Trang

Thứ Bảy, 1 tháng 9, 2018

02-09-2018 : (phần I) CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN năm B


02/09/2018
Chúa Nhật tuần 22 Thường Niên năm B.
(phần I)

BÀI ĐỌC I: Đnl 4, 1-2. 6-8
“Các ngươi hãy tuân giữ các giới răn và đem thực hành bằng việc làm”.
Trích sách Đệ Nhị Luật.
Môsê nói với dân chúng rằng: “Hỡi Israel, giờ đây hãy nghe các lề luật và huấn lệnh mà ta dạy bảo các ngươi phải thực hành, để được sống và được vào chiếm hữu phần đất mà Chúa là Thiên Chúa cha ông các ngươi sẽ ban cho các ngươi. Các ngươi chớ thêm bớt điều gì trong các điều ta đã truyền, nhưng hãy tuân giữ các giới răn của Chúa là Thiên Chúa các ngươi mà ta đã truyền dạy các ngươi. Các ngươi phải tuân giữ và thực hành, vì đó là sự khôn ngoan và sáng suốt của các ngươi trước mặt muôn dân, để khi nghe nói đến tất cả các lề luật ấy, họ nói: ‘Thật, dân tộc vĩ đại này là một dân khôn ngoan và sáng suốt’. Không một dân tộc nào được các thần ở bên cạnh mình, như Chúa là Thiên Chúa chúng ta, ở bên cạnh chúng ta, khi chúng ta kêu cầu Người. Có dân tộc thời danh nào khác có lễ nghi, huấn lệnh công chính, và bộ luật như ta trình bày trước mặt các ngươi hôm nay không?”
“Vậy các ngươi hãy ý tứ và giữ mình. Trong suốt đời các ngươi đừng quên và đừng để lòng xao lãng những điều các ngươi đã thấy. Hãy dạy cho con cháu các ngươi biết các điều ấy”. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 14, 2-3ab. 3cd-4ab. 4c-5
Đáp: Lạy Chúa, ai sẽ được ở trong đền tạm Chúa? (c. 1a)
Xướng: 1) Người sống thanh liêm và thực thi công chính, và trong lòng suy nghĩ điều ngay, và lưỡi không bịa lời vu khống. – Đáp.
2) Người không làm ác hại bạn đồng liêu, cũng không làm nhục cho ai lân cận. Người coi rẻ đứa bất nhân, nhưng kính yêu những ai tôn sợ Chúa. – Đáp.
3) Người dẫu thề điều chi bất lợi, cũng không thay đổi, không xuất tiền đặt nợ thu lời, cũng không ăn hối lộ hại người hiền lương. Người thực thi những điều kể đó, thì muôn đời chẳng có lung lay. – Đáp.
BÀI ĐỌC II: Gc 1, 17-18. 21b-22. 27
“Anh em hãy thực thi lời đã nghe”.
Trích thư Thánh Giacôbê Tông đồ.
Anh em thân mến, mọi ơn lành và mọi phúc lộc hoàn hảo đều do tự trời, bởi Cha sáng láng ban xuống, nơi Người không có thay đổi và cũng không có bóng dáng sự thay đổi. Người đã muốn sinh ra chúng ta bằng lời chân thật, để chúng ta nên như của đầu mùa trong các tạo vật.
Cho nên anh em hãy khử trừ mọi thứ nhơ bẩn và lòng đầy gian ác, anh em hãy ngoan ngoãn nhận lãnh lời đã gieo trong lòng anh em, lời có sức cứu độ linh hồn anh em. Anh em hãy thực thi lời đã nghe, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình.
Lòng đạo đức trong sạch và tinh tuyền đối với Thiên Chúa Cha là: thăm viếng cô nhi quả phụ trong cơn quẫn bách, và giữ mình khỏi mọi ô uế đời này. Đó là lời Chúa. 
ALLELUIA: Ga 14, 5
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống; không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”. – Alleluia. 
PHÚC ÂM: Mc 7, 1-8a. 14-15. 21-23
“Các ngươi gác bỏ một bên các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục phàm nhân”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, những người biệt phái và mấy luật sĩ từ Giêrusalem tụ tập lại bên Chúa Giêsu, và họ thấy vài môn đệ Người dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch, nghĩa là không rửa trước. Vì theo đúng tập tục của tiền nhân, những người biệt phái và mọi người Do-thái không dùng bữa mà không rửa tay trước, và ở nơi công cộng về, họ không dùng bữa mà không tắm rửa trước. Họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa, như rửa chén, rửa bình, rửa các đồ đồng. Vậy những người biệt phái và luật sĩ hỏi Người: “Sao môn đệ ông không giữ tập tục của tiền nhân mà lại dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch?” Người đáp: “Hỡi bọn giả hình, Isaia thật đã nói tiên tri rất chí lý về các ngươi, như lời chép rằng: ‘Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta. Nó sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người’. Vì các ngươi bỏ qua các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người”.
Người lại gọi dân chúng mà bảo rằng: “Hết thảy hãy nghe và hiểu rõ lời Ta. Không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho họ ra ô uế. Chỉ có những gì từ con người xuất ra, chính những cái đó mới làm cho họ ra ô uế. Vì từ bên trong, từ tâm trí người ta xuất phát những tư tưởng xấu: ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăng loàn, ganh tị, vu khống, kiêu căng, ngông cuồng. Tất cả những sự xấu đó đều ở trong mà ra, và làm cho người ta ra ô uế”. Đó là lời Chúa.


Suy Niệm: Phải Biết Kiểm Ðiểm

Gặp hoàn cảnh phải thức thời, con người thường hay do dự. Nhiều khi không phải vì sợ hãi, ngại ngùng; nhưng vì lương tâm bất an và bị giằng co. Một bên là những nguyên tắc luân lý và đạo đức trước đây; và bên kia là những đòi hỏi mới của hoàn cảnh. Làm sao để không thái quá và cũng không bất cập, không cấp tiến cũng không bảo thủ, mà chỉ tiến bộ hoặc tiên tiến? Chắc chắn phải vận dụng óc sáng tạo. Nhưng có lẽ cũng không nên quên những bài học của lịch sử. Và Sách Thánh cũng là một kho tàng khôn ngoan ngay cả về phương diện này. Những bài đọc Kinh Thánh hôm nay là một thí dụ. Chúng ta sẽ thấy vừa phải trung thành với các nguyên tắc đạo đức, vừa phải sáng suốt tiến bộ. Xin Chúa cho chúng ta biết hiểu lời của Người.

1. Phải Chọn Ðường Sống
Bài sách Thứ luật gợi lên một lịch sử đầy biến cố. Bề ngoài đó là những lời Môsê trối cho dân trước khi ông từ giã cõi trần. Ông đang ở bên kia sông Yorđan, biết mình không được vào Ðất Hứa. Dân sẽ được vào. Nhưng ở đó họ sẽ có được hạnh phúc không? Tất cả tùy thuộc ở thái độ của họ trung thành đối với Chúa... Thế mà kinh nghiệm những năm lãnh đạo dân cho Môsê biết Israel không phải là một dân vừa. Hơi gặp hoàn cảnh mới là họ đã sẵn sàng đi dệu dạo, chứ không nhất mực ngay thẳng theo đường lối của Chúa. Thế nên lòng thương dân đã thôi thúc Môsê nói lên những lời cuối cùng này, không phải để họ giữ ngày nay, ngày mai, nhưng mọi ngày trong đời sống và mọi thế hệ trong lịch sử.
Ông có thể làm được công việc ấy không?
Lời khuyên của một người có thể có giá trị cho mọi thế hệ loài người không?
Môsê đã không quá tự phụ ư?
Con người của ông không phải như vậy. Ðây chỉ là những lời người ta gán cho ông. Và chắc chắn ông sung sướng lãnh vinh dự này. Những lời đó hợp ý với ông. Và nhất là chúng không phải là của riêng cá nhân một tác giả nào. Chúng là thành quả của một tinh thần trung kiên qua nhiều thế hệ lịch sử của dân Chúa. Và tinh thần này đã bắt đầu từ Môsê.
Quả vậy, sách Thứ Luật là tác phẩm của tinh thần dân Chúa. Nó thu góp các suy tư chân chính của nhiều thế hệ lịch sử. Người ta coi Môsê là tác giả chỉ vì mọi suy tư ở đây đều phát xuất từ giao ước và chỉ muốn trung thành với giao ước Sinai. Giá trị của nó nằm ở chỗ nó là những bài học rút ra từ nhiều kinh nghiệm sống. Chúng ta có thể tin ở những lời khuyên của sách này vì có thể nói ngay hoàn cảnh mới vừa đến với chúng ta, nó cũng đã trải qua.
Vậy, mở đầu bài sách đó hôm nay, Môsê nói với mọi người: "Hãy nghe". Ðó là tiếng nói của người khôn, đầy kinh nghiệm. Và Môsê nói tiếp. Các ngươi hãy giữ lệnh truyền để được sống và được đất hứa. Ðó là điều không được tranh luận bàn cãi. Là vấn đề một sống một chết, có thế thôi. Giữ Luật Chúa thì sống, bằng không thì chết. Mà chết và sống ở đây có ý nghĩa thực tế cụ thể chứ không bóng bẩy. Thiên Chúa chỉ ban Ðất Hứa và các Lời Hứa của Người cho kẻ giữ Luật. Kẻ không giữ Luật, không có chỗ đứng, không có nơi tựa, nó sẽ hư vong.
Ước gì chúng ta không bao giờ quên nguyên tắc này. Gặp hoàn cảnh mới mẻ đến đâu đời sống con người vẫn phải nắm giữ một số Luật điều. Vứt bỏ mọi sự, kể cả nguyên tắc phải giữ luật và phải sống có kỷ luật, là biến mình trở nên bọt sóng để tùy gió đánh đi. Con người sinh ra có gốc. Ðời sống con người phải có phương hướng. Chúng ta phải chọn đường sống, như lời Môsê nói hôm nay.
Tuy nhiên ông rất thận trọng. Ông nói: Không được thêm gì vào luật Chúa, cũng không được xén bớt. Và đó là điều không dễ. Nó đòi người ta luôn luôn phải kiểm điểm thành khẩn trước mặt Chúa. Tiếc thay, con người lại ít khi muốn đến trước nhan Người. Họ luôn muốn lưu lại nơi thế giới tạo vật. Có khi lương tâm ray rứt, thúc đẩy họ đi gặp Chúa, thì họ lại lười biếng lấy một tạo vật làm ngẫu tượng để thay thế cho Người. Rồi họ nghĩ ra những yêu cầu của ngẫu tượng ấy. Dần dần họ không còn nhớ và sống theo Luật chúa nữa nhưng đã lấy truyền thống và tập quán loài người làm luật sống. Bài Tin Mừng hôm nay sẽ cho chúng ta thấy rõ điều này. Nhưng Môsê, ngay từ đầu đã cảnh giác người ta. Ông dạy phải luôn luôn tìm ra ý Chúa. Chỉ có nó là lẽ sống của con người và là đường dẫn họ đến sự sống.
Ai giữ đúng luật Chúa sẽ luôn luôn có thể tự phụ. Họ sẽ là người "khôn ngoan minh mẫn ở trước mắt các dân", vì những điều họ giữ thật là những phán quyết công minh. Hơn thế nữa, các dân sẽ thấy rằng sẽ trải qua các thời đại và cảnh đời tang bồng mà luật pháp vẫn như vậy, thì là dấu nó không do lòng người thay đổi làm ra, nhưng phải do Ðấng vĩnh cửu bất biến đã phán quyết. Và như thế thật là hạnh phúc và vinh dự cho dân tộc, cho con người được Thiên Chúa ở gần và chăm sóc như vậy.
Những suy nghĩ của sách Thứ Luật rõ ràng rất sâu xa. Nó khiến chúng ta tin tưởng vào nguyên tắc. Ðó là lẽ sống. Và đó là vinh dự. Không phải Môsê đã tự ý nói lên được những lời chân thật trên đây. Ðó là kinh nghiệm của cả một dân tộc trải qua cuộc đời bể dâu và sóng gió. Ðây còn là dân tộc được Thiên Chúa lựa chọn và hướng dẫn. Thế nên, những lời sách Thứ Luật hôm nay đúng ra là tiếng nói của Chúa Thánh Thần và của chính Thiên Chúa. Người mạc khải cho chúng ta chân lý này: nếu con người muốn sống và chiếm được đất hứa, tức là hạnh phúc, họ phải giữ luật. Và phải giữ và chỉ giữ đúng luật của Người. Không những đó là đường sống cho họ mà còn là vinh dự ở trước mắt các dân. Ai hiểu như vậy mà còn có thể sống như không có nguyên tắc và phương hướng? Và gặp hoàn cảnh đổi đời, ai tưởng rằng chỉ cần "cho de" những nguyên tắc cũ mà không chấp hành những lệnh truyền mới? Mọi tình hình mới chỉ là cơ hội để khám phá ra nhiệm vụ mới. Ðó là điều ít khi người ta muốn làm, như người Dothái trong bài Tin Mừng hôm nay. Nhưng chúng ta hãy nghe lời Ðức Yêsu dạy.

2. Phải Biết Kiểm Ðiểm
Người lại đụng độ với bọn Biệt phái và Luật sĩ. Nói đúng hơn, bọn người bảo thủ và lạc hậu này chỉ muốn riết Người vào kỷ luật. Họ thấy môn đồ của Người không rửa tay trước khi dùng bữa. Thế là họ đùng đùng tấn công: "Vì lẽ gì mà môn đồ của ông không giữ lệ truyền của tiền nhân?" Họ nói như ai cũng sống trong môi trường của họ. Tiền nhân của họ là ai? Lệ truyền ấy có từ hồi nào? Môsê đã chẳng nói trong sách Thứ luật rằng: đừng thêm thắt, xén bớt Luật Chúa sao? Ðức Yêsu lại còn thấy bộ mặt giả hình, giả đạo đức, giả nhân nghĩa của họ nữa. Thế nên Người trả lời và soi sáng cho họ hai điểm. Một là họ đã gạt lệnh truyền của Thiên Chúa, mà cố thủ lấy lệ truyền của loài người. Và hai là họ chỉ chú trọng rửa tay bên ngoài mà không thanh tẩy lòng trí bên trong. Nói đúng ra, Ðức Yêsu đã hỏi quật lại họ hơn là chỉ trả lời cho câu hỏi. Người không cắt nghĩa vì sao các môn đồ không rửa tay trước khi dùng bữa; nhưng lại vạch ra cho bọn Biệt phái và Luật sĩ biết đời sống của họ không vô tội đâu. Nó còn xấu xa là khác. Vì nó không giữ luật Chúa, một chỉ làm theo tập tục. Nó chỉ chải chuốt bộ mặt bên ngoài và để yên ao tù dơ nhớp nơi tâm hồn.
Nhiều người không thích câu Ðức Yêsu đã nói về điều gì tự bên ngoài mà vào bụng không làm cho người ta ra ô uế, nhưng mọi điều xấu xa làm ô uế đều tự bên trong mà xuất ra. Nhưng chúng ta hãy hiểu thái độ quyết liệt của Người... Ở thời bấy giờ, người Dothái có những phân biệt rất vật chất về những gì sạch và dơ. Nếp sống đạo của họ căn cứ vào những việc giữ luật lệ này. Ðến nỗi họ không còn để ý đến tư cách của tâm hồn, mà chỉ còn quan tâm đến những cái hình thức. Ðức Yêsu gọi họ là bọn giả hình, là có cơ sở. Chúng ta hãy nhớ đến một người như Phêrô. Một ngày kia, gần đến giờ ăn trưa. Ông đói bụng và thiếp ngủ đi. Và ông mơ thấy Chúa bảo phải ăn mớ ếch nhái trong tấm mền ở trên trời thả xuống. Phản ứng của ông là của Dothái giáo. Ông lắc đầu bảo rằng đây là vật dơ, người đạo đức không được ăn kẻo ra ô uế. Ông cũng cố thủ lệ truyền của loài người mà gạt lệnh truyền của Chúa vừa bảo ông. Ðến nỗi Chúa phải nhắc nhở cho ông rằng: Những gì Thiên Chúa đã tẩy sạch thì đừng gọi là dơ nữa!
Tựu trung, óc vụ hình thức vẫn thật là khó chữa. Lâu ngày nó thi hành lệ truyền của loài người và quên lệnh truyền của Thiên Chúa, thành ra có lúc nó dám vịn vào lệ truyền của phàm nhân để cưỡng lại lệnh truyền của Ðấng Tối Cao. Kh6ng những nó đa lấy ngẫu tượng thay cho Thiên Chúa mà còn đi đến chỗ dùng ngẫu tượng nghịch lại Ngài.
Ðức Yêsu hôm nay muốn mạc khải điều đó. Người muốn người ta phải kiểm điểm lại đời sống tôn giáo và đạo đức của mình. Và để khỏi tiếp tục lầm lạc, người khuyên mọi người hãy bắt đầu rửa sạch lòng mình, để nguồn có trong thì những dòng tư tưởng chạy ra từ tâm hồn mới sạch. Công việc này ai cũng phải làm và phải làm đi làm lại. Bài thư Yacôbê khi ấy sẽ có giá trị thiết thực.

3. Phải Chịu Lấy Lời
Gọi đây là một thư thì cũng chỉ là cách nói. Ðúng ra nó là một bản văn giáo huấn các tín hữu. Người ta không nên tìm ở đây những tư tưởng độc đáo. Nhưng đọc xong ai cũng cảm thấy tác giả bức thư này rất thành tâm. Ông đòi tin-hành nhất thiết phải đi đôi; không được nhị tâm và đi dệu dạo, tức là đừng nghĩ rằng có thể làm tôi Thiên Chúa mà lòng lại chiều theo thế gian được. Những câu đầu tiên đọc trong phụng vụ hôm nay đã nói rõ vì sao như vậy. Tác giả viết: "Ơn tốt lành, lộc trọn hảo, hết thảy đều do trên, xuống từ Cha các tinh sao sáng láng; nơi Người không có biến dịch, hay vì xoay vần mà khuất bóng". Mới đọc chúng ta có thể thấy khó hiểu. Nhưng đây là những lời quan trọng. Tác giả nói đến nguồn gốc, căn nguyên, cơ sở của lòng đạo đức chân thật.
Quả vậy lòng đạo đức của chúng ta không xây trên những cái gì đổi thay, khi sáng khi mờ. Không, nó là ơn Chúa ban. Người là Ðấng tạo hóa. Người đã dựng nên tinh tú. Người là Ðấng hoàn toàn sáng láng, chẳng bao giờ có thể mờ tối vì Người chẳng bao giờ thay đổi và khuất bóng. Nói rằng các nguyên tắc đạo đức căn bản có thể thay đổi và châm chước được là nói đến một thứ đạo đức không lấy Chúa làm nền tảng và nguồn gốc. Môsê trong sách Thứ luật đã nói: đừng thêm thắt bớt xén luật Chúa cũng là nói theo nghĩa đó. Và cũng vì vậy trong bài Tin Mừng, Ðức Yêsu bảo phải luôn thanh tẩy tâm hồn.
Ở đây Yacôbê cũng dạy "phải khử trừ mọi thứ uế nhơ và khiêm nhu chịu lấy lời vốn đã được gieo sẵn trong lòng". Người muốn hết thảy hãy thanh tẩy mọi dục vọng và lệ truyền để làm sáng tỏ Lời Tin Mừng cứu độ đã được gieo vào lòng tín hữu khi lãnh nhận đức tin. Ðó không phải chỉ là Lời chân lý, nhưng còn là chính Ngôi Lời Thiên Chúa đã giáng sinh làm người và bây giờ còn mầu nhiệm lưu lại trong các tâm hồn trong sạch. Chính lời đó mới cứu được linh hồn chúng ta khi chúng ta chỉ nghe tiếng Người.
Và Người không chấp nhận cho chúng ta tin Người và mang danh hiệu Kitô hữu của Người mà không thi hành lệnh truyền của Người. Và lệnh truyền ấy là hãy yêu thương anh em, như lời Yoan viết; hay như lời Yacôbê nói hôm nay là: viếng thăm cô nhi quả phụ... Chính nếp sống bác ái chân chính này giữ gìn chúng ta không "bợn vết nhơ của thế gian".
Như vậy cả ba bài Kinh Thánh hôm nay đã cho chúng ta phương hướng để sống đạo đức. Dù hoàn cảnh có đổi thay và tình hình có mới mẻ, người tín hữu vẫn phải sống có nguyên tắc. Dĩ nhiên không được bắt chước người Dothái lấy lệ truyền của loài người làm chân lý bất di chuyển; và tệ hơn còn vịn vào nó để khước từ lệnh truyền của Thiên Chúa. Không, hoàn cảnh mới chỉ đem lại cho chúng ta cơ hội kiểm điểm lại đời sống của mình; không phải chỉ nhìn vào những cái bên ngoài, nhưng phải đi sâu vào tâm hồn, để gạt bỏ những lớp bụi ô uế đầy gian tà hầu tìm ra Lời Chúa và hình ảnh của Người đã được gieo sẵn và in sẵn trong tâm khảm. Ánh sáng của Chúa sẽ lóe lên. Tiếng nói của Người sẽ trong trẻo. Chúng ta đi theo ánh sáng đó và thi hành tiếng nói đó thì sẽ đạo đức chân thật. Và mọi người sẽ thấy chúng ta bác ái hơn vì đạo Chúa là bác ái.
Giờ đây chúng ta sửa soạn tâm hồn đón Chúa vào lòng để từ đó mọi giòng tư tưởng biến ra hành động của đời sống chúng ta trở nên đạo đức, trong lành.

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)



Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật 22 Thường NiênNăm B
Bài đọcDeut 4:1-2, 6-8; Jas 1:17-18, 21b-22, 27; Mk 7:1-8, 14-15, 21-23.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Đâu là sự thờ phượng Thiên Chúa đích thực.
             Nhiều người giới hạn đạo vào việc thờ phượng Thiên Chúa trong nhà thờ: như đi tham dự Thánh Lễ mỗi tuần; hay chỉ chịu Phép Rửa để có danh hiệu Kitô hữu; hay chỉ thi hành một số điều bên ngoài mà Lề Luật đòi buộc. Tôn giáo chân chính đòi con người phải sống kết hiệp với Thiên Chúa khi làm việc thờ phượng cũng như trong đời sống hàng ngày. Các tín hữu phải tuân giữ tất cả các Lề Luật của Thiên Chúa, và phải sống đức bác ái cách trọn hảo bằng việc giúp đỡ tha nhân.
            Mỗi Bài Đọc hôm nay tập trung trong một khía cạnh của việc thực hành tôn giáo. Trong Bài Đọc I, ông Moses đưa ra những lý do để khuyên con cái Israel phải tuân giữ trọn vẹn Thập Giới của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc II, thánh Giacôbê chú trọng đặc biệt đến việc nghe và thực hành những lời Thiên Chúa dạy, vì tri hành phải đồng nhất. Một người không thể tách rời niềm tin ra khỏi những việc làm để minh chứng đức tin sống động của mình. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tố cáo việc thực hành tôn giáo bằng những lễ nghi giả hình bên ngoài, như giữ các lề luật về việc thanh sạch bên ngoài; mà quên đi việc thanh tẩy thực sự trong tâm hồn. Ngài muốn con người phải đặt những giới luật của Thiên Chúa lên trên những lề luật và truyền thống của con người. 
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC: 
1/ Bài đọc I: Hãy thực hành Thập Giới mà Thiên Chúa ban cho anh em.
1.1/ Sự cao trọng của Thập Giới:
            (1) Thập Giới phát xuất từ Thiên Chúa, Đấng duy nhất biết những gì tốt lành cho con người. Ngài ban cho con người Thập Giới qua trung gian của ông Moses trên núi Sinai.
            (2) Thiên Chúa ban Thập Giới vì Ngài yêu thương con người. Ông Moses coi đây là một đặc quyền cao quí nhất, chỉ dành cho Dân Riêng của Thiên Chúa, khi ông hỏi con cái Israel: “Có dân tộc vĩ đại nào được thần minh ở gần, như Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng ta, mỗi khi chúng ta kêu cầu Người? Có dân tộc vĩ đại nào được những thánh chỉ và quyết định công minh, như tất cả Lề Luật mà hôm nay tôi đưa ra trước mặt anh em?” Không một dân tộc nào được thần của họ ban lề luật như Thiên Chúa ban Thập Giới cho Israel.
            (3) Không ai được thêm vào hay bớt đi những gì từ Thập Giới: Thói quen của con người là thích thêm bớt vào những gì đã hiện hữu, hoặc để cho nó văn hoa hơn, hay để che giấu những tà ý. Ông Moses tuyên bố rất rõ ràng về tính bất di dịch của Thập Giới: “Anh em đừng thêm gì vào lời tôi truyền cho anh em, cũng đừng bớt gì, nhưng phải giữ những mệnh lệnh của Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, mà tôi truyền cho anh em.”
            (4) Thập Giới là điều kiện ắt có và đủ để được vào Đất Hứa: “Giờ đây, hỡi Israel, hãy nghe những thánh chỉ và quyết định tôi dạy cho anh em, để anh em đem ra thực hành. Như vậy anh em sẽ được sống và sẽ được vào chiếm hữu miền đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em, ban cho anh em.” Đất Hứa ở đây có thể hiểu là vùng đất Canaan, nhưng bao quát hơn, là Thiên Đàng sau này. 
1.2/ Thập Giới ban hành là để tuân giữ: Ông Moses truyền cho con cái Israel: “Anh em phải giữ và đem ra thực hành, vì nhờ đó anh em sẽ được các dân coi là khôn ngoan và hiểu biết.”
            Theo truyền thống Do-thái, Thập Giới được gọi là “Mười Lời” của Thiên Chúa (deca-logos trong tiếng Hy-lạp, decalogue trong tiếng Pháp). Lời có thể là chỉ một chữ hay cả bài diễn văn. Trong ngôn ngữ Do-thái, cũng không có sự khác biệt giữa “lời” và “sự việc, hay sự vật.” Họ dùng chung một chữ “dabar” để chỉ lời hay sự việc xảy ra; hiểu theo kiểu Việt-nam, “tri hành đồng nhất.” Họ có lý do để làm như thế, vì nếu một người biết nhiều mà không thực hành, nào có ích chi cho người ấy! Thập Giới ban hành không phải để học thuộc lòng, cũng không để đóng khung thờ lạy.
1.3/ Thập Giới không giới hạn tự do của con người: Một cách tuyệt đối, con người vẫn có tự do để giữ hay không giữ; nhưng Thập Giới cung cấp đường đi nước bước cho con người; nhất là nó giúp cho con người nhận ra những nguy hiểm của các kẻ thù luôn rình rập quyến dũ con người. Ngoài ra, Thập Giới cũng giúp con người định vị các thứ tự ưu tiên của cuộc đời: tiên vàn là mối liên hệ hàng đầu giữa con người với Thiên Chúa, thứ đến là mối liên hệ giữa con người với tha nhân, và sau cùng là mối liên hệ giữa con người với thế giới vật chất.
2/ Bài đọc II: Hãy đem Lời Chúa ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình.
2.1/ Hiệu quả của Lời Chúa:
            (1) Lời Thiên Chúa là sự thật: giúp chúng ta phân biệt sự thật khỏi những sự gian trá làm mê hoặc lòng người. Thánh Giacôbê nói về sự cao trọng của Lời Chúa như sau: “Người đã tự ý dùng Lời chân lý mà sinh ra chúng ta, để chúng ta nên như của đầu mùa trong các thọ tạo của Người. Vì vậy, anh em hãy giũ sạch mọi điều ô uế và mọi thứ độc ác còn lan tràn; hãy khiêm tốn đón nhận lời đã được gieo vào lòng anh em; lời ấy có sức cứu độ linh hồn anh em.”
            (2) Phải thực hành Lời Chúa: Cũng một ý với ông Moses trong Bài Đọc I, thánh Giacôbê khuyên các tín hữu của ngài: “Anh em hãy đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình.”
            Chúng ta cần biết qua cộng đồng các tín hữu thời sơ khai. Nhiều người lầm lẫn về sự chỉ dạy của thánh Phaolô, nhất là trong Thư gởi tín hữu Rôma và Galat, khi ngài nói: con người được trở nên công chính nhờ niềm tin vào Đức Kitô. Họ nói: chỉ cần niềm tin vào Đức Kitô là đủ, việc làm không quan trọng, vì nó không ảnh hưởng đến sự cứu độ của con người. Ngày nay, vẫn còn nhiều anh em Tin Lành và nhiều người chủ trương sống theo lối sống này. Đây là một cách cắt nghĩa sai lầm, vì Đức Kitô và thánh Phaolô không chủ trương và dạy bảo như thế. Thánh Giacôbê cũng phải đương đầu với ý kiến như thế trong cộng đoàn của ngài. Chỗ khác trong Thư, ngài còn nhấn mạnh hơn nữa: “Đức tin không việc làm là đức tin chết” (Jas 2:17).
2.2/ Nếu tin Thiên Chúa, cũng phải yêu mến tha nhân: Mười Điều Răn được Đức Kitô tóm tắt trong hai giới răn căn bản là “Mến Chúa và yêu người.” Hay một cách đơn giản hơn nữa, Đạo Công Giáo là đạo yêu thương. Dĩ nhiên, yêu thương theo kiểu của Thiên Chúa, chứ không theo kiểu của con người. Chúa Giêsu đòi các tín hữu phải yêu thương kẻ thù, cầu nguyện, và làm ơn cho kẻ gây thiệt hại cho mình. Thánh Giacôbê khuyên các tín hữu: phải có lòng đạo đức tinh tuyền và không tỳ ố trước mặt Thiên Chúa Cha, thăm viếng cô nhi quả phụ lâm cảnh gian truân, và giữ mình cho khỏi mọi vết nhơ của thế gian.
3/ Phúc Âm: Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta.
3.1/ Các kinh-sư và biệt-phái tố cáo môn đệ Chúa Giêsu không giữ tập tục của tiền nhân: “Có những người biệt-phái và một số kinh-sư tụ họp quanh Đức Giêsu. Họ là những người từ Jerusalem đến. Họ thấy vài môn đệ của Người dùng bữa mà tay còn ô uế, nghĩa là chưa rửa. Thật vậy, người biệt-phái cũng như mọi người Do-thái đều nắm giữ truyền thống của tiền nhân: họ không ăn gì, khi chưa rửa tay cẩn thận; thức gì mua ngoài chợ về, cũng phải rảy nước đã rồi mới ăn; họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa như rửa chén bát, bình lọ và các đồ đồng. Vậy, người biệt-phái và kinh sư hỏi Đức Giêsu: “Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa?”” Luật Kosher của Do-thái là tất cả những luật liên quan tới việc phải giữ làm sao cho thanh sạch trong việc ăn uống cũng như việc tế lễ. Phần lớn những luật này là do con người thêm vào theo thời gian.
3.2/ Hãy để ý tới những nguyên lý nền tảng: Nhân cơ hội này, Chúa Giêsu muốn dạy con người 3 điều quan trọng:
            (1) Đừng thờ Thiên Chúa bằng môi miệng bên ngoài: vì Ngài thấu suốt những gì đang xảy ra trong tâm hồn con người. Họ có thể đánh lừa người đời bằng lối sống giả hình bên ngoài, nhưng không bao giờ qua mặt được Thiên Chúa. Chúa Giêsu dẫn chứng lời tiên-tri Isaiah đã từng lên án hạng người này: “Ngôn sứ Isaiah thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng: Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta.”
            (2) Đừng vịn vào truyền thống để hủy bỏ Lề Luật của Thiên Chúa: Chúa Giêsu tố cáo họ: “Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm.” Điều chúng ta phải nhận ra ở đây là Ngài không đến để phá hủy truyền thống; nhưng Ngài muốn dạy cho họ biết phải đặt giới luật của Thiên Chúa lên trên mọi luật lệ và truyền thống của con người. Khi nào có sự xung đột giữa giới luật của Thiên Chúa và luật lệ hay truyền thống của con người, họ phải can đảm tuân giữ giới luật của Thiên Chúa. Ví dụ: luật phá thai hay án tử hình.
            (3) Thanh tẩy tâm hồn bên trong cần thiết hơn thanh tẩy đồ dùng bên ngoài: Sau đó, Đức Giêsu lại gọi đám đông tới mà bảo: “Xin mọi người nghe tôi nói đây, và hiểu cho rõ: Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế. Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế.”
            Điều Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh ở đây là con người phải chú trọng đến việc thanh tẩy trong tâm hồn, vì hậu quả của tội lỗi làm con người ô uế trầm trọng hơn sự ô uế do đồ ăn thức uống gây ra. Những kinh-sư và biệt-phái chú trọng đến việc thanh tẩy bên ngoài để che đậy những ô uế trong tâm hồn, vì họ nghĩ không ai có thể thấy những gì họ giấu kín bên trong; nhưng không phải ai họ cũng giấu được, nhất là họ không thể giấu được Đức Kitô, Người có thể thấu suốt mọi bí ẩn trong tâm hồn của họ.
 ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG: 
           – Chúng ta phải thực hành mọi điều Thiên Chúa dạy trong Thập Giới, vì đó là những Lề Luật căn bản để đem lại hạnh phúc cho con người.
            – Lời Chúa không phải là những kiến thức để biết, nhưng là những điều cần thi hành để sinh lợi ích cho con người. Nếu sau khi biết rồi mà không chịu thực hành, chúng ta hoang phí thời giờ vô ích, vì chúng ta đã không sinh lợi được gì cho mình và cho tha nhân.
            – Vệ sinh thường thức là điều cần giữ để tránh bệnh tật; nhưng chúng ta phải chú trọng đến việc thanh tẩy tâm hồn, vì tội lỗi làm thiệt hại linh hồn chúng ta nhiều hơn. 
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

02/09/2018 – CHÚA NHẬT TUẦN 22 TN – B
Mc 7,1-8a.14-15.21-23

THỜ CHÚA VỚI CẢ TẤM LÒNG
“Dân này tôn kính ta bằng môi bằng miệng, còn lòng trí chúng thì xa ta. Chúng có thờ phượng ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân.” (Mc 7,6b-7)

Suy niệm: Những người tỏ ra vồn vã bề ngoài nhưng trong lòng lại không phải vậy nếu không phải là kẻ khoa trương “trăm voi không được bát nước xáo” thì cũng là hạng giả dối, đãi bôi. Chúa Giê-su mạnh mẽ lên án thói sống này; Ngài gọi những người sống như thế là giả hình, chỉ “thờ kính Chúa ngoài môi miệng, mà lòng trí thì xa Chúa.” Ngài cho biết lối thờ kính đó là “vô ích”, bởi vì đó là sống theo “những giới luật của người phàm” chứ không phải là thực thi “giới răn của Thiên Chúa”. Và cho dù họ có thực thi “giới răn của Chúa” thì cũng chỉ bằng hình thức bên ngoài chứ không phải với tất cả sự chân thành xuất phát tự đáy lòng.
Mời Bạn: Trong xã hội Việt Nam hôm nay, căn bệnh giả dối và khoe khoang ấy giống như một khối u ác tính trong giai đoạn di căn. Thật vậy, sự giả dối và tính khoe khoang đã gây ra biết bao nhiêu hệ lụy tai hại trong cuộc sống gia đình và xã hội mà mọi người cần phải lên án loại trừ. Với Chúa Ki-tô, điều luật lớn nhất chính là yêu mến Chúa và yêu thương anh em. Đó là giới răn trọng nhất. Còn tất cả những điều khác chỉ là phụ thuộc.
Sống Lời Chúa: Tâm niệm Lời Chúa: “Bất cứ làm việc gì, hãy làm tận tâm như thể làm cho Chúa, chứ không phải người đời” (Cl 3,23).
Cầu nguyện: Đọc kinh “Kính Mến”.
(5 Phút Lời Chúa)


Từ trái tim con người (2.9.2018 – Chúa nhật 22 Thường niên, Năm B)


Suy Niệm
Ðoạn Tin Mừng hôm nay khởi đi từ một chuyện nhỏ,
chuyện các môn đệ không rửa tay trước khi ăn.
Ðối với người Pharisêu, sau khi ra nơi phố chợ,
người ta thường trở nên ô uế do đụng chạm.
Phải rửa tay, vì tay ô uế làm đồ ăn ô uế,
và đồ ăn ô uế sẽ khiến cả con người ô uế.
Ðức Giêsu đã long trọng khẳng định:
“Không có gì từ bên ngoài vào trong con người
lại có thể làm cho con người ra ô uế” (c.15).
Khẳng định này là một cuộc cách mạng trong Do Thái giáo,
bởi lẽ đời sống người Do Thái bị bao vây bởi nhiều cấm kỵ”
không được ăn thịt heo, hay thịt thú chết ngạt;
không được đụng vào xác chết, vào người phong cùi;
không được ăn chung với dân ngoại hay vào nhà người tội lỗi…
Ðụng vào hay ăn vào là ô uế ngay.
Ðức Giêsu đã phạm nhiều điều cấm kỵ,
đã phá đổ nhiều bức tường ngăn cách kẻ xấu – người tốt,
dân Do Thái và dân ngoại, nam và nữ, nô lệ và tự do…
Ngài hồn nhiên đến với những người bị coi là ô uế
để làm họ nên sạch.
Thật ra Ðức Giêsu chẳng phản đối gì chuyện rửa tay,
nhưng Ngài thấy nó có vẻ giả hình
vì người ta chẳng để ý đến chuyện tẩy rửa trái tim.
Rửa tay để được yên tâm, mãn nguyện,
tránh khỏi phải rửa tâm hồn là điều khó hơn.
Ðức Giêsu cho ta thấy cái ô uế thực sự
lại không đến từ đụng chạm hay ăn uống.
Cái ô uế đáng sợ nằm ngay trong trái tim mỗi người.
Nó không từ ngoài vào, nhưng từ trong ra.
Ngài kẻ ra 12 ý định xấu xa bắt nguồn từ trái tim,
ý định xấu dẫn đến hành động không đẹp (cc.21-22).
Cần trở về với trái tim của mình.
Ðó không phải là một cuộc dạo chơi,
nhưng là một thách đố dám nhìn cái tôi sau lớp mặt nạ.
“Hãy tạo cho mình một trái tim mới” (Ed 18,31).
Ðó là lệnh truyền của Ðức Chúa,
nhưng con người chẳng thể tự mình thay tim.
“Ta sẽ thanh tầy các ngươi.
Ta sẽ ban cho các ngươi một trái tim mới” (Ed 36,25tt).
Ðổi được trái tim là đổi được tất cả.
Lời Chúa hôm nay là một lời nhắc nhở Hội Thánh.
Truyền thống, luật lệ và nghi thức là điều cần thiết,
nhưng không được quên điều cốt tủy của luật Chúa là yêu thương.
Tôn kính Thiên Chúa qua phụng vụ là điều phải làm,
nhưng phải đặt trái tim và cuộc sống mình trong đó.
Chúng ta vẫn có thể lẫn lộn cái chính với cái phụ.
“Xin mọi người nghe tôi nói đây và hiểu cho rõ” (c.14).
Ðó là lời Ðức Giêsu nhắn nhủ đám đông ngày xưa
và chúng ta hôm nay.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
xin dẫn con vào nhà của con,
căn nhà của trái tim,
căn nhà vừa quen vừa lạ.
Xin hãy cho con thấy
những phức tạp, rắc rối, những che đậy, giằng co,
những mâu thuẫn và vô lý nơi con.
Xin hãy cho con thấy
những nhỏ mọn, ích kỷ,
những yếu đuối, khô khan,
những cứng cỏi và tự ái nơi con.
Xin cho con ý thức
những lo âu, sợ hãi
đang đè nặng làm con ngột ngạt,
những nỗi đau thầm kín khiến đời con mất vui,
những vết thương không biết bao giờ lành,
những đỗ vỡ khiến lòng con khép lại.
Lạy Chúa Giêsu,
xin giúp con dọn những bề bộn nơi tim con.
Xin biến đổi tim con, để nó trở nên đơn sơ hơn,
hồn nhiên hơn và tươi tắn hơn.
Ước gì con nhìn mọi sự, mọi người,
bằng trái tim bao dung của Chúa.
Và ước gì khi đã ra khỏi nỗi bận tâm về mình,
trái tim con được nhẹ nhàng hơn và tự do hơn
để yêu mến mọi người. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
2 THÁNG CHÍN
Đứng Trước Thách Đố Rao Giảng Tin Mừng
Sứ mạng căn bản của Giáo Hội là rao giảng cho thế giới Tin Mừng cứu độ. Khi mang Tin Mừng cứu độ vào giữa lòng thế giới, Giáo Hội cố gắng nhận hiểu các đặc nét văn hóa của người ta. Giáo Hội muốn chia sẻ mọi tâm tư của con người, các giá trị và phong tục của họ, những khó khăn mà họ phải đương đầu, những hy vọng và ước mơ của họ.
Một khi Giáo Hội biết và hiểu được những khía cạnh văn hoá đa dạng này của một dân tộc, Giáo Hội sẽ có thể bắt đầu cuộc đối thoại về sự cứu độ. Với thái độ vừa kính trọng vừa thẳng thắn và trong niềm xác tín, Giáo Hội đứng ở vị trí giới thiệu Tin Mừng cứu độ cho tất cả những ai thành tâm khao khát lắng nghe và đáp trả.
Đức Phaolô VI đã từng nói về các tôn giáo ngoài Kitô giáo : “Các tôn giáo ấy mang trong mình âm vang của bao ngàn năm kiếm tìm Thiên Chúa… Các tôn giáo ấy nắm giữ một di sản lớn lao các truyền thống tín ngưỡng thâm sâu. Các tôn giáo ấy đã dạy cho bao thế hệ con người biết cầu nguyện. Các tôn giáo ấy chứa đựng bao hạt giống được ươm trồng bởi chính Ngôi Lời và có thể thực sự sẵn sàng để đón nhận Tin Mừng” (EN 53).
Trong niềm trân trọng giá trị của các tôn giáo này, Giáo Hội vẫn thường nhận ra trong đó những tác động của Chúa Thánh Thần, Đấng giống như gió “muốn thổi đâu thì thổi” (Ga 3,8). Tuy nhiên Giáo Hội luôn xác tín rằng mình phải hoàn thành trọng trách của mình là đem lại cho thế giới chân lý mạc khải cách trọn vẹn, chân lý về ơn cứu độ nơi Đức Giê-su Kitô. Chúng ta hãy nguyện cầu để tất cả mọi người đều nhận biết Đức Giê-su Kitô, Đấng Cứu Độ trần gian.
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II



Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 02/9
Chúa Nhật XXII Thường Niên
Đnl 4, 1-2.6-8; Gc 1, 17-18.21b-22.27; Mc 7, 1-8a.14-15.21-23.

LỜI SUY NIỆM: “Sau đó, Đức Giêsu lại gọi đám đông tới và bảo: Xin mọi người nghe tôi nói đây, và hiểu cho rõ: Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế. Ai có tai nghe thì nghe!”
            Trong câu chuyện, các môn đệ của Chúa Giêsu không rửa tay trước khi ăn, các người Phaisêu và một số kinh sư đã tụ họp quanh Người, và cho hành động của các môn đệ của Người là bị ô uế; đã phạm Lề Luật.  Lề Luật Thiên Chúa ban cho Môsê là để giúp cho con người sống tốt hơn, chứ Lề Luật không dùng để lên án, kết tội con người. Với thái độ của những người thầy trong dân Do-thái này, Chúa Giêsu cho biết: “Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế”. Và rồi Người cho biết chính những ý định xấu xa trong con ngươi xuất ra mới làm cho con người ra ô uế là: “ tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo ngông cuồng.”
            Lạy Chúa Giêsu. Xin cho chúng con luôn xét minh và tránh xa mười hai ý định xấu từ trong lòng của con người, mà Chúa đã cho chúng con biết. Để chúng con được vui sống với nhau trong hiện tại, và ngày sau cùng hưởng hạnh phúc trong Nước Trời.
Mạnh Phương



02 Tháng Chín
Khuôn Mặt Giuđa
Một trong những giai thoại nổi tiếng nhất trong lịch sử hội họa đó là câu chuyện danh họa Leonardo da Vinci đi tìm người mẫu để họa khuôn mặt của Giuđa, kẻ phản bội.
Leonardo đang miệt mài trong bức tranh “Bữa Ăn Cuối Cùng” của Chúa Giêsu với các môn đệ. Tất cả các khuôn mặt, từ Chúa Giêsu đến các môn đệ, đều đã hiện nguyên hình trên khung vải. Nhưng đến lúc phải tô vẽ cho khuôn mặt của Giuđa, danh họa Leonardo da Vinci đã tỏ ra lúng túng vì ông không biết phải tìm một người nào làm mẫu cho con người phản bội này… Ông đã phải đi dạo khắp nơi để tìm một khuôn mặt xấu xí, hiện thân của kẻ phản bội, gian trá. Sau mấy tháng trời tìm kiếm, cuối cùng ông đã gặp được khuôn mặt mà ông cho là ưng ý nhất. Trong khu xóm lầy lội, nghèo nàn, ông đã khám phá được một khuôn mặt mà ông cho là có đầy đủ những đường nét của tội ác. Ông đã lần mò đến gần người đó, và sau khi đã giải thích về bức tranh mình đang thực hiện, ông đã đề nghị người đó đến xưởng vẽ của ông để bắt tay vào công việc.
Người được chọn làm người mẫu cho Giuđa nhìn nhà danh họahồi lâu. Cuối cùng, ông đốt lên một ngọn đuốc sáng vào gương mặt của ông… Leonardo ngạc nhiên vô cùng, bởi vì người đàn ông này cũng chính là người đã làm mẫu cho ông vẽ chân dung Chúa Giêsu… Cũng khuôn mặt đó, nhưng có lúc Leonardo da Vinci nhìn thấy những đường nét của Chúa Giêsu, vào lúc khác, ông lại thấy nó xấu xí như gương mặt của Giuđa.
Chúng ta thường nói: khi yêu thì trái ấu cũng tròn… Trong một lá thư tình nào đó, có lẽ hai người yêu nhau sẽ nói với nhau: không có anh, không có em, đất trời như vô nghĩa… Tình yêu có tính sáng tạo. Tình yêu giúp chúng ta chỉ nhìn thấy cái hay cái đẹp nơi người mình yêu.
Tin và yêu là hai động tác gắn liền với nhau. Ngôn ngữ của đức tin không thể là ngôn ngữ của khoa học. Con người không đến với Thiên Chúa sau một thời gian dài tìm kiếm, lý luận. Con người chỉ đến với Thiên Chúa bằng tình yêu. Nói đến tình yêu là nói đến tin tưởng và phó thác.
Tomas đã đến với Chúa Giêsu Phục Sinh bằng sự lý luận, uyên bác của một nhà khoa học: “Nếu tôi không xỏ ngón tay tôi vào lỗ đinh và vào cạnh sường của Ngài… Tôi không tin”. Thái độ này rất phù hợp với tinh thần khoa học. Trong công cuộc nghiên cứu khoa học, người ta quan sát, đưa ra giả thuyết, kiểm chứng, thí nghiệm rồi đi đến kết luận… Phương pháp này hoàn toàn vô giá trị trong tình yêu. Không ai quan sát một người nào đó, đưa ra một giả thuyết, rồi mới đi đến một kết luận: yêu hay không yêu. Mà trái lại, tình yêu đến trước tất cả các lý luận và tìm tòi của chúng ta…
Trong đức tin cũng thế, Thiên Chúa yêu thương chúng ta và Ngài mời gọi chúng ta đi vào tình yêu của Ngài.
Tình yêu đó mời gọi chúng ta vượt lên trên tất cả những lý luận và ngờ vực của chúng ta. Tình yêu đó giúp chúng ta khám phá ra vẻ đẹp và lòng nhân từ của Thiên Chúa trong tất cả mọi sự, trong ánh mắt của con người cũng như trong muôn màu sắc của thiên nhiên. Tình yêu đó giúp chúng ta nhìn thấy nơi gương mặt xấu xí của Giuđa những đường nét yêu thương của Chúa Giêsu. Tình yêu ấy cho chúng ta tìm thấy nơi niềm vui trong thất vọng, thua thiệt. Tình yêu ấy cho chúng ta nhìn thấy sự hiện diện của Chúa trong những giờ phút trống rỗng vô nghĩa của cuộc sống.
(Lẽ Sống)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét