Hanna Chrzanowski, nữ điều dưỡng giáo dân đầu tiên được phong chân phước
Ngày 28/04/2018, tại thành phố Cracovia của Ba lan, Đức Hồng
y Angelo Amato, tổng trưởng Bộ phong thánh, đã chủ sự Thánh lễ phong chân phước
cho bà Hanna Chrzanowska. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Giáo hội một nữ
điều dưỡng giáo dân được tuyên phong chân phước.
Giống như thánh Phanxicô Assisi, Hanna Helen Chrzanowski xuất
thân từ một gia đình quý tộc danh giá, nhưng cô đã quyết định dành cuộc đời của
mình cho các linh hồn đang đau khổ. Thân phụ của Hanna, ông Ignacy Chrzanowski,
là một giáo sư văn chương Ba lan tại đại học Jagiellonian ở thành phố Cracovia;
tuy là một tín hữu Công giáo nhưng ông không sốt sắng thực hành đạo. Thân mẫu của
Hanna, bà Wanda Szlenker, là một tín hữu Tin lành. Cả hai ông bà thân sinh của
Hanna đều thuộc những gia đình có truyền thống yêu nước và họ nổi tiếng về các
hoạt động bác ái.
Khi còn trẻ, Hanna cũng xa lìa đức tin Công giáo nhưng sau
thế chiến thứ hai, cô đã có một kinh nghiệm hoán cải sâu sắc. Vào khoảng cuối
thời gian trung học, Hanna đã tham dự khóa học kéo dài 2 tháng do Hội Chữ thập
đỏ Hoa kỳ tổ chức để chăm sóc cho các người lính trong thời chiến tranh
Bôn-sê-vích tại Ba lan. Năm 1920, Hanna đã quyết định trở thành một điều dưỡng
khi biết tại Vác-sa-va vừa mở một trường điều dưỡng. Năm 1924, sau khi tốt nghiệp,
Hanna nhận được học bổng học nâng cao tại Pháp và Bỉ.
Vào đầu cuộc chiến tranh, Hanna đã trở về Cracovia và dấn
thân chăm lo cho những người di tản, những người tị nạn, các trẻ em ở thành phố
Cracovia và các vùng lân cận. Năm 1939, dì Zophia của Hanna bị chết trong
cuộc chiến ở Vác-sa-va. Tháng 6 năm đó, ông Ignacy Chrzanowski, cha của Hanna,
cùng với các giáo sư khác của đại học Jagiellonian, bị đưa đến trại tập trung
Sachsenhausen của Đức quốc xã và ông đã qua đời tại đó vào năm 1940. Đầu năm
1940, người anh tên Bohdan của Hanna cũng bị lính Nga bắt đi tù và bị giết
trong rừng Katyn.
Cũng trong thời gian này, Đức Tổng Giám mục Adam Stefan
Sapieha của Cracovia đã thành lập Ủy ban dân sự cứu trợ xã hội. Không nản chí
và thất vọng vì những mất mát đau thương xảy đến với gia đình và người thân,
Hanna đã trở thành một thành viên tích cực, giúp tổ chức các nơi trú ẩn cho các
trẻ mồ côi người Do thái đến từ thủ đô Vac-sa-va, sau khi thành phố này hầu như
bị tiêu diệt vào năm 1944. Cô đã tổ chức các bữa ăn, nơi cư trú, nhà mồ côi cho
trẻ em. Hanna phụ trách và xem xét việc nhận con nuôi đối với các trẻ em bị bỏ
rơi. Đối với Hanna, thời gian chiến tranh là cần thiết để khám phá sự hiện diện
của Thiên Chúa trong cuộc sống. Hanna chăm chỉ cầu nguyện và nhận ra ý nghĩa của
Thánh lễ. Bằng cách này, hoạt động bác ái của Hanna trở nên thấm đẫm tinh thần
bác ái Kitô thật sự.
Sau khi chiến tranh chấm dứt, Hanna tiếp tục việc dạy học tại
trường điều dưỡng của Cracovia và phụ trách phân khoa điều dưỡng cộng đồng. Năm
1946, Hanna nhận học bổng đi học ở Mỹ đào sâu về vấn đề điều dưỡng tại gia cư.”
Hanna xuất bản sách và các bài báo về ngành điều dưỡng gia đình và dạy học
trong các trường điều dưỡng. Năm 1957, Hanna thành lập Hiệp hội Công giáo các y
tá Ba lan. Hanna cũng bắt đầu tổ chức các khóa tĩnh tâm hàng năm, tại đền thánh
Đức Mẹ Jasna Gora tại Czestochowa, cho các chuyên viên chăm sóc sức khỏe. Chính
quyền cộng sản thời hậu chiến tranh không chấp nhận điều này.
Dù rằng trước chiến tranh, Giáo hội Công giáo tại Ba lan
đóng vai trò quan trọng trong hoạt động từ thiện, nhưng dưới chế độ cộng sản,
chính quyền vô thần tìm cách nắm vai trò này. Tuy nhiên, Hanna đã đương đầu với
chính quyền và thành lập một hệ thống “chăm sóc sức khỏe giáo xứ” tại Cracovia.
Hệ thống bao gồm hàng trăm người dân, sống trong một đất nước cộng sản với những
điều kiện sống thiếu phẩm giá. Những người cô đơn, bị bỏ rơi, người già, người
khuyết tật hay bị các chứng bệnh mãn tính mà hệ thống y tế của chính quyền
không thể chăm sóc, đã được hệ thống chăm sóc của Hanna, với các ý tá chuyên
nghiệp cùng với sự trợ giúp của các nữ tu và sinh viên chăm sóc.
Cũng trong năm 1957, một cuộc gặp gỡ đặc biệt có ý nghĩa đối
với cuộc sống và hoạt động bác ái của Hanna. Một người bạn của Hanna, Sofia
Szlendak, đã đưa Hanna đến gặp cha Karol Wojtyla, sau này trở thành Giáo hoàng
Gioan Phaolô II, để tìm cách giới thiệu với các giáo xứ về việc chăm sóc tại
gia. Dù cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng đã gây ấn tượng mạnh với Hanna. Năm 1958,
cha Wojtyla được bổ nhiệm là giám mục phụ tá của Cracovia và từ lúc này công việc
của Hanna gặp nhiều dễ dàng thuận lợi hơn. Năm 1960, Đức cha Wojtyla đã cùng
Hanna thăm 35 bệnh nhân giai đoạn cuối mà Hanna đang chăm sóc. Đây là một việc
làm đã trở thành thực hành quen thuộc cho mối lần thăm viếng mục vụ của ngài.
Từ gương mẫu của Hanna, sau đó, Teresa Strzembosz, bạn của
Hanna cũng thành lập một hệ thống tương tự tại Vac-sa-va. Vào những năm 1970, hầu
hết các giáo xứ ở Cracovia đã tham dự vào hệ thống này. Công việc điều dưỡng tại
giáo xứ là hoạt động đáp ứng thực tế là có nhiều bệnh nhân, người đau khổ trong
giáo xứ cần được chăm sóc y khoa, nhưng nhiều người không nhìn thấy đau khổ của
họ. Các cộng tác viên của Hanna đi đến nhà của những bệnh nhân này và không chỉ
giúp đỡ về y khoa nhưng còn giúp lau dọn nhà cửa cho họ cũng như đồng hành,
chia sẻ tình bạn với họ.
Ban đầu, Hanna làm việc này một mình. Nhưng sau đó, các nữ
tu đã giúp cho cô, và tiếp sau đó, Hanna đã khuyến khích một đội ngũ đông đảo
các sinh viên đại học của Học viện thánh Anna tình nguỵên đến gia cư của các bệnh
nhân. Hanna nhấn mạnh rằng các tình nguyện viên buộc phải tạo nên mối liên kết
gần gũi với những người được họ chăm sóc và đều đặn gặp gỡ những người này.
Hanna đã đáp lời mọi người với tình yêu thương, ngay cả trong những tình cảnh
khó khăn nhất. Ví dụ, một lần kia, Hanna được gọi đến giúp đỡ cho một cụ bà 93
tuổi, có một lỗ thủng trên trán, kết quả của căn bệnh ung thư. Trong việc phát
triển hệ thống điều dưỡng giáo xứ, chính đức tin là điều hướng dẫn hoạt động của
Hanna. Hanna đặc biệt bị thu hút bởi đặc sủng lao động và cầu nguyện của dòng
Biển đức.
Hiến chế Ánh sáng muôn dân của công đồng chung Vatican II
nói về vai trò của giáo dân trong Giáo hội, đặc biệt linh hứng cho Hanna trong
việc khuyến khích các giáo dân tham gia tích cực trong việc chăm sóc người bệnh
và người đau khổ. Hanna tìm thấy sự gần gũi về tinh thần với Đức Hồng y Karol
Wojtila, sau này là Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II, khi đó là Tổng Giám mục của
Cracovia. Ngài đã yêu cầu Hanna diễn thuyết về vai trò của giáo dân trong Giáo
hội trong đại hội mà Ngài tổ chức tại tổng giáo phận của ngài để thực hành các
giáo huấn của công đồng.
Hanna đến với tất cả các bệnh nhân, Công giáo cũng như không
Công giáo, bày tỏ tình bác ái đối với tất cả mọi người nhưng không bao giờ nhắm
chiêu dụ ai. Tuy thế, chứng tá tình yêu Kitô giáo của Hanna và những cộng sự của
cô đã khiến cho nhiều người đến với Công giáo. Ví dụ, sơ Serafina, một nữ tu hoạt
động gần gũi với Hanna, trợ giúp cho một giáo sư toán học vô thần bị bệnh thấp
khớp. Giáo sư này hỏi sơ Serafina cách mỉa mai: Khi nào sơ sẽ bắt đầu cải đạo
tôi? Tuy thế, thời gian qua, giáo sư đã quá bị ấn tượng về tình yêu và lòng tốt
của sơ đến nỗi ông đã trở lại Công giáo và trước khi qua đời, ông đã xin xưng tội
với một linh mục. Ông đã tuyên bố: “Có triết học của Kant và có triết thuyết của
Tin mừng.” Các cộng sự viên của Hanna và cả các bệnh nhân họ chăm sóc đã tạo
thành một cộng đoàn. Một cuộc tĩnh tâm hàng năm được tổ chức cho các bệnh nhân
tại Trzebinia; những người tham dự, mỗi năm lại chờ đợi, mong đến ngày tĩnh
tâm.
Năm 1963, Hanna Chrzanowska bị chẩn đoán ung thư. Việc chữa
trị không mang lại kết quả nào nhưng Hanna vẫn tiếp tục hoạt động và ngay cả
qua điện thoại. Được Đức Hồng y Karol Wojtyla đồng hành cách thiêng liêng,
Hanna qua đời ngày 19 tháng 4 năm 1973. Nhà thờ dòng Cát minh đông chật người
trong thánh lễ an táng của Hanna. Nhà thờ đầy những người ngồi trên các xe lăn
cùng với các bệnh nhân mà Hanna đã trao ban niềm hy vọng, cũng như các sinh
viên và các nữ tu đã cùng Hanna chăm sóc cho các bệnh nhân.
Chính Đức Hồng y Wojtyla đã chủ tế Thánh lễ. Trong bài giảng,
ngài đã nói: “Chúng ta cám ơn Chúa về sự sống của bà Hanna, người đã để lại cho
chúng ta một chứng tá vĩ đại…. Cám ơn Hanna, vì đã ở giữa chúng tôi. Bà là hiện
thân của Bài giảng trên núi, đặc biệt mối phúc nói rằng “Phúc cho người có lòng
thương xót. Bà đã mang lại cho tôi sự giúp đỡ lớn lao và niềm an ủi. Những người
đồng hành với các bệnh nhânm các nữ tu, các y tá, các sinh viên và toàn thể
giáo phận Cracovia cám ơn bà.”
Dù nhiều giáo dân khi nghe nói đến “ơn gọi”, họ chỉ nghĩ đến
các linh mục và các thành viên của các dòng tu, nhưng Hanna đã chỉ cho thấy rằng
các giáo dân cũng có ơn gọi và ơn gọi của họ không kém anh hùng hay thiếu sự
thánh thiện. Án phong chân phước cho Hanna được bắt đầu vào ngày 3 tháng 11 năm
1998. Ngày 30 tháng 9 năm 2015 bà được nhìn nhận các nhân đức anh hùng. Ngày 7
tháng 7 năm 2017, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã phê chuẩn sắc lệnh nhìn nhận một
phép lạ nhờ lời chuyển cầu của bà Hanna và do đó ngài cho phép tuyên phong bà
lên hàng chân phước. Trong bài giảng Thánh lễ phong chân phước cho bà Hanna tại
Cracovia, trước sự hiện diện của khoảng 20 ngàn tín hữu tại sân đền thờ Lòng
Chúa thương xót, Đức Hồng y Angelo Amato, Bộ trưởng Bộ phong thánh đã khẳng định
rằng bà Hanna đã là ngọn hải đăng trong bóng tối của đau khổ của nhân loại.
(ACI 26/04/2018)
Hồng Thủy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét