07/01/2018
Chúa Nhật Chúa Hiển Linh năm B
(Phần II)
Phụng vụ Lời Chúa: Chúa Nhật
lễ Chúa Hiển Linh, năm B
LỄ HIỂN LINH
Is 60, 1-6; Ep 3,2-3a.5-6; Mt 2, 1-12
ƠN CỨU ĐỘ PHỔ QUÁT
“Chúng tôi đã thấy vì sao
của Người xuất hiện bên phương Đông,
nên chúng tôi đến bái lạy
Người” (Mt 2, 2)
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài đọc 1
Đoạn sách Isaia 60,1-6 được
xem là lời an ủi dành cho thành Giêrusalem. Tiếp nối mạch ý tưởng của “sách an ủi”
trong Isaia Đệ Nhị (40-55), tác giả muốn củng cố niềm tin và hy vọng cho
Giêrusalem sau bao nỗi khó khăn nhục nhằn của cuộc lưu đày. Rồi đây, Giêrusalem
sẽ được chiếu sáng, được gặp lại con cái mình và ngoại bang sẽ đến để tăng cường
lực lượng, của cải, dân số.
Trước hết, thời kỳ lưu đày là
một khoảng thời gian đau buồn trong lịch sử Israel trong đó dân Chúa trở thành
đối tượng bị nhạo cười, chế diễu (Tv 80,7). Cuộc sống của dân Chúa trong thời
gian đó không khác gì đi trong đêm tối. Giêrusalem không còn là niềm tự hào mà
là sự ô nhục của dân Israel. Trong bối cảnh đó, Isaia khơi lên niềm tin và hy vọng
bằng lời mời gọi hãy đứng lên mà tỏa sáng vì chính Thiên Chúa là “bình minh chiếu
tỏa” trên Giêrusalem. Ánh huy hoàng của Giêrusalem không do nó tự tạo nên,
không đến từ những chiến công hiển hách mà đến từ chính Đức Chúa.
Hơn nữa, nhờ ánh sáng của
Thiên Chúa chiếu tỏa trên Giêrusalem mà các dân nước xung quanh sẽ nhận ra và
kéo đến. Ánh sáng không chỉ soi sáng giới hạn cho dân cư Giêrusalem mà thôi
nhưng còn là thứ ánh sáng đủ mạnh, đủ sáng, đủ hấp dẫn để thu hút chư dân. Ánh
sáng cũng soi đường để cho con cái Israel tản lạc từ phương xa được trở về, trở
về trong niềm vui sướng và tự hào (Is 60,4b). Như vậy, ánh sáng của Thiên Chúa
tạo nên điểm hội tụ và gặp gỡ, không chỉ giữa con cái Israel với nhau mà thôi,
mà còn mở rộng ra để quy tụ cả dân ngoại.
Sau cùng, nhờ ánh sáng của
Thiên Chúa, “mặt mày ngươi rạng rỡ, lòng ngươi rạo rực, vui như mở cờ, vì nguồn
giàu sang sẽ đổ về từ biển cả, của cải muôn dân nước sẽ tràn đến với ngươi” (Is
60, 5). Ánh sáng của Thiên Chúa làm cho sức hút của Giêrusalem trở nên mãnh liệt,
không những lôi kéo muôn dân kéo đến mà còn mang theo cả của cải. Tất cả đều do
bàn tay Thiên Chúa định liệu và sắp xếp (x. Is 66, 12).
Nhờ “ánh sáng” của Thiên Chúa
mà “muôn dân” từ các địa danh khác nhau như “Mađian, Êpha và Saba” mang theo
“vàng với trầm hương” đến Giêrusalem; qua hình ảnh này, ngôn sứ Isaia như muốn
cho thấy tính chất đại đồng của ơn cứu độ. Rồi đây những điều này sẽ được “ứng
nghiệm” trong bài trình thuật của thánh Mátthêu về ba nhà chiêm tinh đến bái lạy
Hài Nhi Giêsu.
2. Bài đọc 2
Một trong những câu hỏi mà
các Kitô hữu gốc Do Thái thời Giáo hội sơ khai đặt ra là liệu dân ngoại có được
cứu độ và được cứu độ nghĩa là thế nào. Thánh Phaolô, vị tông đồ của dân ngoại,
trả lời rõ ràng trong thư Êphêsô, thư gởi cho các Kitô hữu gốc dân ngoại, rằng:
đó là kế hoạch của Thiên Chúa, đã có từ trước muôn đời, loài người không hề được
biết, nhưng nay Thiên Chúa đã mạc khải ra (Ep 1,9-10; 3,3-10). Mầu nhiệm này được
thực hiện nơi Đức Kitô và được công bố trong Hội Thánh nhờ các Tông Đồ, cách
riêng Phaolô. Mầu nhiệm đó là gì?
Tác giả thư Hípri khẳng định
rằng Thiên Chúa đã từng mạc khải cách tiệm tiến qua các ngôn sứ trong Cựu Ước,
nhưng đến thời sau hết này Ngài mạc khải cách đầy đủ và trọn vẹn qua Thánh Tử
(Hr 1,1-2). “Trong Đức Kitô và nhờ Tin Mừng” (Ep 3,6), Thiên Chúa mạc khải cho
con người kế hoạch cứu độ cách tròn đầy, trong đó có chỗ cho cả dân ngoại. Đoạn
thư Êphêsô nêu lên ba điểm quan trọng của mầu nhiệm này:
- Một là, trong Đức Kitô và
nhờ Tin Mừng, dân ngoại được trở nên những người đồng thừa kế. Thật vậy, dân
ngoại cũng xứng đáng được nghe Tin Mừng và trong Đức Kitô, những ai tin đều được
trở nên con Thiên Chúa (Ga 1,12). Dân Do Thái tự hào mình là con cái Thiên
Chúa, nhưng tư cách làm con đó giờ đã được mở rộng ra cho dân ngoại nữa. Một
khi tin vào Đức Kitô, dân ngoại cũng trở nên con Thiên Chúa và vì là con, họ được
hưởng trọn vẹn quyền lợi của những người con, đó là được trở nên những người đồng
thừa kế.
- Hai là, trong Đức Kitô và
nhờ tin vào Tin Mừng được rao giảng cho cả dân ngoại, họ được trở nên thành phần
của cùng một thân thể. Phaolô khẳng định rằng chính Đức Kitô “đã liên kết đôi
bên, dân Do Thái và dân ngoại, thành một… đã tác tạo đôi bên thành một người mới
duy nhất nơi chính bản thân Người” (Ep 2,14-15). Trong Đức Kitô, không còn bất
kỳ một sự phân biệt, không còn bất kỳ sự chia cắt nào giữa những người cùng tin
vào Đức Kitô; họ đều được liên kết chặt chẽ với Đức Kitô thế nào thì cũng vì thế
mà được liên kết với nhau như vậy.
- Ba là, dân ngoại cũng được
đồng chia sẻ lời hứa. Nếu như trước kia dân ngoại “không có Đấng Kitô, không được
hưởng quyền công dân Israel… xa lạ với các giao ước dựa trên lời hứa của Thiên
Chúa” (Ep 2,14), thì nay nhờ tin vào Đức Kitô, họ được chia sẻ những gì Thiên
Chúa đã hứa với dân Do Thái. Xưa kia con cháu Israel nhận được lời hứa của Thiên
Chúa qua tổ phụ Ápraham (x. Gl 3,18.29), thì nay dân mới của Thiên Chúa bao gồm
cả dân ngoại cũng được chia sẻ lời hứa ấy qua chính Đức Kitô (Ep 3,6; x. Gl
3,16).
3. Bài Tin Mừng
Bài Tin Mừng theo thánh
Mátthêu vẽ lên cho chúng ta khung cảnh đối nghịch giữa hai nhóm người Do Thái
và dân ngoại về hành động (ra đi tìm kiếm hay thờ ơ, thụ động) và thái độ (đón
nhận hay chối từ).
Bài Tin Mừng đưa ra một thông
điệp rõ ràng rằng Thiên Chúa, qua ánh sao của mầu nhiệm Giáng Sinh, tỏ mình ra
không chỉ cho dân Do Thái mà còn cho cả dân ngoại, nhưng phản ứng của mỗi nhóm
lại khác nhau. Ba nhà chiêm tinh, đại diện cho nhóm dân ngoại, khi thấy ánh sao
đã nhanh chóng chủ động lên đường tìm kiếm. Họ dùng những phương tiện và khả
năng mình có để tìm cho ra nguồn gốc của ánh sao trời.
Trái lại, sự “bối rối” của
vua Hêrôđê, “bối rối” và sự “xôn xao” của cả thành Giêrusalem là biểu hiện sự
ngạc nhiên; ngạc nhiên của sự thờ ơ, thụ động. Họ thông thạo Kinh Thánh, biết
chính xác nơi sinh của “Đấng Kitô” là tại Bêlem, nhưng lại tỏ ra bàng quan; họ
không thấy hay vờ như không nhận ra ánh sáng sao trời. Nếu đem so sánh khoảng
cách từ Bêlem tới Giêsusalem với quãng đường mà những người “từ phương Đông” phải
vượt qua để gặp Hài Nhi Giêsu thì mới thấy khoảng cách lòng người mới là yếu tố
quyết định.
Thánh Phaolô đã diễn tả sự
thay đổi ngoạn mục này: “Trước kia anh em là những người ở xa, nhưng nay, trong
Đức Kitô Giêsu, nhờ máu Đức Kitô đổ ra, anh em đã trở nên những người ở gần”
(Ep 2,13); trái lại, những người được xem là “ở gần”, rất gần cả về không gian
lẫn thời gian, lại là những người “ở xa”, xa đến nỗi không thể nhận ra ánh sáng
sao trời.
Sau nữa, bài Tin Mừng còn cho
thấy sự đối nghịch về thái độ. Một đàng, các nhà chiêm tinh không tìm kiếm vì
tính tò mò nhưng vì một niềm xác tín về một vị vua mới sinh đáng cho họ tôn thờ.
Ngay từ trước lúc lên đường, họ đã chuẩn bị cho một cuộc gặp gỡ lớn lao. Cử chỉ
“vui mừng” khi thấy ngôi sao xuất hiện trở lại và thái độ cung kính thờ lạy,
dâng những phẩm vật họ mang theo vừa thể hiện thái độ xác tín vừa cho thấy lòng
kính tôn thần phục của họ đối với Hài Nhi Giêsu.
Đàng khác, hành động “bí mật”,
“hỏi cặn kẽ” các nhà chiêm tinh và lời hứa “để tôi cũng đến thờ lạy Người” của
vua Hêrôđê (Mt 2,7-8) chỉ là chiếc mặt nạ che dấu một âm mưu nham hiểm sẽ sớm bị
bóc trần (Mt 2,12). Rõ ràng, ngay từ đầu những người “ở gần” như vua Hêrôđê đã
không hề có ý định muốn kiếm tìm hay đón nhận mạc khải của Thiên Chúa nơi Hài
Nhi Giêsu. Họ không đón nhận ánh sáng cũng đồng nghĩa với việc họ đang sống
trong tối tăm.
Tác giả Tin Mừng thứ tư cũng
đã loan báo về sự xuất hiện của ánh sáng: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng
đến thế gian và chiếu soi mọi người” (Ga 1,9), nhưng đồng thời ông cũng chua
chát nhận ra một sự thật phũ phàng về sự chối từ của những người được xem là
“người nhà”, những người “ở gần” rằng: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà
chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11).
Tóm lại, Thiên Chúa, qua việc
sinh hạ của Hài Nhi Giêsu, mạc khải ơn cứu độ của Ngài cho mọi người. Đón nhận
hay chối từ, tìm kiếm hay thờ ơ, tôn thờ hay tìm cách loại trừ, chấp nhận ánh
sáng hay ở lại trong tối tăm là sự lựa chọn của mỗi người. Coi chừng! Những người
tưởng mình “ở gần”, có khi lại đang “ở rất xa”, còn những người bị xem là “ở
xa” lại biết tìm “lại gần”.
II. GỢI Ý ÁP DỤNG
1/ Ánh sáng của Thiên Chúa
chiếu tỏa đem lại niềm vui và hy vọng cho Giêrusalem vì đó là ánh sáng báo hiệu
thời kỳ đen tối đã qua; và nhờ ánh sáng đó, muôn dân tuôn đến mà tôn thờ Thiên
Chúa của Israel. Tôi có nhận ra ánh sáng của Chúa trong cuộc đời mình? Tôi có để
cho ánh sáng của Chúa lan tỏa đến những người xung quanh, nhất là những người
chưa nhận biết Chúa, bằng chính gương sáng đời mình khi tôi biết đem lại niềm
vui và hy vọng cho người khác?
2/ Thánh Phaolô xác quyết rằng
“trong Đức Kitô và nhờ Tin Mừng”, dân ngoại cũng được chia sẻ lời hứa cứu độ với
dân Israel, hợp thành một thân thể. Ơn cứu độ không dành riêng cho bất cứ ai mà
là cho mọi người nhờ nghe rao giảng Tin Mừng mà tin vào Đức Kitô. Tôi có sẵn
sàng rao truyền Tin Mừng mà tôi đã lãnh nhận, để những người khác cũng tin vào
Đức Kitô và cùng tôi hợp thành dân mới là Hội Thánh, có Chúa Kitô là đầu?
3/ Qua bài Tin Mừng Mátthêu,
Thiên Chúa tỏ mình ra cách rõ ràng cho dân ngoại, để họ cũng tìm tới mà tôn thờ
Hài Nhi Giêsu. Họ là những người “ở xa” nhưng đã tìm cách “lại gần” để tôn thờ
Con Thiên Chúa Nhập Thể. Mátthêu đồng thời cảnh báo những người “ở gần”, nhưng
lòng họ lại “rất xa” Thiên Chúa. Con Thiên Chúa đã từ xa đến gần với con người
qua mầu nhiệm Nhập Thể. Lòng tôi đang “ở xa” hay “ở gần” Người? Tôi có tìm cách
“đến gần” Người mỗi ngày? Tôi có làm cầu nối giúp cho những người “ở xa” Thiên
Chúa “đến gần” Ngài?
III. LỜI NGUYỆN
CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến!
Thiên Chúa muốn tỏ mình cho nhân loại và cứu độ tất cả mọi người trong Con Một
yêu dấu của Người. Vì thế, những ai vững lòng dõi bước theo ánh sáng của Chúa
soi dẫn sẽ tìm thấy ơn cứu độ. Cộng đoàn chúng ta hãy cảm tạ Chúa và tin tưởng
cầu xin:
1. Hội Thánh có sứ mạng loan
báo ơn cứu độ phổ quát cho thế giới. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi thành phần
trong Hội Thánh biết nỗ lực trở nên những ánh sao dẫn đường cho muôn dân bằng một
đời sống gương mẫu đạo đức và luôn dấn thân phục vụ.
2. “Vua người Do Thái mới
sinh ra hiện đang ở đâu?” Chúng ta cùng cầu nguyện cho những người thành tâm thiện
chí luôn khao khát chân lý, tìm thấy trong Tin Mừng của Chúa Kitô nguồn ánh
sáng đích thật, giúp họ định hướng cuộc đời trong hy vọng và bình an.
3. Các đạo sĩ đã gặp được Hài
Nhi Giêsu và bái lạy Người. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các cộng đoàn kitô hữu
luôn hợp nhất và không ngừng gắn bó mật thiết với Đức Giêsu qua việc tham dự
cách ý thức và tích cực vào hy tế Thánh Thể cùng các cử hành phụng vụ.
4. Họ đã dâng tiến Hài Nhi lễ
phẩm: vàng, nhũ hương và một dược. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong
cộng đoàn chúng ta biết tiến dâng cho Thiên Chúa của lễ cao quí xứng hợp là
chính con người cùng cuộc sống với những việc làm tốt lành và thánh thiện.
Chủ tế: Lạy Thiên Chúa là Cha
toàn năng hằng hữu, xin thương nhận tâm tình cảm tạ và những ý nguyện chân
thành của chúng con, cùng ban ơn giúp sức để chúng con luôn vững bước trong ánh
sáng của Đức Kitô và biết làm cho ánh sáng ấy bừng lên trong cuộc sống hằng
ngày. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
www.tgpsaigon.net
SCĐ LỄ HIỂN LINH A,B,C
(Chung cho 3 năm A,B,C)
CHỦ ĐỀ :
CHÚA GIÊSU LÀ ÁNH SÁNG CỦA MUÔN DÂN
"Khi Đức Giêsu sinh ra tại Bêlem, có mấy đạo sĩ từ Phương đông
đến bái lạy Ngài" (Mt 2,1-2)
Sợi chỉ đỏ :
- Bài đọc I : "Hỡi
Giêrusalem hãy tỏa sáng, các dân sẽ lần bước tìm về sự sáng của ngươi."
- Đáp ca : "Lạy Chúa,
các dân nước sẽ ca ngợi Ngài."
- Tin Mừng : "Chúng tôi
đã thấy ngôi sao của Ngài ở phương Đông và chúng tôi đến để triều bái
Ngài."
- Bài đọc II : "Nhờ Tin
Mừng, các dân ngoại được nên đồng thừa tự, đồng một thân thể và đồng thông phần
với lời hứa của Ngài trong Chúa Giêsu Kitô."
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Chúa Giêsu là ánh sáng. Trong
dịp lễ Giáng sinh, Ngài đã chiếu sáng các nhà thờ và các gia đình tín hữu.
Nhưng Ngài còn muốn là ánh sáng cho tất cả mọi người nữa.
Ngày hôm nay chúng ta mừng lễ
Hiển linh, kỷ niệm việc ngày xưa Chúa Giêsu đã tỏ mình ra cho các đạo sĩ, đại
diện cho lương dân. Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người ngoài Kitô giáo
cũng nhận được ánh sáng Chúa ; và cho chính chúng ta ý thức bổn phận mang ánh
sáng Chúa đến cho mọi người.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
- Chúng ta có tội vì quá thờ
ơ với việc mang ánh sáng Tin Mừng đến cho lương dân.
- Chúng ta có tội vì cộng
đoàn xứ đạo chúng ta không nêu gương sáng trước mặt mọi người.
- Chúng ta có tội vì không
quan tâm tìm ý Chúa qua những đấu chỉ hằng ngày.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I : Is 60,1-6
Mặc dù đang sống trong chốn
lưu dày, ngôn sứ Isaia đã mơ tới ngày hồi hương. Khi đó Giêrusalem sẽ được tái
thiết lại huy hoàng và là nơi thu hút muôn dân tuôn đến :
- Trong khi cả trái đất ngập
chìm trong tăm tối thì Giêrusalem lại bừng sáng, vì có Chúa là Ánh sáng đang ngự
ở đó.
- Bởi thế, muôn dân từ khắp
nơi sẽ tuốn về ánh sáng của Giêrusalem.
Trên thực tế, dân do thái đã
được hồi hương và Giêrusalem đã được tái thiết. Nhưng Giêrusalem đâu có được
đúng như Isaia đã mơ. Giấc mơ của Isaia chỉ được thực hiện trọn vẹn nơi Đức
Giêsu. Ngài chính là Ánh sáng đến trần gian.
2. Đáp ca : Tv 71
Tv này cầu nguyện cho một vị
vua lý tưởng mà trong triều đại ngài hòa bình và công lý ngự trị, mọi người đều
hạnh phúc.
Vị vua lý tưởng ấy cũng chính
là Chúa Giêsu.
3. Tin Mừng : Mt 2,1-12
Các "đạo sĩ" là những
nhà trí thức ở vùng Babylon phía Đông xứ Palestine. Do niềm tin có phần mê tín
rằng ngôi sao lạ là điềm báo một Đấng cứu tinh đã sinh ra, họ đã đi theo ánh
sao và tìm đến với Hài nhi Giêsu.
Nhưng cuộc hành trình của các
vị cũng không phải là trơn tru dễ dàng vì có lúc ánh sao biến mất. Nhưng nhờ
các vị kiên trì, ánh sao đã xuất hiện lại và cuối cùng các vị đã tìm đến nơi.
Như thế, qua ánh sao lạ, Chúa
Hài nhi đã tỏ mình ra cho đại diện lương dân, đang khi các nhà trí thức do thái
ở Giêrusalem tuy thông thạo Thánh Kinh nhưng đã không nhận ra Chúa.
4. Bài đọc II (Êp 3,2-6)
Để thấy được nét độc đáo của
đoạn thư này, trước hết chúng ta hãy lưu ý đến tâm thức của người do thái : họ
cho rằng dân tộc họ được Thiên Chúa đặc biệt tuyển chọn, cho nên ơn cứu độ là độc
quyền của họ.
Thánh Phaolô thì không nghĩ
như vậy. Trong thư viết cho dân thành Êphêxô, một "dân ngoại", ngài
tiết lộ cho họ biết một "mầu nhiệm", đó là Thiên Chúa đã trao sứ mạng
cho ngài đem ân sủng của Tin Mừng phân phát cho tất cả các dân. Nhờ Tin Mừng
này, mọi dân tộc đều trở thành "đồng một thân thể" với nhau và với Đức
Giêsu Kitô, hơn thế nữa họ trở nên "đồng thừa tự" để hưởng gia tài của
Đức Giêsu Kitô và "đồng thông phần" với lời hứa cứu độ của Ngài.
IV. GỢI Ý GIẢNG
1. Mặt trời là của ai ? Chúa
của ai ?
Chúa Giêsu là Ánh Sáng, ánh
sáng huy hoàng hơn cả mặt trời.
Nếu mặt trời không phải là của
riêng ai, thì Chúa Giêsu cũng là của mọi người, mọi dân. Ngài mang ơn cứu độ đến
cho muôn dân. "Không ai thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng đặt trên giá
để soi cho mọi người".
Bởi thế, ngay sau khi giáng
sinh, tỏ mình ra cho những kẻ chăn chiên nghèo hèn, Chúa Giêsu cũng sớm tỏ mình
ra cho các đạo sĩ đại diện cho lương dân.
Vì Chúa muốn tỏ mình ra cho
muôn dân, cho nên lương dân có quyền được biết Chúa, và những người đã biết
Chúa có bổn phận giúp cho lương dân biết Chúa.
Lời Chúa trong Thánh lễ hôm
nay dùng một hình ảnh vừa rất đẹp vừa rất hay để dạy chúng ta cách giúp cho người
khác biết Chúa, đó là Ánh Sáng :
- Hãy đưa cao Tin Mừng như
người ta nâng cao ngọn đuốc sáng để soi chiếu mọi vùng tăm tối.
- Cách sống của những người
đã biết Chúa phải là một ngọn đèn sáng gương mẫu cho những người chung quanh.
Chúa Giêsu nói : "Sự sáng của chúng con cũng hãy tỏa sáng trước mặt mọi
người. Còn Thánh Phaolô thì nói : "Anh em hãy chiếu sáng như những tinh tú
trên bầu trời".
2. Hành trình đức tin
Hành trình của các đạo sĩ là
hình ảnh minh họa cho hành trình của mọi kẻ tin :
a/ Hành trình khởi đầu bằng một
điều gì đó lạ lùng khiến người ta chú ý (thí dụ ánh sao lạ đối với các đạo sĩ).
Điều lạ lùng này mời gọi người ta từ bỏ nếp sống đã quen để dấn thân đi tìm một
cái gì đó cao hơn, xa hơn, tốt đẹp hơn.
b/ Tiếp theo là những bước
thăng trầm trong cuộc hành trình : có khi con đường rất bằng phẳng êm ái, có
khi lại quanh co gồ ghề, có lúc ánh sao sáng tỏ trên bầu trời, có lúc nó vụt biến
mất.
c/ Nhưng miễn là người ta
không nản lòng mà cứ kiên trì dấn bước thì cuối cùng người ta sẽ gặp được Chúa.
Đó là cuộc hành trình của kẻ
chưa có đức tin tìm đến với Chúa, mà cũng là cuộc hành trình của kẻ đã tin rồi
nhưng muốn đến với Chúa một cách gần gũi thân tình hơn.
3. Lên đường
Có những người tìm kiếm như
các đạo sĩ, lên đường như Abraham. Cũng có những người ngồi một chỗ như Hêrôđê.
Muốn biết ư ? Ông đã có các chuyên viên. Muốn tiêu diệt đối phương ư ? Ông có cả
ngàn quân lính dưới quyền. Thiên Chúa hướng dẫn những ai muốn tìm Người cách lạ
lùng. Người trốn thoát khỏi những kẻ muốn tìm bắt. Người không hung hãn chống lại
những kẻ muốn huỷ diệt Người. Người tự xóa mình đi và biến mất.
Người ở đâu, Đức Giêsu ẩn dấu
của thời đại ? Trong làng quê heo hút nào, trong gia đình nghèo khó nào có ánh
sáng Thiên Chúa mời ta nhận ra Người ? "Ta đói các ngươi đã cho Ta ăn… Thực,
Ta bảo các ngươi : mỗi lần các ngươi làm cho một trong những kẻ bé nhỏ nhất là
anh em Ta đây, là các ngươi làm cho chính Ta" (Mt 25,35-40). Cả chúng ta nữa,
chúng ta cũng có lời kinh thánh : Ta đã không bị cám dỗ dùng lời Kinh Thánh để
át giọng kẻ quấy rầy ư ? Đức Giêsu đâu để cho ta đền bù. Nếu ta muốn nắm lấy
Người để được an tâm, Người sẽ thoát khỏi tầm tay ta. Nếu ta chấp nhận lên đường
tìm kiếm Người, ta sẽ như các đạo sĩ, được đầy tràn niềm vui và tìm thấy Người
(…) Đọc kỹ Kinh Thánh thôi chưa đủ, còn phải để Kinh Thánh gợi hứng cho đời ta,
để ta đem ra thực hành, để ta đặt mình dưới sự điều khiển của Kinh Thánh. Các
luật sĩ và các thầy thượng tế biết lời sấm lắm chứ. Nhưng họ chỉ biết trưng dẫn
thôi… Hêrôđê thì dùng Kinh Thánh để tìm cách giết Hài nhi… Còn các đạo sĩ, bản
thân chẳng biết Kinh Thánh, chỉ được Hêrôđê chỉ dẫn, đã lên đường tìm kiếm Đức
Giêsu và họ đã gặp Người… (Mgr Lucien Daloz, Le Règne des cieux s’est approché,
Trích dịch bởi Fiches dominicales, trang 55-56).
4. Mảnh suy tư
Ánh sáng và bóng tối
Các đạo sĩ đã đi trong bóng tối
nhờ tia sáng của một ánh sao dẫn đường.
Các ông đã tìm được Chúa vì
không sợ bóng tối nhờ tin vào ánh sáng.
Thực ra, ta chỉ thấy được ánh
sáng của ngôi sao khi trời tối
Trời càng tối thì sao càng
sáng.
Tất cả chúng ta cũng là những
khách lữ hành đi trong đêm tối
Nhưng chúng ta đừng sợ vì Đức
Kitô là ánh sáng đã đến trần gian :
- Ánh sáng bừng lên trong đêm
tối
- Ánh sáng xóa tan tăm tối
- Ánh sáng mà không sự tối
tăm nào dập tắt được.
5. Chuyện minh họa
a/ Tôn giáo nào có Chúa ?
Ngày nọ, Chúa và tôi đến một
hội chợ, không phải hội chợ thương mại, mà là Hội chợ Tôn giáo. Nhưng những người
tham dự luôn tỏ ra hung bạo và tuyên truyền ầm ĩ.
Tại quầy hàng của người Do
thái, chúng tôi nhận được những tờ quảng cáo nói rằng Chúa là Đấng thương xót
và dân Do thái là dân được Ngài tuyển chọn. Ngoài những người Do thái, không ai
khác được chọn như họ.
Tại quầy hàng của người Hồi
giáo, chúng tôi học biết rằng Chúa đầy lòng khoan dung và Mohammed là ngôn sứ
duy nhất của Ngài. Sự cứu độ đến nhờ việc nghe ngôn sứ duy nhất của Chúa.
Tại quầy hàng của người Kitô
giáo, chúng tôi khám phá ra Chúa là tình yêu và không có sự cứu độ ở ngoài giáo
hội. Hoặc gia nhập giáo hội hoặc phải chịu kết án đời đời.
Trên đường trở ra, tôi hỏi
Chúa : "Ngài nghĩ gì về những điều nói về Chúa ?"
Chúa nói : "Ta không tổ
chức Hội chợ đó. Ta thấy xấu hổ ngay cả khi đến thăm nó".
b/ Các tôn giáo
Chúa Giêsu nói rằng Ngài chưa
bao giờ xem bóng đá. Vì thế, bạn tôi và tôi dẫn Ngài đi xem một trận. Đó là trận
đấu gay cấn giữa những người Tin lành và những người Công giáo.
Người Công giáo ghi bàn thắng
trước. Chúa Giêsu reo hò và tung mũ lên. Rồi đến người Tin lành ghi bàn thắng,
Chúa Giêsu cũng reo hò và tung mũ. Điều này gây khó chịu cho anh thanh niên ngồi
sau chúng tôi. Anh vỗ nhẹ lên vai Chúa Giêsu và hỏi : "Này anh bạn tốt,
anh ủng hộ bên nào ?"
Lúc này Chúa Giêsu thấy hứng
thú vì trận đấu, Ngài trả lời : "Tôi hả ? Ồ, Tôi không đứng về bên nào.
Tôi chỉ thưởng thức trận đấu".
Anh quay sang người bạn bên cạnh,
nhếch mép cười : "Hừ, kẻ vô thần".
Trên đường trở về, chúng tôi
cho Chúa Giêsu biết về tình trạng các tôn giáo trên thế giới ngày nay :
"Chúa ạ, thật buồn cười về những người trong các tôn giáo. Dường như họ
luôn nghĩ rằng Chúa chỉ đứng về phía họ và chống lại những người khác".
Chúa Giêsu đồng ý : "Đó
là lý do tại sao Ta không ủng hộ các tôn giáo. Ta ủng hộ con người. Con người
quan trọng hơn tôn giáo. Con người quan trọng hơn ngày Sabát".
Một trong chúng tôi nói với vẻ
lo lắng : "Ngài phải thận trọng. Ngài biết, Ngài đã một lần bị đóng đinh
vì nói như thế".
V. LỜI NGUYỆN CHO
MỌI NGƯỜI
CT : Anh chị em thân mến
Thiên Chúa yêu thương và muốn
cứu độ hết thảy mọi người. Người đã dùng ngôi sao hướng dẫn muôn dân đến gặp gỡ
Đấng Cứu Thế. Với tâm tình cảm tạ tri ân Thiên Chúa là Cha nhân hậu, chúng ta
cùng dâng lời cầu xin.
1- Chúa là Vua lãnh đạo muôn
dân / Người đã mời gọi các hiền sĩ / là những người ngoại giáo đầu tiên đến thờ
lạy Người tại Bêlem / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi người trong Hội Thánh /
biết tôn thờ và phụng sự Chúa hết lòng.
2- Chúa là Vua công bình chính
trực / Người đến giải thoát người nghèo cô thân cô thế / chúng ta hiệp lời cầu
xin cho những người cùng khổ sầu đau / luôn được Chúa thương xót đỡ nâng.
3- Chúa đến làm ánh sáng chiếu
soi muôn người / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những người đang tìm Chúa / qua
những bóng mờ và hình ảnh / được ánh hào quang của Đức Kitô soi sáng và hướng dẫn
/ để họ thêm phấn khởi trên đường tìm chân lý.
4- Mỗi tín hữu phải là một
ngôi sao dẫn đường cho người khác tìm về với Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin
cho công đoàn giáo xứ chúng ta / biết dùng đời sống bác ái yêu thương / phục vụ
khiêm tốn / mà giới thiệu Chúa cho những anh chị em chưa nhận biết Chúa.
CT : Lạy Chúa Giêsu Kitô,
Chúa đã sai chúng con mang sứ điệp Tin Mừng đến tận cùng trái đất. Xin cho đời
sống thường ngày của chúng con thể hiện một cách trung thực tình yêu bao la của
Chúa đối với nhân loại. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. TRONG THÁNH LỄ
- Trước kinh Lạy Cha : Chúa
Giêsu đã tỏ mình ra cho lương dân vì Ngài muốn quy tụ tất cả mọi người trong Nước
của Ngài. Chúng ta hãy cùng với Ngài thiết tha cầu xin cho Nước Chúa mau trị đến.
VII. GIẢI TÁN
Ngày xưa Chúa đã dùng ánh sao
lạ dẫn đường các đạo sĩ đến với Ngài. Ngày nay Ngài muốn dùng mỗi người chúng
ta như một ánh sao lạ dẫn đường cho anh em lương dân đến với Ngài. Rồi nhà thờ
trở về với cuộc sống, chúng ta hãy sống như một ánh sao trước mặt mọi người.
Chúc anh chị em bình an.
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio Divina: Chúa Hiển
Linh (B)
Chúa Nhật, 7 tháng
1 năm 2018
Hành trình đức tin
của ba vị Đạo Sĩ
Việc bái thờ Chúa
Giêsu Hài Đồng là Vua và là Chúa
Mt 2:1-12
1. Lời nguyện mở đầu
Lạy Cha nhân từ, Chúa đã gọi
con để gặp gỡ Chúa trong lời này của Tin Mừng, bởi vì Chúa muốn con được có sự
sống, Chúa muốn ban cho con chính bản thân Chúa. Con cầu xin Chúa, xin Chúa hãy sai Thánh Thần
Chúa xuống trên con để con được dẫn dắt trên con đường thiên liêng của đoạn
Kinh Thánh này. Hôm nay, nguyện xin cho
con có thể bước ra khỏi nhà tù của chính mình để bắt đầu cuộc hành trình đi tìm
kiếm Chúa. Xin cho con có thể nhận ra
ánh sao mà Chúa đã thắp sáng như một dấu hiệu tình yêu của Chúa trên cuộc hành
trình của con để bước theo nó không hề mệt mỏi, một cách mạnh dạn, dấn thân cả
cuộc đời con. Cuối cùng, xin cho con được
bước vào nhà Chúa và ở đó được trông thấy tôn nhan Chúa, xin cho con biết cúi lạy
cách khiêm tốn để bái thờ trước nhan Chúa và dâng lên Chúa cuộc sống của con, cả
con người con và tất cả những gì con có.
Lạy Chúa, nhờ vào ân sủng Chúa, xin cho con có thể trở về bằng một con
đường mới, mà không bao giờ đi qua những con đường cũ của tội lỗi.
2. Bài đọc
a) Bối cảnh của đoạn Tin Mừng
Đoạn Tin Mừng này thuộc về
hai chương đầu tiên của sách Tin Mừng Mátthêu, tạo thành lời mở đầu cho toàn bộ
tác phẩm. Ở đây chúng ta được giới thiệu
về nguồn gốc lịch sử của Đấng Cứu Thế là con cháu của vua Đavít, cũng như nguồn
gốc thiên tính của Đức Giêsu Kitô, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta. Ngay lập tức, thánh Mátthêu dẫn chúng ta vào
trong một sự suy niệm sâu lắng và lôi cuốn, đặt trước chúng ta một sự chọn lựa
chính xác qua con người mà ông giới thiệu trong câu chuyện: chúng ta hoặc nhận ra và chào đón Chúa là Đấng
vừa được sinh ra, hay là chúng ta vẫn lãnh đạm thờ ơ, thậm chí còn muốn loại trừ
và giết bỏ Người. Đoạn Tin Mừng này cống hiến cho chúng ta một câu chuyện đẹp về
cuộc hành trình của ba nhà Đạo Sĩ, những người đến từ phương xa bởi vì họ muốn
tìm kiếm và chào đón, yêu thương và tôn thờ Chúa Giêsu. Nhưng cuộc hành trình dài và miệt mài tìm kiếm
của họ, việc hoán cải tâm hồn của họ là sự kiện đang nói về chúng ta, sự kiện
đã được ghi lại trong cuốn sách câu chuyện thiêng liêng của chính chúng ta.
b) Phần phụ chú để giúp cho việc đọc bài Tin Mừng:
Đoạn Tin Mừng này có thể được
chia ra làm hai phần chính, được xác định theo nơi câu chuyện xảy ra: phần thứ nhất (đoạn 2:1-9a) xảy ra tại
Giêrusalem, trong khi phần thứ hai lại tập trung xung quanh thành Bêlem (đoạn
2:9b-12).
Mt 2:1-2: Đoạn Tin Mừng bắt đầu với những dấu hiệu
chính xác như nơi chốn và thời gian chào đời của Chúa Giêsu: tại Bêlem, thuộc xứ
Giuđêa, trong đời vua Hêrôđê. Trong lời
mô tả khá rõ ràng này, các nhà Đạo Sĩ đột nhiên xuất hiện, những người đến từ
phương xa, tìm đến Giêrusalem dưới sự hướng dẫn của một ánh sao. Chính họ là những người loan báo sự ra đời của
vị Vua Thiên Chúa. Họ hỏi thăm xem Người
hiện đang ở đâu bởi vì họ muốn đến để triều bái Người.
Mt 2:3-6: Khi nghe những lời của các vị Đạo Sĩ nói, vua
Hêrôđê, và tất cả thành Giêrusalem cùng với nhà vua, bối rối và sợ hãi. Thay vì chào đón Chúa và chọn Người, họ tìm
cách trừ khử Người. Vua Hêrôđê triệu tập
tất cả các thượng tế Do Thái và Kinh Sư trong dân. Chính các nhà Đạo Sĩ, nhờ sự giúp đỡ của các
ngôn sứ thuở xưa, là những người nói và mặc khải Bêlem là nơi để tìm thấy Đấng
Mêssia.
Mt 2:7-8: Vua Hêrôđê ngầm cho vời các nhà Đạo Sĩ bởi vì
nhà vua muốn dùng họ cho mục đích xấu xa của mình. Việc hỏi han cặn kẽ của nhà vua hoàn toàn nhắm
vào việc loại trừ Đức Kitô.
Mt 2:9a: Các nhà Đạo Sĩ, được thúc đẩy bởi sức mạnh đức
tin và được hướng dẫn bởi ánh sao, lại lên đường và hướng về thành Bêlem.
Mt 2:9b-11: Ngôi sao lại xuất hiện, đi với các vị Đạo Sĩ
và dẫn họ đến đúng nơi chỗ Chúa Hài Đồng Giêsu ở. Tràn đầy niềm vui mừng, họ tiến vào nhà và phủ
phục sụp lạy Người; họ dâng tiến Người lễ vật quý giá vì họ nhận biết Người là
vua và là Chúa.
Mt 2:12: Khi đã chiêm ngắm và thờ lạy Chúa, các vị Đạo
Sĩ nhận được sự mặc khải từ Thiên Chúa; chính Chúa nói với họ. Các ông là những con người mới; họ có trong
mình một trời mới đất mới. Các vị Đạo Sĩ
đã thoát khỏi sự lừa dối của vua Hêrôđê, và do đó, họ quay trở lại với đời sống
mình bằng một nẻo đường hoàn toàn mới.
c) Phúc Âm:
1 Khi Chúa Giêsu sinh hạ tại
Bêlem, thuộc xứ Giuđêa, trong đời vua Hêrôđê, có mấy nhà đạo sĩ từ Đông Phương
tìm đến Giêrusalem. 2 Các ông nói: “Vua
người Do-Thái mới sinh ra hiện đang ở đâu?
Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Đông Phương, và chúng tôi đến
để triều bái Người.”
3 Nghe nói thế, vua Hêrôđê bối
rối, và tất cả Giêrusalem cùng với nhà vua. 4 Vua đã triệu tập tất cả các thượng
tế và kinh sư trong dân, và hỏi họ cho biết nơi mà Đức Kitô sinh hạ. 5 Họ tâu nhà vua rằng: “Tại Bêlem thuộc xứ Giuđêa, vì đó là lời do đấng
tiên tri đã chép: 6 “Cả ngươi nữa, hỡi Bêlem, đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé
nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ
lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta.”
7 Bấy giờ Hêrôđê ngầm triệu mấy
nhà Đạo sĩ tới, cặn kẽ hỏi han họ về thời giờ ngôi sao đã hiện ra. 8 Rồi vua
phái họ đi Bêlem và dặn rằng: “Các khanh
hãy đi điều tra cẩn thận về Hài Nhi, rồi khi đã gặp thấy, hãy báo tin lại cho
trẫm, để cả trẫm cũng đến triều bái Người.” 9 Nghe nhà vua nói, họ lên đường. Và kìa ngôi sao họ xem thấy ở Đông Phương, lại
đi trước họ, mãi cho tới khi tới nơi và đậu lại trên chỗ Hài Nhi ở. 10 Lúc nhìn
thấy ngôi sao, họ hết sức vui mừng. 11 Và khi tiến vào nhà, họ đã gặp thấy con
trẻ và Đức Maria, mẹ Người, và họ đã quỳ gối xuống, sụp lạy Người. Rồi, mở bảo
tráp ra, họ đã dâng tiến Người lễ vật:
vàng, nhũ hương, và mộc dược.
12 Và khi nhận được lời mộng
báo “Đừng trở lại với Hêrôđê”, họ đã qua đường khác, trở về xứ sở mình.
3. Giây phút thinh lặng cầu
nguyện
Tôi lắng nghe thật sâu tiếng
nói thì thầm của Chúa và để cho hơi thở của Chúa Thánh Thần đến với tôi và truyền
cho tôi. Trong sự thinh lặng này, tôi đi
tìm kiếm Chúa và lặp lại trong lòng tôi:
“Lạy Thiên Chúa của con, Chúa đang ở đâu?”
4. Một vài câu hỏi gợi ý
a) Tôi dùng những lời đầu tiên phát ra từ miệng
các nhà Đạo Sĩ và làm cho chúng trở thành của riêng tôi: “Vua dân Do-Thái mới sinh ra hiện đang ở
đâu?” Tôi có thực sự cảm thấy bị lôi cuốn
đến nơi Chúa ở bởi vì tôi mong ước được ở bên cạnh Người không? Tôi có sẵn sàng lìa bỏ nơi tối tăm và cũ kỹ của
thói quen của tôi, của sự thoải mái của tôi, để thực hiện một cuộc hành trình đức
tin trong việc tìm kiếm Đức Giêsu không?
b) “Chúng tôi đến để triều bái Người.” Ở đây Lời Chúa kiểm định tôi, đặt tôi qua một
thử thách: tôi có thực sự sống trong một
mối quan hệ yêu thương với Thiên Chúa không?
Tôi có thể nào rộng mở cuộc sống tôi trong sự hiện diện của Người và để
cho Người ngự vào trong mỗi nhịp đập của tim tôi không?
c) “Vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh,
Người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta.”
Tôi có khả năng đặt và dâng trọn xác hồn tôi cho sự hướng dẫn của Chúa,
tin cậy nơi Ngài, tin vào tình yêu của Ngài, trong sự hiện diện rất thật của
Ngài dù rằng Ngài vẫn vô hình không?
d) “Khi tiến vào nhà, họ đã gặp thấy con trẻ.” Đó chính là bởi vì họ chấp nhận bước vào
trong nhà, bước vào sự hiệp thông, dâng trọn vẹn và thật sự con người họ để mắt
họ có thể trống thấy, chiêm ngưỡng và nhận ra.
Tại sao tôi không nhận thức được thực tế là khi tôi càng ở bên ngoài,
thì tôi càng xa cách với cuộc sống anh chị em tôi và tôi càng trở nên u buồn và
trống trải?
5. Chìa khóa dẫn đến bài đọc
Tôi tìm một số chữ chính, một
số chủ đề căn bản, để có thể hướng dẫn và giúp tôi hiểu thấm hơn ý nghĩa của đoạn
Tin Mừng này, để cho đời tôi có thể được soi sáng và thay đổi bởi Lời của Chúa.
* Hành trình:
Đoạn Tin Mừng này dường như trải qua với chủ đề lớn của một cuộc hành
trình, một cuộc xuất cư, một chuyến đi.
Các vị Đạo Sĩ, những nhân vật bí ẩn, ra đi, đi xa khỏi miền đất của họ
và đi tìm kiếm vị vua, Chúa. Thánh
Mátthêu trình bày dữ kiện này bằng một số các động từ song song với sự phát triển
của sự kiện: tìm đến, chúng tôi đến,
phái đi, đi, lên đường, đi trước họ, tiến vào, đừng trở lại, trở về. Cuộc hành trình thể lý của các vị Đạo Sĩ ẩn dấu
một cuộc hành trình rất quan trọng và có ý nghĩa hơn, cuộc hành trình đức
tin. Đây là sự chuyển động của tâm hồn
được nảy sinh từ lòng ước ao gặp gỡ và biết Chúa. Đồng thời, đó là lời mời gọi của Thiên Chúa,
Đấng kêu gọi và lôi cuốn chúng ta với quyền năng của Người; chính Người là Đấng
nâng chúng ta dậy và chuẩn bị cho chúng ta lên đường, Đấng ban cho chúng ta các
dấu chỉ và không ngừng đồng hành với chúng ta.
Kinh Thánh cho chúng ta nhiều ví dụ quan trọng và những điều đó giúp cho
chúng ta bước vào con đường của ân sủng và phúc lành này. Thiên Chúa đã phán bảo ông Abraham rằng: “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi,
mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi” (St 12:1).
Ông Giacóp cũng là một người hành hương của đức tin và sự hoán cải; trên
thực tế, Thánh Kinh đã viết về ông:
“Giacóp ra khỏi Bơ-e-Seba và đi về Kharan” (St 28:10) và “Giacóp cất bước
đi về đất con cái Phương Đông” (St 29:1).
Nhiều năm sau đó, Đức Chúa đã phán với ông rằng: “Hãy trở về quê cha đất
tổ, về với họ hàng ngươi; Ta sẽ ở với ngươi” (St 31:3). Ông Môisen cũng là người
đi trên một cuộc hành trình; chính Thiên Chúa đã chỉ cho ông đường đi, cuộc Xuất
Hành, trong tâm hồn ông, trong cõi lòng ông, và được làm bằng cả cuộc đời ông
cho cuộc hành trình dài của ơn cứu độ cho ông và cho dân tộc ông: “Bây giờ, ngươi hãy đi! Ta sai ngươi đến với Pharaô để đưa dân Ta là
con cái Israel ra khỏi Ai-Cập!” (Xh 3:10).
Dân riêng mới của Chúa cũng thế, chúng ta là con cái của lời hứa và giao
ước mới, hằng được gọi để lên đường và ra đi trên cuộc hành trình theo chân của
Chúa Giêsu. Cuộc xuất hành không bao giờ
ngừng; cuộc giải phóng xuất phát từ đức tin thì vẫn luôn năng động. Chúng ta hãy nhìn vào Chúa Giêsu, vào các vị
tông đồ của Người, vào thánh Phaolô:
không ai đứng yên tại chỗ, không ai lẩn tránh. Tất cả các nhân chứng này nói với chúng ta
ngày nay bằng những hành động của họ và họ lặp lại: “Phúc thay kẻ lấy Ngài làm sức mạnh, ấp ủ
trong lòng giấc mộng hành hương” (Tv 84:6).
* Ngôi sao:
Đây là một yếu tố trọng tâm và rất quan trọng trong đoạn Tin Mừng này bởi
vì ngôi sao có vai trò hướng dẫn các vị Đạo Sĩ đi đến nơi họ định đến, nó là sự
soi sáng cho họ trong những đêm trên cuộc hành trình, nó chỉ đúng nơi có sự hiện
diện của Chúa, nó cho một niềm vui tuyệt vời trong tim họ. Khắp suốt bộ Kinh Thánh, ngôi sao xuất hiện
như là dấu chỉ của sự chúc phúc và vinh quang, gần như là một hiện thân của
Thiên Chúa, Đấng không bỏ rơi dân Ngài, và đồng thời, sự nhân cách hóa của dân
tộc đã không quên Thiên Chúa của họ và chúc tụng Ngài (xem Tv 148:3; Br
3:34). Từ ngữ ngôi sao xuất hiện lần đầu
tiên trong Kinh Thánh trong sách Sáng Thế Ký 1:16, khi mà vào ngày thứ tư, câu
chuyện về Thiên Chúa sáng tạo trời đất cho chúng ta biết về sự xuất hiện trên
vòm trời: mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao, như là các dấu hiệu và ánh sáng,
để thiết lập trật tự và cho ánh sáng.
Thuật ngữ của người Do Thái về chữ “ngôi sao” (kokhab) rất tuyệt đẹp và
đầy ý nghĩa. Thật ra, những mẫu tự tạo
nên chữ mặc khải sự bao la của sự hiện diện mà các yếu tố thiên thể đi kèm với
chúng. Chúng ta thấy hai chữ caf, có
nghĩa là “bàn tay” và kèm theo chữ waw, có nghĩa là con người, được hiểu trong
cấu trúc sự sống của người ấy, trong xương sống người ấy, giúp cho anh ta đứng
vững, giúp anh ta hướng lên trời, tiếp xúc với Thiên Chúa và là Đấng Tạo Dựng của
anh ta. Do đó, bên trong các ngôi sao có
hai bàn tay, mẫu tự caf và caf, được giữ cách yêu thương trong mẫu tự “waw”,
con người: đó là đôi bàn tay của Thiên
Chúa không bao giờ ngừng nắm lấy chúng ta, nếu chúng ta chỉ cần phó thác cho
đôi bàn tay ấy. Sau đó xuất hiện mẫu tự
bet, có nghĩa là nhà. Do đó, các ngôi
sao nói với chúng ta về cuộc hành trình hướng về nhà chúng ta, về cuộc di cư
liên tục từ đó và trở về, một khi chúng ta đã đến, từ ngày tạo thiên lập địa và
thậm chí từ đời đời. Thiên Chúa thường so sánh con cháu của Abraham với sao
trên trời, như thể mỗi người là một vì sao, được sinh ra để cho ánh sáng vào
ban đêm: “Hãy ngước mắt lên trời, và thử
đếm các vì sao, xem có đếm nổi không” Và rồi Người lại thêm rằng: “dòng dõi
ngươi sẽ như thế đó!” (St 15:5). Đức
Giêsu là một vì sao, một vì sao xuất hiện từ nhà Giacóp (Ds 24:17), rằng bắt
nguồn từ trên cao, là Sao Mai sáng ngời, như sách Khải Huyền đã viết
(22:16). Thật ra, trong Người tình yêu
vô hạn của Thiên Chúa đã mặc lấy xác thịt, mà chiếu hướng về phía chúng ta, con
cái của Người, và mở rộng vòng tay để tụ tập và chào đón chúng ta. Chỉ có tình yêu như vậy mới có thể ban cho sự
yếu đuối vô hạn của chúng ta khả năng và lòng dũng cảm, sự kiên trì và niềm hân
hoan của việc chấp nhận ra đi, đi trên cuộc hành trình dài và gian khổ của đức
tin, dẫn chúng ta đến làng Bêlem, đến nơi Thiên Chúa xuất hiện với chúng ta.
* Tôn thờ triều bái: Hành động tôn thờ triều bái thì xưa như chuyện
nhân loại, bởi vì ngay từ đầu, mối quan hệ với Thiên Chúa đã được đi kèm theo với
nhu cầu của sự yêu thương, của sự khiêm nhường, của sự tận hiến. Trước sự cao cả của Thiên Chúa, chúng ta, những
con người bé nhỏ, cảm nhận và khám phá ra rằng chúng ta không là gì, một hạt bụi,
một giọt nước trong biển khơi. Trong Cựu
Ước, cử chỉ tôn thờ xuất hiện như một hành động của tình yêu sâu sắc đối với
Chúa, một cử chỉ đòi hỏi sự tham dự của cả bản thân: tâm trí, ý muốn chọn lựa,
tình yêu tràn đầy ước vọng và một bản thân cúi lạy và thậm chí còn phủ phục dưới
đất. Người ta nói rằng ở một vài nơi cử
chỉ tôn thờ triều bái được kèm theo cả việc phủ phục dưới đất; khuôn mặt của một
người, ánh mắt, hơi thở của người ấy sẽ trở về bụi đất một khi người đó có nguồn
gốc của mình và tại đó người ấy nhìn nhận mình là tạo vật của Thiên Chúa, như
hơi thở đến từ Thiên Chúa. “Hãy vào đây
ta cúi mình phủ phục, quỳ trước tôn nhan Chúa là Đấng dựng nên ta” (Tv
95:6): đây là lời mời của Kinh Thánh cho
chúng ta mỗi ngày, chỉ cho chúng ta thấy đường đi để chúng ta có thể nhiều lần
trở lại với sự thật và để sống trọn vẹn.
Tân Ước còn đi sâu hơn trong
sự suy niệm tinh thần về sự kiện này và dường như còn muốn cùng đồng hành với
chúng ta trên cuộc hành trình sư phạm của sự hoán cải và trưởng thành trong đời
sống nội tâm của chúng ta. Trong các
sách Tin Mừng, chúng ta thấy các môn đệ, nam và nữ, thờ lạy Chúa Giêsu sau khi
Người sống lại (Mt 28:9; Lc 24:52), bởi vì họ nhận ra Người chính là Thiên
Chúa. Lời của Chúa Giêsu trong cuộc đối
thoại với người phụ nữ Samaritanô cho chúng ta một cái nhìn sâu sắc vào sự thật
của cử chỉ này, mà sau cùng, liên quan đến cả cuộc đời và là thái độ của con
tim: việc thờ lạy là dành cho Chúa Cha
và không xảy ra đây đó mà là trong Chúa Thánh Thần và trong chân lý, đó là
trong Chúa Thánh Thần và trong Chúa Con, Đức Giêsu. Chúng ta không được phép tự lừa dối mình; đó
không phải là việc đi hết nơi này sang nơi nọ, cũng chẳng phải vì tìm kiếm một
nhân vật thần thánh này hay nhân vật khác để chúng ta có thể tôn thờ Thiên
Chúa. Việc di chuyển, cuộc hành trình là
một chuyến đi nội tâm và xảy ra trong nơi tận cùng sâu thẳm nhất của chúng ta
và là sự hàng phục hoàn toàn của chính mình, của đời sống chúng ta, cả con người
chúng ta, vào đôi cánh của Chúa Thánh Thần và trong vòng tay của Chúa Giêsu,
đang mở rộng trên thập giá và luôn sẵn sàng đón nhận tất cả mọi thứ đến với Người. Thánh Phêrô đã nói rõ ràng: “Đức Kitô là Đấng Thánh, hãy tôn Người làm
Chúa ngự trị trong lòng anh em” (1Pr 3:15).
Cử chỉ cúi mình trên đất, phủ phục trước mặt Chúa đến từ trái tim. Nếu chúng ta để cho Chúa đụng chạm vào tâm hồn
chúng ta, nếu chúng ta cho phép Chúa đi vào lòng mình, không gian thiêng liêng,
thì Người sẽ thay đổi chúng ta hoàn toàn, biến đổi toàn bộ con người chúng ta
và biến đổi chúng ta trở nên những con người mới.
6. Cầu nguyện: Thánh Vịnh 84
Một bài Thánh Vịnh về lòng
tin tưởng của con người trên cuộc hành trình tiến về nhà Chúa
Đáp ca: Lạy Chúa, con đã thấy ngôi sao của Chúa,
Và con đã đến để thờ lạy
Chúa!
Lạy Chúa Tể càn khôn, cung điện
Ngài xiết bao khả ái.
Mảnh hồn này khát khao mòn mỏi
mong tới được khuôn viên đền
vàng.
Cả tấm thân con cùng là tấc dạ
những hướng lên Chúa Trời hằng
sống mà hớn hở reo mừng.
Lạy Chúa Tể càn khôn là Đức
Vua, là Thiên Chúa con thờ,
ngay chim sẻ còn tìm được mái
ấm,
cánh nhạn kia cũng làm tổ đặt
con
bên bàn thờ của Chúa!
Phúc thay người ở trong thánh
điện
họ luôn luôn được hát mừng
Ngài.
Phúc thay kẻ lấy Ngài làm sức
mạnh,
ấp ủ trong lòng giấc mộng
hành hương.
Lúc trẩy qua thung lũng Khô Cằn,
họ biến nó thành nguồn suối
nước,
mưa đầu mùa đổ phúc lộc chứa
chan.
Càng tiến lên, họ càng mạnh
bước
đến chiêm ngưỡng Chúa Trời ngự
trên núi Xi-on.
Lạy CHÚA là Chúa Tể càn khôn,
xin đoái nghe lời con cầu
nguyện.
Xin lắng tai, lạy Chúa nhà
Giacóp.
Lạy Chúa là khiên mộc chở
che,
xin thương xem nhìn đến
gương mặt đấng Ngài đã xức dầu.
Một ngày tại khuôn viên thánh
điện
quý hơn cả ngàn ngày.
Thà con ở cổng đền Thiên Chúa
vẫn còn hơn sống trong trại
ác nhân!
Thiên Chúa là vầng thái
dương, là thuẫn đỡ,
CHÚA tặng ban ân huệ với vinh
quang.
Ai sống đời trọn hảo, Người
chẳng nỡ từ chối ơn lành.
Lạy Chúa Tể càn khôn, phúc
thay người tin tưởng vào Chúa!
7. Lời nguyện kết
Lạy Chúa, là Cha của chúng
con, con đã thực sự nhìn thấy ngôi sao của Chúa, con đã mở mắt ra với sự hiện
diện tình yêu và ơn cứu rỗi của Chúa và con đã lãnh nhận ánh sáng của sự sống. Con đã lặng ngắm bóng đêm biến đổi thành ánh
sáng, nỗi đau khổ trở nên niềm hân hoan, nỗi cô đơn thành sự hiệp thông; vâng,
tất cả những điều này đã xảy ra trước nhan thánh Chúa, trong Lời Chúa. Chúa đã dẫn con qua sa mạc; Chúa đã đưa con đến
nhà Chúa và mở cửa cho con bước vào. Ở
đó con trông thấy Chúa, , Đức Giêsu Con Một Chúa, Đấng Cứu Độ của đời con; con
đã cầu nguyện và thờ lạy, con đã khóc và tìm thấy nụ cười của Chúa, con giữ im
lặng và học nói. Trong nhà Chúa, là Cha
nhân từ, con đã tìm được sự sống một lần nữa!
Và giờ đây con sắp trở lại,
con tiếp tục cuộc hành trình của mình, nhưng đường đi không phải là con đường
mà con đã đi trước đây và cuộc sống con không phải là cuộc sống như trước đó nữa. Lời Chúa đã để lại trong con một quả tim mới,
có khả năng mở ra để yêu thương, để lắng nghe, để chào đón và trở thành mái ấm
cho nhiều anh chị em mà Chúa đã đặt để họ trên đường con đi. Lạy Chúa, con đã không biết, nhưng Chúa đã
làm cho con trở nên trẻ thơ một lần nữa, Chúa đã sinh ra con với Chúa
Giêsu. Lạy Cha, xin cảm tạ Cha, ôi Cha của
con!
www.dongcatminh.org
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét