11/06/2018
Thứ Hai tuần 10 thường niên
Thánh Banaba, tông đồ.
Lễ nhớ.
* Thánh nhân quê ở đảo Sýp. Ít lâu sau
lễ Ngũ Tuần, người có mặt trong cộng đoàn Giêrusalem, rồi ở Antiôkia, nơi người
đã giới thiệu ông Saolê thành Tácxô với các anh em.
Người
đã cùng với ông Phaolô đi loan báo Tin Mừng cho Tiểu Á, nhưng sau người trở lại
đảo Sýp. Thánh Banaba, với cái nhìn rộng rãi, khoáng đạt, đã giữ vai trò chủ
yếu trong tiến trình truyền giáo của Hội Thánh.
BÀI ĐỌC I: Cv 11,
21b-26; 13, 1-3
“Họ cũng rao giảng Chúa Giêsu
cho người Hy-lạp”.
Trích sách Tông đồ
Công vụ.
Trong những ngày ấy,
có đông người tin trở về với Chúa. Tin đó thấu tai Hội Thánh Giêrusalem, nên
người ta sai Barnaba đến Antiôkia. Khi đến nơi và thấy việc ơn Chúa thực hiện,
ông vui mừng và khuyên bảo mọi người hãy vững lòng tin nơi Chúa; Barnaba vốn là
người tốt lành, đầy Thánh Thần và lòng tin. Và có đoàn người đông đảo tin theo
Chúa. Vậy Barnaba đi Tarxê tìm Saolô. Gặp được rồi, liền đưa Saolô về Antiôkia.
Cả hai ở lại tại Hội Thánh đó trọn một năm, giảng dạy cho quần chúng đông đảo;
chính tại Antiôkia mà các môn đệ lần đầu tiên nhận tên là “Kitô hữu”.
Bấy giờ trong hội
thánh Antiôkia có những tiên tri và tiến sĩ, trong số đó có Barnaba, Simon cũng
gọi là Nigê, Luxiô người thành Xyrênê, Manahê bạn của vua Hêrôđê lúc còn thư ấu,
và Saolô.
Đang khi các ông làm
việc thờ phượng Chúa và ăn chay, thì Thánh Thần phán bảo các ông rằng: “Hãy để
riêng Saolô và Barnaba cho Ta, để làm công việc mà Ta đã chỉ định”. Vậy sau khi
ăn chay cầu nguyện, họ đặt tay trên hai ông và tiễn đưa hai ông lên đường. Đó
là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 97, 1. 2-3a.
3cd-4. 5-6
Đáp: Chúa đã công bố
ơn cứu độ trước mặt chư dân (c. 2a).
Xướng: 1) Hãy ca tụng
Chúa một bài ca mới, vì Người đã thực hiện những việc lạ lùng. Tay mặt Người đã
đem lại toàn thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người. – Đáp.
2) Chúa đã công bố ơn
cứu độ, đã tỏ sự công chính Người trước mặt chư dân. Người đã nhớ lại lòng nhân
hậu và trung thành đối nhà Israel. – Đáp.
3) Mọi dân trên khắp
cùng bờ cõi trái đất đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng tôi. Toàn thể
địa cầu hãy hân hoan mừng Chúa, hãy vui mừng hoan lạc và đàn ca. – Đáp.
4) Hãy ca mừng Chúa với
đàn cầm thụ, với đàn cầm thụ, với nhạc cụ râm ran: Hãy thổi sáo và rúc tù và,
hân hoan trước thánh nhan Chúa là Vua. – Đáp.
ALLELUIA:
Alleluia, alleluia!
– Chúng con ca ngợi Thiên Chúa, chúng con tuyên xưng Chúa; lạy Chúa, ca đoàn
vinh quang của các Tông đồ ca ngợi Chúa. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 10, 7-13
“Các con đã lãnh nhận nhưng
không, thì hãy cho nhưng không”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu
phán cùng các Tông đồ rằng: “Các con hãy đi rao giảng rằng: Nước Trời đã gần đến.
Hãy chữa những bệnh nhân, hãy làm cho kẻ chết sống lại, hãy làm cho những kẻ
phong cùi được sạch và hãy trừ quỷ: Các con đã lãnh nhận nhưng không thì hãy
cho nhưng không.
“Các con chớ mang
vàng, bạc, tiền nong trong đai lưng, chớ mang bị đi đường, chớ đem theo hai áo
choàng, chớ mang giày dép và gậy gộc: vì thợ thì đáng được nuôi ăn. Khi các con
vào thành hay làng nào, hãy hỏi ở nơi đó ai là người xứng đáng, thì ở lại đó
cho tới lúc ra đi.
Khi vào nhà nào, các
con hãy chào rằng: ‘Bình an cho nhà này’. Nếu nhà ấy xứng đáng thì sự bình an của
các con sẽ đến với nhà ấy; còn nếu nhà ấy không xứng đáng, thì sự bình an của
các con sẽ trở về với các con”. Đó là lời Chúa.
Suy niệm : Người con có biệt tài khuyên nhủ
hay an ủi
Hôm nay Giáo Hội kính
nhớ thánh Barnaba tông đồ. Là một người Do Thái sinh trưởng tại đảo Sýp vào khởi
đầu của đạo Kitô, Barnaba có tên là Giuse, thuộc dòng tộc Lêvi. Có lẽ thánh
nhân từng sống tại Giêrusalem trước khi Chúa Giêsu chịu tử nạn. Vì nhiệt tình
và sự thành công trong công tác rao giảng, cho nên thánh nhân được các thánh
tông đồ tặng cho biệt hiệu là Barnaba, nghĩa là “người con có biệt tài khuyên
nhủ hay an ủi”.
Sau khi trở lại, thánh
Phaolô đến Giêrusalem, nhưng cộng đoàn tín hữu tại đây vẫn còn ngờ vực thiện
chí của ngài.
Chính thánh Barnaba là
người đứng ra bảo đảm và giới thiệu thánh Phaolô với các tông đồ, nhưng sau đó
thánh Phaolô lui về ẩn dật trong nhà ngài tại Tácxô trong nhiều năm và Barnaba
vẫn ở lại Giêrusalem. Sau này các thánh tông đồ sai Barnaba đến Antiokia để điều
tra về sự thành công của thánh Phaolô trong công tác rao giảng Tin Mừng cho dân
ngoại, Barnaba đã nhận ra ngay ơn Chúa trong công việc của thánh Phaolô. Ðây là
lý do để nối kết hai người lại với nhau trong cánh đồng truyền giáo của dân ngoại.
Cả hai sát cánh bên nhau tại Antiokia trong vòng một năm. Một trận đói lớn đã
tàn phá Giêrusalem, Barnaba và Phaolô đã quyên góp để mang về Giêrusalem cứu trợ.
Sau công tác này, cả hai trở về Antiokia và mang theo một người bà con họ hàng
với Barnaba là Marcô, vị thánh sử tương lai.
Từ Antiokia, cùng với
Marcô, Barnaba và Phaolô lên đường đi đến đảo Sýp, quê hương của Barnaba và từ
đó sang Tiểu Á. Tại một trạm đầu tiên ở Tiểu Á, Marcô đã chia tay với Barnaba
và Phaolô. Barnaba và Phaolô bắt đầu những trạm truyền giáo cam go nhất. Mỗi một
bước đi là mỗi một lần bị chống đối và bách hại từ phía những người Do Thái. Những
người này cũng xúi giục dân ngoại chống lại các vị tông đồ.
Tại Líttra, sau khi
thánh Phaolô chữa lành một người tàn tật, dân thành xem các ngài như những vị
thần. Họ định giết bò để tế cho các ngài nhưng liền sau đó bị người Do Thái xúi
giục họ lại quay ra tấn công hai ngài. Riêng thánh Phaolô bị gây thương tích.
Dù bị chống đối và bách hại, hai vị tông đồ vẫn hoán cải được nhiều người cũng
như tổ chức được giáo đoàn. Bị người Do Thái và dân ngoại chống đối và bách hại,
Barnaba và Phaolô còn gặp khó khăn ngay cả từ phía cộng đoàn Giêrusalem. Vấn đề
xoay quanh việc có nên cắt bì cho dân ngoại không. Hai vị thánh này đã tranh đấu
và cuối cùng đã tìm được giải pháp trong cộng đoàn Giêrusalem.
Về sau, trong chuyến
đi trở lại để viếng thăm các cộng đoàn, Barnaba và Phaolô đã chia tay nhau mỗi
người một ngả. Barnaba đi với Marcô đến Sýp; Thánh Phaolô cùng với một người
môn đệ tên là Xila trở lại Tiểu Á. Những năm tháng còn lại của Barnaba không
còn được nhắc đến nữa. Nhưng cũng như thánh Phaolô, thánh Barnaba vừa rao giảng
Tin Mừng vừa tự lực cánh sinh. Khi thánh Phaolô bị giam tại Rôma, Marcô đã trở
thành môn đệ của ngài. Ðiều này cho thấy rằng Barnaba không còn nữa.
Theo truyền thuyết,
thánh Barnaba là vị giám mục đầu tiên của thành Milanô. Dù thế nào đi nữa, tất
cả mọi truyền thuyết đều gặp nhau trong cùng một điểm là xem Barnaba như con
người được mến chuộng nhất trong thế hệ Kitô đầu tiên. Trong sách Tông Ðồ Công
Vụ, thánh sử Luca gọi ngài là một con người tốt, đầy tràn Chúa Thánh Thần. Thái
độ của ngài đối với thánh Marcô chứng tỏ một trái tim nhân hậu và đại lượng.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày
Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Lễ Thánh Barnabas, Tông Đồ.
Bài đọc: Acts
11:21b-26, 13:1-3; Mt 10:7-13.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Cộng tác với
nhau trong việc loan báo Tin Mừng.
Có rất nhiều lý do làm cản trở việc rao giảng Tin Mừng: quyền lợi, danh vọng,
tiền của, chức vụ, tình cảm, ngại ngùng, lo sợ, phe đảng … Những lý do này bóp
nghẹt Tin Mừng làm cho Nước Chúa không trị đến, gây cản trở cho Giáo Hội trong
việc sắp xếp nhân sự, làm gương xấu cho các tín hữu, và đánh đổ lý tưởng cao đẹp
của người môn đệ Đức Kitô.
Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta những hiểu biết cần thiết để tránh mọi lý do
làm cản trở sứ vụ loan báo Tin Mừng. Trong Bài Đọc I, Sách CVTĐ tường trình sự
hình thành của giáo đoàn Antiochia là do: ơn thánh của Thiên Chúa, tổ chức của
Hội Thánh, và sự cộng tác của nhiều người. Đang khi thi hành sứ vụ cách thành
công, Hội Thánh được sự hướng dẫn của Thánh Thần, lại cắt cử hai ông Barnabas
và Phaolô cho sứ vụ mới, sứ vụ loan báo Tin Mừng cho Dân Ngoại. Trong Phúc Âm,
Chúa Giêsu sai các Tông đồ ra đi rao giảng và căn dặn các ông một số điều vô
cùng cần thiết khi đi đường: Phải tin tưởng vào quyền năng và sự quan phòng của
Thiên Chúa; không được dùng Tin Mừng để mưu cầu lợi lộc vật chất: “Anh em đã được
cho không, thì cũng phải cho không như vậy;” và người môn đệ phải biết sống một
cuộc đời đơn giản.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hãy dành riêng Barnabas và Saolô cho Ta.
1.1/ Sự hình thành của
giáo-đoàn Antiochia: Sau biến cố tử đạo của
Phó-tế Stephen, Hội Thánh tại Jerusalem bị bắt bớ dữ dội, các môn đệ của Chúa
phải tản mác đi khắp nơi, tới đâu các ông loan báo Tin Mừng tại đó: Phêrô xuống
Joppa, phó-tế Philip xuống Gaza, một số môn đệ gốc Cyprius và Cyrene tới
Antiochia và giảng đạo cho người Hy-lạp cư ngụ tại đó.
(1) Giáo-đoàn Antiochia được thành lập là do công của nhiều người:
– Trước tiên là sự quan phòng của Thiên Chúa: Vì biến cố bắt đạo làm các môn đệ
phải tản mác đi, và một số các môn đệ gốc Cyprius và Cyrene đã đến loan báo Tin
Mừng tại Antiochia.
– Thứ đến, là ơn thánh của Chúa hoạt động trong tâm hồn con người: Trình thuật
hôm nay nêu rõ lý do tại sao có các tín hữu đầu tiên tại Antiochia: ”Vì có bàn tay
Chúa ở với họ, nên một số đông đã tin và trở lại cùng Chúa.” Các môn đệ chỉ là
khí cụ Thiên Chúa dùng để rao giảng, việc soi sáng và hoán cải tâm hồn để người
ta trở lại là công việc của Thiên Chúa làm từ trong tâm hồn.
– Kế tiếp, là việc tổ chức của Hội Thánh: Khi tin ấy đến tai Hội Thánh tại
Jerusalem, nên người ta cử ông Barnabas đi Antiochia.
– Rồi đến, việc làm của Barnabas: ”Khi tới nơi và thấy ơn Thiên Chúa như vậy,
ông Barnabas mừng rỡ và khuyên nhủ ai nấy bền lòng gắn bó cùng Chúa, vì ông là
người tốt, đầy ơn Thánh Thần và lòng tin. Và đã có thêm một đám rất đông theo
Chúa.”
– Sau cùng, việc làm của Phaolô: Ông Barnabas trẩy đi Tarsus tìm ông Saolô. Tìm
được rồi, ông đưa ông Saolô đến Antiochia. Hai ông cùng làm việc trong Hội
Thánh ấy suốt một năm và giảng dạy cho rất nhiều người. Chính tại Antiochia mà
lần đầu tiên các môn đệ được gọi là Kitô hữu.
(2) Tranh chấp con người: Nhìn lại lịch sử thành lập của giáo-đòan Antiochia sẽ
giúp chúng ta tránh được sự tranh chấp giữa các môn đệ và giữa các giáo dân.
Nhiều cha xứ lầm tưởng mình là lý do tại sao giáo dân đạo đức sốt sắng, nên dễ
sinh ra kiêu ngạo và khinh thường các vị tiền nhiệm. Nhiều giáo dân nghĩ sở dĩ
giáo xứ tiến bộ là do công của cha này, cha kia, nên chia rẽ và lập phe đảng.
Trường hợp này đã xảy ra nhiều nơi, ngay từ thời sơ khai trong giáo-đoàn
Corintô. Phaolô đã làm sáng tỏ vấn đề như sau: ”Khi người này nói: “Tôi, tôi
thuộc về ông Phaolô;” và người khác: “Tôi, tôi thuộc về ông Apollo,” anh em chẳng
là người phàm tục sao?
Vậy Apollo là gì?
Phaolô là gì? Đó là những tôi tớ đã giúp cho anh em có đức tin, mỗi người đã
làm theo khả năng Chúa ban.” Phaolô nói một câu làm chúng ta phải suy nghĩ:
”Tôi trồng, anh Apollo tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên” (I Cor
3:4-6).
1.2/ Sứ vụ đặc biệt của
Phaolô và Barnabas: Ngoài ra, giáo-đoàn
Antiochia còn được sự giúp đỡ của nhiều người, như trình thuật hôm nay đề cập:
”Trong Hội Thánh tại Antiochia, có những ngôn sứ và thầy dạy, đó là các ông
Barnabas, Simeon biệt hiệu là Đen, Lucius người Cyrene, Manaen, bạn thời thơ ấu
của tiểu vương Herode, và Saolô.”
Dẫu Barnabas và Phaolô đang phục vụ thành công như vậy tại giáo-đoàn Antiochia;
một hôm, đang khi họ làm việc thờ phượng Chúa và ăn chay, thì Thánh Thần phán bảo:
“Hãy dành riêng Barnabas và Saolô cho Ta, để lo công việc Ta đã kêu gọi hai người
ấy làm.” Bấy giờ họ ăn chay cầu nguyện, rồi đặt tay trên hai ông và tiễn đi.
Người môn đệ của Đức Kitô phải luôn sẵn sàng để được sai đi tới những biên
cương mới để rao giảng Tin Mừng. Phaolô và Barnabas không tiếc công mình đã bỏ
ra để xây dựng một “giáo đoàn đang trên đà phát triển;” hai ông sẵn sàng lên đường
thi hành sứ vụ của Thánh Thần và Hội Thánh đã tin tưởng trao phó.
2/ Phúc Âm: Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy.
2.1/ Chúa Giêsu biết hành
trang cần thiết của người môn đệ:
– Thấu hiểu Kinh Thánh
để rao giảng Tin Mừng: Khi rao giảng là nói về: ”Nước Trời đã đến gần.”
– Sức mạnh của người
môn đệ đến từ Thiên Chúa: ”Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết
sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, và khử trừ ma quỷ.”
– Không được dùng Tin
Mừng để kiếm lợi nhuận vật chất: ”Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho
không như vậy.” Ngài còn nói rõ hơn, ”Đừng kiếm vàng bạc hay tiền giắt lưng.”
– Sống đơn giản và
trông cậy nơi sự quan phòng của Thiên Chúa: ”Đi đường, đừng mang bao bị, đừng mặc
hai áo, đừng đi dép hay cầm gậy. Vì thợ thì đáng được nuôi ăn.”
2.2/ Cách cư xử của người
môn đệ khi đến nơi rao giảng:
– Tìm người xứng đáng
để có chỗ cư ngụ: “Khi anh em vào bất cứ thành nào hay làng nào, thì hãy dò hỏi
xem ở đó ai là người xứng đáng, và hãy ở lại đó cho đến lúc ra đi.” Chúa không
muốn người rao giảng đi từ nhà này qua nhà khác. Lý do có lẽ sợ gây chia rẽ
trong cộng đoàn.
– Người rao giảng Tin
Mừng mang bình an của Thiên Chúa đến cho người tiếp nhận: ”Vào nhà nào, anh em
hãy chào chúc bình an cho nhà ấy. Nếu nhà ấy xứng đáng, bình an của anh em sẽ đến
với họ; còn nếu nhà ấy không xứng đáng, thì bình an của anh em sẽ trở về với
anh em.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta phải gạt bỏ mọi lý do ngăn cản việc rao truyền Tin Mừng, để có thể cộng
tác với mọi thành phần Dân Chúa trong sứ vụ làm cho Nước Chúa mau trị đến.
– Phaolô trồng, Apollo tưới, Thiên Chúa làm cho lớn mạnh lên. Chúng ta đừng
đánh cắp ơn thánh của Thiên Chúa và các cố gắng của tha nhân.
– Một cuộc sống đơn giản và tin cậy nơi sự quan phòng của Thiên Chúa sẽ giúp
người môn đệ dễ dàng chu toàn sứ vụ loan báo Tin Mừng, và sống xứng đáng người
môn đệ Đức Kitô.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
11/06/2018 – THỨ HAI TUẦN 10 TN
Th. Ba-na-ba, tông đồ
Mt 10,6-13
ĐEM TIN MỪNG BIẾU KHÔNG
“Anh em đã được cho
không, thì cũng phải cho không như vậy… Đi đường, đừng mang bao bị, đừng mặc
hai áo, đừng đi dép hay cầm gậy. Vì thợ thì đáng được nuôi ăn.” (Mt 10,8-10)
Suy niệm: Giáo Hội không sống nhờ
giàu có của cải hay sự bảo trợ của quyền bính trần thế nào, mà sống nhờ mọi phần
tử nhiệt thành loan báo Tin Mừng. Chính vì thế Chúa Giê-su nhắc nhở các môn đệ
đừng lo tích góp vàng bạc, tiền giắt lưng, bao bị, giày gậy… Những thứ đó không
phải là sức mạnh của Giáo Hội và cũng không là thước đo sự lớn mạnh của Giáo Hội.
Chúa Giê-su khẳng định, sự phát triển Giáo Hội tùy thuộc vào việc toàn thể Giáo
Hội chú tâm “cho không” Tin Mừng. Đức Bê-nê-đi-tô XVI quả quyết, Giáo Hội lớn mạnh
nhờ sự hấp dẫn, chứ không nhờ chiêu dụ. Do đó, đem Tin Mừng cho không, biếu
không là bằng chứng Giáo Hội đang sống và đang lớn mạnh nhờ Chúa Thánh Thần.
Thánh Phao-lô xem việc đem Phúc Âm biếu không là bổn phận của ngài (x. 1Cr
9,18). Tuy nhiên, làm sao Ki-tô hữu quảng đại loan báo Tin Mừng được, nếu không
nhận ra đức tin họ đang có là nhờ ơn Chúa ban cách nhưng không? Và cũng dễ dàng
đem Phúc Âm biếu không, một khi Ki-tô hữu nhận thức rõ ràng: đức tin tôi đang
có vì từng được cho không như vậy.
Mời Bạn: Sự tính toán hơn thiệt nơi
bạn làm cản trở bổn phận truyền giáo của bạn thế nào? Lời Chúa hôm nay có lay
chuyển được bạn trở thành người dám đem Phúc Âm biếu không như thánh Phao-lô đã
sống không?
Sống Lời Chúa: Mỗi ngày ít là một lần nhắc
cho gia đình một câu lời Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Thánh Tâm Chúa, xin ban cho con một tấm lòng quảng
đại dám xả thân cho sứ vụ truyền giáo.
(5 Phút Lời Chúa)
Nước Trời đã đến gần
(11.6.2018 – Thứ Hai – Thánh Barnaba, tông đồ)
Suy niệm:
Chúng ta không rõ Thầy Giêsu đã sai các môn đệ lên đường
sau thời gian họ sống với Ngài bao lâu.
Nhưng chúng ta biết chắc là Thầy có sai các môn đệ.
Thầy sai họ đi để làm những việc Ngài đã và đang làm (Mt 9, 35),
như rao giảng Tin Mừng về Nước Trời, chữa bệnh, trừ quỷ (c. 8a).
Như thế họ trở nên những cộng sự viên của Ngài trong cùng một sứ vụ.
Thầy Giêsu không độc quyền trong công việc.
Ngài cũng không giữ riêng cho mình quyền trên các thần ô uế (Mt 10,1).
Việc chia sẻ quyền và mời gọi cộng tác đã có từ thời Thầy Giêsu,
và vẫn kéo dài trong Giáo Hội.
Lời dặn dò của Đức Giêsu trước khi sai họ đi đã đánh động nhiều tâm hồn,
đặc biệt những vị sáng lập các dòng tu.
Đặt mình vào bối cảnh vùng Galilê cách đây gần hai mươi thế kỷ,
chúng ta mới hình dung được khuôn mặt của những vị tông đồ đầu tiên.
Trước hết họ được sai đến với chính đồng hương của họ,
“những chiên lạc nhà Israel”, vất vưởng không người chăn dắt (Mt 9, 36).
Loan báo Tin Mừng là lên đường, đường đất đá hay đường núi đồi,
và đi bằng đôi chân của mình, không giày dép.
Những bước chân nhẹ nhàng vì hành trang chẳng có gì.
Thắt lưng chẳng mang tiền vàng, bạc, đồng, để dùng khi hữu sự.
Cả những điều một người lữ hành thường có cũng không:
một bao bị, một cái áo dự phòng, một cái gậy để chống khi đi đường xa.
Người tông đồ được đặt ở trong tình trạng bấp bênh, không chỗ dựa.
Chỗ dựa duy nhất của họ là lòng tốt của Thiên Chúa,
được thể hiện qua lòng tốt của người đón nghe Tin Mừng.
Chuyện ăn, chuyện ở, họ đều phải tin tưởng phó thác (cc. 10b. 11).
Hành trang nhẹ nhàng, tâm hồn nhẹ nhàng,
nên các tông đồ cũng thi hành sứ vụ một cách nhẹ nhàng, thanh thoát.
Họ làm mọi sự mà chẳng đòi hỏi gì (c. 8b).
Vừa rao giảng Tin Mừng rằng Nước Trời đã đến rồi,
vừa minh chứng Tin Mừng ấy bằng bao niềm vui đem đến cho người khác.
Bệnh nhân được khỏi, người chết sống lại, người phong được sạch,
và nhất là ma quỷ không còn chỗ cư ngụ trong lòng con người (c. 8a).
Bình an là lời chúc trên môi dành cho mọi căn nhà họ đến ở (c. 12).
Rõ ràng hành trình truyền giáo là một kinh nghiệm đầy ắp niềm vui hứng khởi,
cho đoàn chiên và cho chính các tông đồ.
Nếu Thầy Giêsu dặn dò các tông đồ hôm nay, Ngài sẽ nói gì?
Ngài sẽ bảo chúng ta đừng mang gì và nên làm gì cho con người hôm nay?
Chắc Ngài cũng sẽ khuyên hãy nhẹ nhàng hơn, phó thác hơn, vô vị lợi hơn.
Thế giới hôm nay vẫn yếu đau và bị ám như cách đây hai ngàn năm.
Thế giới hôm nay vẫn chờ một Tin Vui, một lời chúc Bình an.
Chúng ta vẫn được mời gọi để làm điều Ngài và các môn đệ đã làm.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin sai chúng con lên đường
nhẹ nhàng và thanh thoát,
không chút cậy dựa vào khả
năng bản thân
hay vào những phương tiện trần
thế.
Xin cho chúng con làm được
những gì Chúa đã làm:
rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ,
chữa lành những người ốm
đau.
Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng
với niềm vui của người tìm được viên ngọc quý,
biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân.
Xin ban cho chúng con khả năng
đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa.
Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ
của bao người đau khổ thể xác tinh thần.
Lạy Chúa Giêsu,
thế giới thật bao la
mà vòng tay chúng con quá nhỏ.
Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau
mà tin tưởng lên đường,
nhẹ nhàng và thanh thoát.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
11 THÁNG SÁU
Biết Phân Định Tốt
Xấu
Con người được tạo dựng
“theo hình ảnh của Thiên Chúa”; mầu nhiệm này còn được trình bày trong
các sách khác của Thánh Kinh. Chẳng hạn, ta đọc thấy trong Sách Huấn Ca: “Đức
Chúa lấy đất mà tạo ra con người… rồi lại đưa con người trở về đất. Người cho
nó quyền thống trị vạn vật trên mặt đất. Người mặc cho nó sức mạnh tương xứng với
mình, và theo hình ảnh mình mà làm ra nó. Người phú bẩm cho mọi xác phàm lòng
kính sợ Người, để chúng thống trị muôn chim cầm thú. Người ban cho chúng trí
khôn, luỡi, mắt, tai, và trái tim để chúng suy nghĩ. Người làm cho chúng đầy kiến
thức thông minh, tỏ cho chúng biết điều tốt điều xấu. Người đặt con mắt mình
vào tâm hồn chúng, để chúng nhận ra các công trình vĩ đại của Người … Người còn
ban kiến thức cho chúng, và cho thừa hưởng luật đem lại sự sống; Người đã lập với
chúng một giao ước muôn đời, và tỏ cho thấy những điều Người phán quyết” (Hc
17,1. 2b – 7. 9 – 10).
Cần phải suy niệm thật
kỹ bản văn phong phú và sâu sắc trên của Sách Huấn Ca. Hãy ôm ấp những lời ấy
trong lòng mình và hãy xích lại gần hơn với Thiên Chúa.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 11/ 6
Thánh Barnaba, Tông
đồ
Cv 11, 21b-26;
13,1-3; Mt 10, 6-13.
Lời suy niệm: “Tốt hơn là hãy đến
với các con chiên lạc nhà Ítraen. Dọc đường hãy rao giảng rằng: Nước Trời đã đến
gần.”
Trong đoạn Tin Mừng này Chúa Giêsu căn dặn các Tông Đồ trước khi được sai đi,
trước hết Người khoanh vùng nơi các ông ưu tiên đến trước, rồi cách thức khi đi
dọc đường, khi đến nơi, cần quan tâm chọn nơi trú ngụ thích hợp, tạo bình an
nơi chốn mà mình đến và cư trú, chuẩn bị chu dáo cho việc rao giảng, chữa lành
bệnh tật, trong đó có quyền trừ quỷ, đem lại sự sống cho con người đang lắng
tai nghe.
Lạy Chúa Giêsu, Trong mọi công tác truyền giáo ngày hôm nay có rất nhiều trở ngại
và khó khăn, và đầy nguy hiểm. Xin cho chúng con có nhiệt tâm truyền giáo để cọng
tác với các ngài với sự tận tình giúp đỡ, bao bọc, gìn giữ các ngài được bình
an trong khả năng sẵn có của chúng con, để công tác truyền giáo đạt được những
điều tốt đẹp nhất.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
11-06: Thánh BARNABA TÔNG ĐỒ
(Thế kỷ I)
Thánh Barnaba nắm giữ
một chức vụ nổi bật trong những chương đầu của sách công vụ tông đồ, không phải
cho mình mà nhằm giới thiệu thánh Phaolô, anh hùng trong cuốn sách. Ngài là một
người Do thái được sinh tại Chypre. Và là một phần tử trong Giáo hội sơ khai ở
Giêrusalem.
Chính ở địa vị này mà
khoảng năm 39 tân tòng Saolê được đón nhận vào cộng đoàn các tông đồ (Cv 9-27).
Bốn năm sau, Ngài kêu gọi Saolê tham gia công tác hướng dẫn cộng đoàn Kitô giáo
mới được thiết lập ở Antiôkia (Cv 11,19-26). Thành phố này rất quan trọng, chỉ
kém Rôma và đã trở nên trung tâm Kitô giáo của lương dân. Một lần nữa, cùng với
Saolê, Ngài được trao phó cho nhiệm vụ mang tiền cứu trợ gởi về cho Giáo hội
Giêrusalem (Cv 27-30). Nơi đây hai người lại được Gioan Maccô là bà con của Barnaba
(Gl 4,10) nhập bọn.
Ba người họp thành
đoàn truyền giáo, lên đường khoảng năm 45 (Cv 13 và 14). Từ đây Barnaba dần dần
ẩn mặt đi. Dầu Chypre là sinh quán của Ngài, nhưng chính Saolê dưới tên mới là
Phaolô dẫn dầu cuộc truyền bá Phúc âm. Phaolô và đoàn tùy tùng lên đường tới lục
địa Tiểu Á. Khi cùng Phaolô rao giảng (Cv 14,8-18), Barnaba được coi là thần
Jupiter và Phaolô là Hermes.
Đây là chứng cớ hùng hồn
về vai trò hỗ tương của hai ông. Ba năm sau Phaolô trở về và được cộng đồng
Giêrusalem phê chuẩn về đường lối Ngài theo trong chuyến hành trình (Cv
15,1-35). Nămsau, dự định hành trình truyền giáo thư hai có sự tranh chấp về việc
kết nạp Gioan Marcô (Cv 15,35-41). Phaolô chọn các bạn đồng hành khác và
Barnaba trở về Chypre. Việc giới thiệu Phaolô đã được hoàn thành và tên Ngài
không còn được nhắc đến trong sách Công vụ nữa. Trong việc trao đổi thư từ của
Phaolô với Giáo hội Côrintô cho thấy khoảng năm 56 thánh Barnaba vẫn còn sống
(1Cr 9,5). Sáu năm sau Phaolô xin Marcô đến gặp mình ở Roma (2Tm4). Sự kiện này
cho phép chúng ta nghĩ rằng thánh Barnaba đã qua đời.
Một truyền thống sau
này nói tới chuyến hành trình của thánh Barnaba tới Alexandria, Rôma, và Milan.
Tại Milan, Ngài là giám mục tiên khởi. Một truyền thống đáng tin hơn cho biết
Ngài chết vì ném đá ở Salamis,sinh quán của Ngài. Nay còn nhiều mảnh vụn của cuốn
ngụy thư Phúc âm thánh Barnaba và của một tác phẩm thuộc thế kỷ thứ V là công vụ
thánh Barnana. Nhưng những tài liệu này không cho biết nhiều hơn những điều đã
biết được từ sách Công vụ các tông đồ. Cuốn gọi là thơ thánh Barnaba mà nhiều
giáo phụ chép vào thơ mục thánh kinh, nay người ta biết được là tác phẩm của một
người Do thái theo Kitô giáo ở Alexandria.
Người ta nói rằng mộ
Ngài được tìm thấy năm 448. Trên ngực Ngài còn có một cuốn Phúc âm theo thánh
Matthêu mà chính thánh Barnaba đã chép tay.
(daminhvn.net)
11 Tháng Sáu
Kẻ Tháo Ðinh
Một trong những chi
tiết trong cuộc tử nạn của Chúa Giêsu vẫn còn tiếp tục gợi hứng cho các họa sĩ:
đó là việc hạ xác Ngài xuống khỏi Thập giá. Tin Mừng theo thánh Gioan ghi lại
việc ông Nicôđêmô và một người môn đệ kín đáo khác của Chúa Giêsu tên là Giuse
Arimahtia đã đến xin phép Philatô được tháo gỡ xác Ngài xuống khỏi Thập giá.
Trong hầu hết các bức tranh mô tả biến cố này, người ta đều thấy hình ảnh tiều
tụy, không còn hình tượng của Chúa Giêsu mà hai người môn đệ đỡ xuống khỏi thập
giá. Một người tháo đinh ra khỏi tay Ngài, còn một người thì tháo đinh ra khỏi
chân Ngài.
Một họa sĩ nọ, thay
vì vẽ lại chân dung của hai người môn đệ của Chúa Giêsu đã chọn những khuôn mặt
của thời đại ông. Và người tháo đinh ra khỏi bàn chân của Chúa Giêsu không ai
khác hơn là chính ông. Khi được hỏi lý do tai sao ông lại đồng hóa mình với một
trong hai người môn đệ, nhà họa sĩ đã giải thích như sau: “Những người như tôi
rất thường đóng đinh Chúa Giêsu vào thập giá. Và những đinh sắt tôi dùng để
đóng đinh Chúa chính là tội lỗi của tôi. Ðã đến lúc, tôi cảm thấy cần phải tháo
gỡ chiếc đinh của tội lỗi ra khỏi thân xác của Ngài”.
Chúng ta tuyên xưng
trong Kinh Tin Kính: “Người chịu đóng đinh vào thập giá vì chúng tôi”. Ðiều đó
có nghĩa là do tội lỗi của chúng ta, chúng ta góp phần vào việc đóng đinh Ngài
vào thập giá.
Thập giá vẫn luôn mãi
là một lời tố cáo, một bản án cho tội lỗi. Nhưng đó không chỉ là một biểu tượng,
mà là một hiện thực. Nếu Ðức Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là Một, nếu Ðức
Kitô vẫn tiếp tục sống trong lịch sử con người và nếu tội lỗi là một chối bỏ,
thì mỗi lần chúng ta phạm tội, chúng ta cũng chối bỏ chính Ngài, chúng ta đóng
đinh Ngài vào thập giá một lần nữa. Nếu Ðức Kitô vẫn tiếp tục sống trong lịch sử
con người, nếu Ngài tự đồng hóa với con người, nhất là những kẻ khốn cùng, những
kẻ thấp hèn nhất trong xã hội, thì mỗi một lần chúng ta khước từ hay xúc phạm đến
người anh em, là mỗi lần chúng ta chối bỏ Ngài và đóng đinh Ngài vào thập giá.
Qua mỗi người anh em của chúng ta, Chúa Giêsu vẫn còn tiếp tục bị chối bỏ và chịu
đóng đinh.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét