nhẫn đối với Kitô Hữu. Lần này thánh
nhân bị kết án tử hình, và bị đánh đập bằng gậy cho đến chết.
Trích
từ NguoiTinHuu.com
20 Tháng Giêng
Chuyện Một Khu Rừng
Một câu chuyện có thật đã được kể về nguồn gốc
của một khu rừng như sau: Một ông lão người Pháp nọ, sau khi vợ qua đời, đã
mang đứa con trai duy nhất của ông đến một vùng đất khô cằn nhất của Miền Trung
nước Pháp để lập nghiệp. Thật ra, người đàn ông chỉ muốn quên đi cái quá khứ
khó khăn vất vả.
Vùng đất khô cằn nơi ông đặt chân đến
chỉ còn vỏn vẹn năm ngôi làng nhỏ với rất ít dân cư sống trong những căn nhà
siêu vẹo đổ nát, đa số đã bỏ lên những thành phố lớn để tìm công ăn việc làm.
Oâng lão trên 60 tuổi đưa mắt nhìn khung cảnh xung quanh và đi đến kết luận: nếu
không có cây cối, chỉ trong vòng một thời gian ngắn, cả vùng này sẽ trở thành
sa mạc hoang tàn.
Sau khi đã dọn chỗ cho đàn cừu và một số gia súc khác,
ông lão bắt đầu đi bộ dọc theo các lối đi và nhặt từng hạt dẻ. Oâng chọn những
hạt dẻ tốt để riêng và ngâm vào nước. Khi mặt trời vừa lên, ông dùng một thanh
sắt nhọn moi những lỗ nhỏ và đặt cứ mỗi lỗ một hạt dẻ.
Ngày ngày như thế, trong liên tiếp 3
năm, ông lão đã trồng được 100 ngàn cây dẻ con. Oâng hy vọng rằng ít nhất 10
ngàn cây còn sống sót. Oâng cũng hy vọng rằng Chúa sẽ cho ông sống được thêm
vài năm nữa để làm cho xong công tác trồng cây này.
Ông qua đời năm 1947, hưởng thọ 89 tuổi.
Từ những hạt dẻ ông đã cặm cụi moi từng lỗ bỏ vào, nay nước Pháp đã có được một
trong những khu rừng đẹp nhất thế giới. Trong ba khóm rừng mỗi khóm dài 11 cây
số, những cây dẻ xanh tươi cao lớn đã có mặt để giữ nước mưa, làm cho cây cối
xung quanh được xanh tươi và biến khu đồi khô cằn ngày xưa thành những dòng suối
róc rách. Chim chóc đã trở lại. Sự sống cũng chớm nở. Dân chúng từ từ trở lại
các ngôi làng cũ để xây nhà và làm lại cuộc đời.
Sự
sống của thiên nhiên thường giúp con người bớt cô đơn. Ðồng ruộng, cây cỏ xanh
tươi, tiếng chim ca hót thường khơi dậy niềm vui sướng trong lòng người. Ðó là
lý do khiến cho những người sống ở thôn dã dễ có tâm hồn thanh thản và lạc quan
vui sống hơn người thành thị.
Lớn
lên ở thôn dã, chứng kiến cảnh gieo trồng của người nông dân, Chúa Giêsu đã mượn
những hình ảnh của những sinh hoạt thôn dã ấy để nói về Nước Trời. Người gieo
trồng nào cũng có niềm tin và sự lạc quan. Gieo hạt giống vào lòng đất là đặt tất
cả niềm tin tưởng phó thác của mình vào thiên nhiên. Có hạt rơi xuống đất tốt,
có hạt rơi bên vệ đường, có hạt rơi trong bụi gai. Nhưng kết quả cuối cùng vẫn
là vụ mùa tươi tốt. Có những hạt rơi vào đất tốt, có những hạt rơi bên vệ đường,
có những hạt rơi vào bụi gai. Có những kết quả trông thấy, có những âm thầm đau
khổ, có những bách hại dữ dội, nhưng cuối cùng Giáo Hội của Ðức Kitô vẫn tồn tại
và sinh ra được nhiều hoa trái của niềm Hy Vọng
Trích sách Lẽ Sống
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét