16/09/2018
Chúa Nhật tuần 24 Thường Niên năm B
(phần II)
Phụng vụ Lời Chúa: Chúa Nhật 24 thường
niên- năm B
CHÚA NHẬT XXIV TN-B
(Is 50,5-9a; Gc 2,14-18; Mc 8,27-35)
(Is 50,5-9a; Gc 2,14-18; Mc 8,27-35)
Đấng Kitô - Tôi trung của Thiên Chúa
“Thầy là Đấng Kitô” (Mc 8,29)
I.
CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài
đọc 1:
Đoạn sách ngôn sứ Isaia trích từ bài ca thứ ba về
người Tôi Trung (Is 50,4-11). Bài ca làm nổi bật những phẩm chất của người Tôi
Trung. Dù bị địch thủ chống đối và đe dọa, người Tôi Trung vẫn giữ được lòng
trung thành với Thiên Chúa vì ý thức rằng Ngài vẫn luôn ở với mình trong hoàn cảnh
nào.
Trước hết, người Tôi Trung chấp nhận để Thiên Chúa
can thiệp hành động nơi cuộc đời mình. Thiên Chúa đã mở miệng người Tôi Trung để
biết nói năng mà an ủi những người rã rời, kiệt sức thế nào (c. 4a), thì cũng
chính Thiên Chúa mở tai người Tôi Trung để biết lắng nghe giáo huấn của Ngài
(cc 4b-5a). Dù Thiên Chúa can thiệp vào hai giác quan quan trọng của người Tôi
Trung để thi hành sứ vụ của Thiên Chúa, một sứ vụ tiềm ẩn nhiều thử thách,
nhưng người Tôi Trung hoàn toàn đón nhận mà chẳng hề kêu ca hay phản kháng (c.
5b). Quả vậy, người Tôi Trung là người để cho Thiên Chúa chiếm hữu và hành động
trên đời mình.
Sau nữa, người Tôi Trung đón nhận tất cả những gì xảy
đến trong đời mình với tâm tình phó thác hoàn toàn trong tay Thiên Chúa. Người
Tôi Trung chấp nhận nhiều hành động sỉ nhục khác nhau cách thanh thản lạ thường
và đáng kinh ngạc, chỉ với một xác tín cơ bản và sâu xa rằng “có Đức Chúa là
Chúa Thượng phù trợ tôi” (Is 50,7). Ơn phù trợ của Thiên Chúa là động lực và là
sức mạnh giúp người Tôi Trung can đảm đón nhận mọi thiệt thòi xảy đến trong đời
mình.
Cuối cùng, dù bị tố cáo, kiện tụng, người Tôi Trung
không hề lo sợ vì xác tín rằng Thiên Chúa luôn ở với mình để bảo vệ mình. Công
lý của người Tôi Trung hoàn toàn nằm trong tay Thiên Chúa. Một khi được Thiên
Chúa, Đấng luôn ở kề bên, kể là công chính thì người Tôi Trung không những
không sợ bất cứ người nào kiện tụng gì nữa, mà còn thách thức bất kỳ ai muốn kiện
tụng mình: “Này, có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, ai còn dám kết tội?”
(Is 50,9).
2. Bài
đọc 2:
Bối cảnh cộng đoàn Giacôbê cho thấy có sự bất bình đẳng,
kỳ thị giữa các Kitô hữu khi họ đến dự các buổi hội họp cộng đoàn. Tại đó xảy
ra sự đối xử thiên vị giữa người giàu và người nghèo, trong đó người ta trọng
người giàu mà coi thường người nghèo (Gc 2,1-4). Tác giả thư Giacôbê nhân sự kiện
đó mà trình bày về cách sống đức tin: đức tin sống và đức tin chết.
Đức tin sống là đức tin đi kèm với hành động. Một đức
tin hành động vừa đem lại lợi ích cho tha nhân, vừa là phương tiện cứu độ dành
cho người thực hành (Gc 2,14). Hành động của đức tin, theo cái nhìn của tác giả
thư Giacôbê, là việc làm bác ái, nhất là đối với những người kém may mắn.
Trái lại, một đời sống đức tin mà thiếu việc thực
hành bác ái đối với tha nhân là những người đang cần sự trợ giúp, thì đức tin
đó chẳng có ích gì cả (cc.15-16). Một đức tin như thế bị coi như đức tin chết
(c. 17). Đức tin đó không thể mang lại ơn cứu độ (c. 14).
Người ta chỉ có thể đo lường được đức tin thông qua
hành động, cụ thể là hành động bác ái đối với những người đang cần sự giúp đỡ.
Một đức tin không có hành động thật khó để biện minh (c. 18). Vì thế, đức tin
và hành động luôn phải song hành.
3. Bài
Tin Mừng:
Đoạn Tin Mừng Máccô hôm nay như là bản lề, đánh dấu
nửa chặng đường sứ vụ của Chúa Giêsu cùng với các môn đệ, trong đó các môn đệ
buộc phải bày tỏ nhận thức của các ngài về căn tính của Đức Giêsu: “Còn anh em,
anh em bảo Thầy là ai?” (Mc 8,29a). Vậy, Đức Giêsu thật sự là ai trong nhận thức
của các môn đệ?
Trước hết, câu trả lời của Phêrô, đại diện cho các
môn đệ, cho thấy nhận thức của các ông không giống với nhận thức của đám đông
dân chúng. Trong mắt các ông, Chúa Giêsu không phải là Gioan Tẩy Giả, cũng
không phải là Êlia hay một ngôn sứ nào đó, tức những người được xem như sứ giả
của Thiên Chúa đến để loan báo về một Đấng Mêsia sẽ đến. Câu tuyên tín của
Phêrô, “Thầy là Đấng Kitô” (8,29) xác quyết Chúa Giêsu không phải là sứ giả dọn
đường mà chính là Đấng Mêsia được Thiên Chúa sai đến. Đây thật là lời xác quyết
chính xác về vai trò thật sự của Chúa Giêsu.
Tuy nhiên, phản ứng của Phêrô sau khi nghe Chúa
Giêsu hé lộ sứ mạng thật sự của Đấng Mêsia cho thấy lúc này các môn đệ chưa hiểu
đúng về vai trò của Đấng Kitô (8,32). Các ông chỉ nhận thức và chờ đợi một Đấng
Kitô mang tính chính trị, có nhiệm vụ giải phóng dân tộc và giành lại nền độc lập
từ tay ngoại bang. Đấng Kitô phải là Đấng dùng quyền năng để khuất phục kẻ thù
và mang lại sự tự do và thịnh vượng cho dân tộc.
Sau nữa, ngay từ khi bước vào sứ vụ công khai, Chúa
Giêsu đã phải trải qua cơn cám dỗ của Satan trong hoang địa về căn tính và sứ mạng
của Người (1,12). Giờ đây, việc Phêrô kéo riêng ra và can ngăn Người thực hiện
sứ mạng của mình gợi nhớ lại hình ảnh cám dỗ của Satan (8,33). Thay vì làm một
môn đệ đi theo Đức Giêsu (Mc 1,17.20; 8,34), Phêrô lại đóng vai trò của Satan,
kẻ cám dỗ Đức Giêsu đi vào con đường khác với thánh ý của Thiên Chúa dành cho
Người.
Vậy, Đấng Kitô là ai? Đó là Đấng được Thiên Chúa xức
dầu, được sai đi để thi hành thánh ý Chúa Cha, trong đó có cả việc chấp nhận
đau khổ và cái chết. Đấng Kitô như thế mới thật sự là Tôi Trung của Thiên Chúa.
Một Đấng Kitô không qua khổ giá và cái chết thì không phải là Đấng Kitô theo ý
định của Thiên Chúa. Đó chỉ là một Đấng Kitô theo ý của loài người (8,33b).
II. GỢI
Ý ÁP DỤNG:
1/ Bài ca thứ ba trong sách ngôn sứ Isaia ca ngợi
những phẩm chất nổi bật của người Tôi Trung của Thiên Chúa: Đó là người để cho
Chúa hành động trên đời mình, đón nhận tất cả những nghịch cảnh xảy đến trong đời
mình với niềm xác tín rằng Chúa là Đấng hằng ở bên để bênh vực và phù hộ. Tôi
có muốn trở thành người tôi trung của Chúa? Tôi có sẵn sàng để Chúa dùng tôi để
thực hiện ý định của Ngài? Tôi có trung thành với Chúa dù bất cứ chuyện gì xảy
đến trong đời tôi? Tôi có tin rằng Chúa là Đấng hằng ở bên tôi, để bênh vực và
che chở tôi?
2/ Đoạn thư Giacôbê đề cao một đức tin sống thể
hiện ra nơi hành động bác ái, nhất là đối với những người kém may mắn, bị coi
thường, loại trừ. Tôi đang sống đức tin thế nào? Một đức tin sống động thể hiện
qua hành động bác ái đối với tha nhân, hay một đức tin cằn cỗi, khô khan, đang
chết dần vì thiếu tình thương?
3/ Đứng trước câu hỏi về căn tính của Thầy, dù
Phêrô, đại diện các môn đệ, đã tuyên tín về tư cách Mêsia của Đức Giêsu, nhưng
nhận thức của các ông về Người chỉ mang tính nhân loại. Đức Kitô là người Tôi
Trung được Thiên Chúa xức dầu và sai đi để thực thi thánh ý Ngài. Còn tôi, tôi
biết gì về Đức Giêsu? Người là ai đối với tôi? Danh hiệu “Đấng Kitô” có ý nghĩa
gì đối với đời tôi? Tôi có muốn trở thành tôi trung của Thiên Chúa để được Ngài
tấn phong và sai đi để thực hiện thánh ý Ngài?
III.
LỜI NGUYỆN CHUNG:
Chủ
tế: Anh chị em
thân mến! Đức Giêsu đã đến trong thế gian và trải qua nhiều đau khổ để thực hiện
chương trình cứu độ của Thiên Chúa Cha. Với quyết tâm từ bỏ mình, vác thập giá
mà đi theo Chúa, chúng ta cùng sốt sắng dâng lời cầu nguyện.
1. Thánh Phêrô tuyên xưng: “Thầy là Đấng Kitô”.
Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi thành phần Hội Thánh, luôn trung thành tuyên
xưng một đức tin tông truyền, và can đảm làm chứng cho niềm tin ấy bằng đời sống
hy sinh quên mình và dấn thân phục vụ.
2. Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: “Người ta bảo Thầy
là ai?” Chúng ta cùng cầu nguyện cho các dân tộc và những ai chưa tin Chúa
Kitô, biết đón nhận ơn Chúa Thánh Thần soi dẫn hầu nhận biết và tuyên xưng Chúa
Giêsu Kitô là Đấng cứu chuộc trần gian.
3. “Ai muốn theo tôi, phải vác thập giá mình mà
theo.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho những người đang đau khổ, được sức mạnh và
quyền năng Chúa nâng đỡ, thêm can đảm đón nhận thánh giá đời mình hầu được
thông phần vào cuộc thương khó của Chúa.
4. Ðức tin không có việc làm là đức tin chết.
Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta biết diễn tả đức
tin tinh tuyền bằng một đức ái sống động, luôn nhạy bén cảm thông và quảng đại
chia sẻ với những hoàn cảnh khó khăn ở chung quanh.
Chủ
tế: Lạy Chúa
là Cha rất nhân từ, Chúa đã sai Con Một yêu dấu đến trần gian để cứu chuộc nhân
loại. Xin nhậm lời chúng con cầu nguyện và ban mọi ơn lành giúp chúng con luôn
trung thành theo bước Đức Giêsu Kitô. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.
Amen.
Chủ đề :
Người Tôi Tớ đau khổ
“Tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài
người”
(Mc 8,33)
(Mc 8,33)
Sợi
chỉ đỏ :
– Bài
đọc I (Is 50,5-9a) : Hình ảnh Người Tôi Tớ Giavê bản thân vô tội nhưng phải
chịu rất nhiều đau khổ vì tội loài người.
– Tin
Mừng (Mc 8,27-35) : Đức Giêsu loan báo cho các môn đệ biết Ngài sắp chịu nạn
chịu chết.
I. Dẫn
vào Thánh lễ
Anh
chị em thân mến
Ai mà
không thích sung sướng và sợ đau khổ. Tuy nhiên có những thứ khổ rất đáng kính
trọng, chẳng hạn cha mẹ chịu cực chịu khổ để nuôi dạy con cái. Lời Chúa hôm nay
sẽ cho chúng ta biết chính Đức Giêsu cũng chọn cách cứu chuộc loài người bằng
con đường đau khổ của Thập Giá.
Trong
Thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy dâng lên Chúa những đau khổ của chúng ta và xin
Ngài giúp chúng ta biết thánh hóa đau khổ, biến đau khổ thành nguồn ơn thánh
cho chúng ta và cho mọi người.
II. Gợi
ý sám hối
– Vì
sợ khổ và muốn trốn tránh đau khổ bằng mọi giá, nhiều khi chúng ta không chu
toàn bổn phận.
– Vì
chưa ý thức giá trị của đau khổ nên khi gặp khổ, chúng ta chán nản thất vọng,
thậm chí còn kêu trách Chúa.
–
Chúng ta không vác thập giá mình hằng ngày mà đi theo Chúa.
III. Lời
Chúa
- Bài đọc I (Is
50,5-9a)
Trong
phần II sách Isaia, còn gọi là Đệ nhị Isaia (Is 40-55), có 4 bài ca viết về một
nhân vật rất đặc biệt được gọi là Người Tôi Tớ của Giavê (Is 42,1-4
49,1-6 50,4-9 và 52,13—53,12). Bài ca được trích đọc hôm nay là bài thứ
ba.
Người
Tôi Tớ Giavê này bản thân vô tội nhưng phải chịu rất nhiều đau khổ vì tội loài
người.
Người
Tôi Tớ này là ai ? Ý nghĩa đầu tiên của nó là nói về dân Israel, họ phải
chịu bao đau khổ trong kiếp lưu đày để chuộc tội cho muôn dân. Về sau, hình ảnh
này được hiểu về Đấng Messia. Đức Giêsu làm ứng nghiệm lời tiên tri này :
Ngài chịu nạn, chịu chết trên Thập giá để cứu chuộc loài người.
2.
Đáp
ca (Tv 114)
Tâm
tình của người tín hữu trung kiên : dù đang bị bủa vây giữa muôn vàn đau
khổ nhưng vẫn một lòng tin tưởng Chúa và hy vọng Chúa sẽ giải thoát.
3.
Tin
Mừng (Mc 8,27-35)
Bài
Tin Mừng hôm nay có hai phần :
a/ Đức
Giêsu dò hỏi các môn đệ xem dư luận nghĩ sao về Ngài. Các môn đệ phản ảnh :
có nhiều dư luận hơi khác nhau, nhưng tựu trung mọi người đều nghĩ Đức Giêsu là
một ngôn sứ. Phần Phêrô thì lên tiếng nói thay cả Nhóm 12 : “Thầy là Đức
Kitô”.
b/
Sau đó Đức Giêsu tiên báo về cuộc chịu nạn của mình. Phêrô ngăn cản liền bị
Chúa trách nặng nề là Xatan. Rồi Ngài cho biết ai muốn làm môn đệ Ngài thì cũng
phải đi theo con đường Ngài đi, đó là con đường thập giá.
– Các
câu 33-35 “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”
. “Ai
muốn theo tôi” nghĩa là ai muốn làm môn đệ Đức Giêsu (“đi theo” ai là làm môn đệ
cho người đó)
. “Từ
bỏ chính mình” : xem ra từ bỏ mình nghĩa là tha hoá, vong thân
(aliénation), mình không còn phải là mình nữa. Xét theo tâm lý học thì điều này
không tốt, vì mỗi người phải giữ cái độc đáo của mình. Nhưng xét theo thần học
thì lại rất tốt : tuy ta không còn là mình nữa nhưng ta hóa nên giống Đức
Giêsu thì thật tuyệt vời. Lý tưởng mà thánh Phaolô luôn nhắm tới là được
trở nên “đồng hình đồng dạng” với Đức Giêsu. Hơn nữa đây thực sự không phải là
“tha hóa” mà là tìm lại chính mình, bởi vì từ đầu Thiên Chúa đã tạo dựng nên
con người “giống hình ảnh” Ngài. Chỉ sau đó do tội lỗi nên con người bị “tha
hóa”. Nay cố gắng trở nên giống Đức Giêsu chính là tìm lại hình ảnh ban đầu.
.
“Vác thập giá mình” : Kiểu nói này có nhiều nghĩa : a/ Đón nhận những
khổ cực của mình, cũng như Đức Giêsu đã đón nhận những khổ cực của Ngài ;
b/ Theo luật hình sự Rôma, người bị kết án đóng đinh phải tự mình vác lấy thập
giá của mình ra pháp trường. Như thế, “vác thập giá mình” nghĩa là coi như mình
đã bị kết án tử ; c/ câu 35 giải thích câu 34 : “Quả thật ai liều mất
mạng sống mình vì tôi…”. Như thế “vác thập giá” có nghĩa là “liều mất mạng sống”,
hay nói nôm na là “liều mạng” vì Chúa.
4.
Bài
đọc II (Gc 2,14-18) (Chủ đề phụ)
Thánh
Giacôbê bàn về đức tin và hành động. Cả hai đều cần thiết và phải đi đôi với
nhau : “Đức tin mà không có hành động thì là đức tin chết”.
IV. Gợi
ý giảng
*
1. Giêsu là ai ?
Đức
Giêsu là ai ? Đó là một câu hỏi được đặt ra không phải chỉ trong thời Đức
Giêsu còn ở dưới thế, mà còn được đặt ra ngay trong thời đại chúng ta ngày nay.
Câu hỏi được đặt ra không phải chỉ vì tò mò muốn biết dư luận nghĩ sao về nhân
vật Giêsu, nhưng nó được đặt ra để chờ đợi một câu trả lời có ảnh hưởng quyết định
trên lối sống của người trả lời.
Ngày
xưa, nhiều người Do thái trả lời rằng Giêsu cũng chỉ là một người nào đó như
các tiên tri, như Êlia, như Gioan hay như bất cứ một tiên tri nào khác. Mà theo
họ nghĩ, tiên tri là những người tuy rao giảng một giáo thuyết hay, tuy làm được
một số việc lạ lùng hơn người, nhưng nhiều khi cũng quấy rầy cuộc sống bình an
của họ. Bởi thế khi không muốn bị quấy rầy nữa thì họ không ngại giết chết các
tiên tri : họ đã lùng bắt Êlia, họ đã bỏ tù Giêrêmia, họ đã chém đầu Gioan
Tẩy Giả và họ cũng đã đóng đinh Giêsu.
Riêng
Phêrô thì trả lời rằng Giêsu chính là Đức Kitô, nghĩa là một người có thừa khả
năng để cứu rỗi đời mình và đáng cho mình đi theo cho đến hơi thở cuối cùng.
Chính vì thế mặc dù muốn theo Thầy thì phải bỏ mình vác Thập giá, nhưng Phêrô
đã sẵn sàng trung thành với Thầy cho đến chết.
Giêsu
là ai ? Câu hỏi này ngày nay cũng gặp được nhiều câu trả lời khác nhau, và
mỗi câu trả lời kéo lôi theo một nếp sống khác nhau. Có hai câu trả lời tiêu biểu
sau đây ở trong 2 quyển tiểu thuyết :
. Quyển
“The last temptation” (Cơn cám dỗ cuối cùng) mô tả Giêsu như một chàng thanh
niên khoẻ mạnh, đẹp trai, nhiều khả năng. Chàng có một người yêu tên là
Mađalêna. Nhưng một ngày nào đó, Giêsu bỗng bị ám ảnh rằng mình không thể sống
nếp sống tầm thường mà phải sống như siêu nhân. Vì thế chàng từ bỏ tình yêu của
nàng Mađalêna và lên đường rao giảng một thứ giáo thuyết siêu nhiên. Mađalêna
thất tình buông trôi cuộc đời trong nếp sống truỵ lạc, đĩ thoả. Còn Giêsu thì
thu thập được một số đồ đệ và hăng say truyền bá lý tưởng siêu nhiên. Nhưng lý
tưởng đó lại không phù hợp với những mục đích chính trị của các tư tế, biệt
phái và luật sĩ. Cho nên cuối cùng, Giêsu bị họ bắt và kết án đóng đinh. Trong
những giây phút hấp hối trên thập giá, Giêsu bị hôn mê, cơn hôn mê khiến Giêsu
nhìn lại cuộc đời của mình. Chàng mơ thấy mình từ bỏ lý tưởng siêu nhiên, cưới
Mađalêna làm vợ, sinh được một bầy con ngoan, đẹp, sống rất hạnh phúc với gia
đình, nhưng bị các đồ đệ và các tín đồ nhiếc móc. Giêsu bừng tỉnh dậy lắc đầu
xua đuổi cơn cám dỗ ấy. (Giêsu đã chiến thắng cơm cám dỗ cuối cùng). Nhưng sau
đó gục đầu tắt thở.
Đó là
một câu trả lời, rằng : Giêsu chỉ là một người phàm, tuy người phàm này
theo đuổi một lý tưởng siêu nhiên và do đó cũng đáng được người khác kính trọng,
nhưng cái lý tưởng đó không thể thực hiện được. Thành thử chúng ta dù kính trọng
Ngài nhưng không thể sống theo Ngài được.
Có lẽ
đó là câu trả lời của rất nhiều người thời nay. Họ nhìn nhận Giêsu là một vĩ
nhân, họ nhìn nhận đạo Đức Giêsu là đạo tốt. Nhưng cái đạo đó chẳng giúp ích gì
cho cuộc sống. Cuộc sống của họ cần có vật chất, cần có tiền bạc, cần có sự
nghiệp, công danh, chứ không cần đến lý tưởng tôn giáo bao nhiêu. Vì thế họ lao
mình vào cuộc sống vật chất, để sang một bên những vấn đề lý tưởng tôn giáo cho
hạng đàn bà, trẻ nít, hay có cho mình thì cũng là tới khi về già, gần đất xa trời.
. Câu
trả lời thứ hai chúng ta gặp trong quyển “Quo vadis” : quyển truyện này lấy
khung cảnh thời Hoàng Đế Neron của đế quốc Lamã đang thịnh trị. Tất cả các nước
chư hầu đều phải gửi một con tin sang thủ đô Rôma. Đó là một cách để bảo đảm sự
tùng phục của các chư hầu. Trong số các con tin ấy có một nàng con gái đẹp tuyệt
vời làm cho người cháu của Hoàng Đế Néron si mê. Chàng này vừa có địa vị, vừa
có thế lực, vừa có bạc vàng. Chàng tin chắc mình sẽ chinh phục được con tim của
người đẹp. Lúc đó bạo chúa Neron cũng đang thẳng tay bắt giết những người theo
đạo Đức Giêsu. Phêrô đã phải sợ hãi bỏ thành Rôma chạy trốn. Nhưng đang khi đi
trên đường thì Phêrô gặp Đức Giêsu từ ngoài thành vác thập giá đi vào. Phêrô hỏi
“Quo vadis”, tiếng Latinh nghĩa là “Thưa Thầy, Thầy đi đâu vậy ?” Đức
Giêsu trả lời : Ta vác thập giá vào Rôma để chịu đóng đinh một lần nữa, vì
con đã không dám chịu đóng đinh. Phêrô nghe vậy vội trở vào Rôma và cùng với
các tín hữu khác chịu đựng những cuộc bắt bớ, cho đến chết. Tấm gương anh dũng
của các tín hữu Đức Giêsu đã làm cho nàng con gái đang làm con tin ấy cảm phục
và tìm ra được lý tưởng cho đời mình.
Đó là
câu trả lời : Thầy là Đức Kitô con TC hằng sống. Con xin theo Thầy cho dù
phải vác thập giá và phải bỏ mình vì Thầy !
Đức
Giêsu không phải chỉ là siêu nhân mà còn là Con Thiên Chúa. Và vì là Con Thiên
Chúa cho nên lý tưởng Ngài đề ra cho ta không phải chỉ là một thứ lý tưởng viễn
vong không thể thực hiện. Là Con Thiên Chúa, Ngài thừa sức giúp chúng ta thực
hiện được lý tưởng của Ngài cho dù có phải trải qua muôn ngàn gian truân khổ sợ.
Mà chính cái lý tưởng ấy mới khiến chúng ta sống xứng đáng là người. Con người
nếu chỉ biết mê ăn uống, có tiền bạc, có vật chất, sinh ra để ăn, ăn rồi đói,
đói rồi phải kiếm ăn, cứ như vậy cho đến lúc chết thì chẳng khác gì hơn con vật.
Đức Giêsu muốn giúp chúng ta sống hơn con vật, cho nên Ngài đã chọn kiếp là người,
sống cho chúng ta thấy và sống theo để chúng ta sống xứng đáng là người. Chẳng
những là người mà còn là Con Thiên Chúa như Ngài. Mà muốn được như Ngài, chúng
ta phải đi theo Ngài, phải bỏ mình đi, phải vác thập giá… Nghĩa là phải cố gắng
vươn lên, vươn lên cao hơn những nhu cầu vật chất xác thịt tầm thường. CG đã
tiên phong sống được như thế và Ngài sẽ giúp chúng ta sống được như thế, nếu
chúng ta nhớ làm theo Lời Ngài : ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thập
giá mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai chịu mất
mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng thì sẽ được sống đời đời”.
Trên
đây là hai câu trả lời tiêu biểu cho câu hỏi “Giêsu là ai ?” Còn câu trả lời
của chúng ta là gì ? Nếu chúng ta trả lời như Phêrô “Thầy là Đức Kitô” thì
chúng ta cũng hãy cam đảm bỏ mình và vác thập giá đi theo Thầy.
Wiliam
Oscar Wilde kể một huyền thoại sâu sắc : “Họa mi và bông hồng đỏ”.
Một sớm mùa hè, họa mi làm tổ trên cành dương đã nghe trọn lời than thở của một
chàng trai bên cửa sổ : “Nếu anh không kiếm nổi bông hồng đỏ để em
cài ngực áo trong buổi dạ hội đêm nay, em sẽ xa anh mãi mãi”. Họa mi dư hiểu
chàng trai đã lang thang khắp các nương đồng. Nhưng tìm đâu ra một bông hồng đỏ
dưới nắng cháy mùa hạ này ? Trời ơi, người tình sẽ chắp cánh bay xa. Họa
mi không chịu nỗi dằn vật bi thương của chàng. Họa mi phải ra tay thôi. Nàng khép
cánh trước cây hoa hồng bên giếng nước nài xin :
– Chị
hồng ơi, chị có vui lòng tặng em một bông hồng đỏ thắm không ?
– Họa
mi ơi ! em vô tâm như những chiếc gai trên thân chị. Mùa hạ nắng cháy sao
em lại xin hoa hồng đỏ ?
Chị hồng
rung rung cành lá giận dỗi. Họa mi tiếp tục tìm kiếm. Nàng nép mình đậu trên một
cành hồng ngoài xa hàng giậu.
– Chị
hồng ơi có phép mầu nào nở cho em một bông hồng đỏ ?
– Họa
mi ơi ! đời cần hoa chi cho thương đau ?
– Sao
cũng được, miễn em kết chặt một mối tình.
– Được,
nhưng phép màu cần phải có màu đỏ.
– Bằng
mọi giá chị ạ.
– Bằng
giá sinh mạng ?
– Kể
cả sinh mạng em.
– Họa
mi ơi ! Hãy đặt cổ em trên gai nhọn của chị, hãy hót cho chị, cho cây cỏ,
cho đất trời khúc tình ca thắm thiết nhất đời em. Hãy đổ máu cho bông hồng nở.
Hãy nhuộm máu cho bông bồng đỏ. Mình sẽ có một bông hồng đỏ như máu đẹp nhất trần
gian.
Họa
mi đã hót đến giây phút cuối cuộc đời, đã đổ đến giọt máu cuối cùng, đã chết rũ
trên cành hồng cạnh đoá hồng bí nhiệm đỏ thắm.
Chàng
trai mừng vui tiếng cười mở hội. Bông hồng được hái về trau chuốt trước khi có
mặt trong đêm dạ hội. Điều lạ lùng nhất mà cũng phi lý nhất, phi lý như chính
cuộc đời phi lý, là người tình đã khước từ đoá hồng bí nhiệm, vì trên ngực áo một
bông hồng giả đang ngự trị… Sáng hôm sau, dân làng bắt gặp một đoá hồng bị nghiền
nát, nằm tả tơi dưới vết bánh xe bò.
*
Câu
chuyện trên đây là một huyền thoại, nhưng huyền thoại chuyên chở một nội dung rất
thực : Đó là nét thực của tình yêu, của tự do, của hy sinh. Tình yêu phải
được nuôi dưỡng bằng hy sinh, bằng máu, bằng cả sinh mạng. “Ai muốn
theo Ta, hãy từ bỏ mình” (Mc.8,34). Đây là một lời mời gọi hoàn toàn tự
do. Con người có toàn quyền lựa chọn. Chúa không bắt buộc nhưng mời gọi. Người
mời gọi chúng ta từ bỏ mình, nghĩa là từ bỏ mọi sự, kể cả mạng sống.
Nói đến
từ bỏ là đụng đến hy sinh, nói đến hy sinh là phải thiệt thòi mất mát. Cũng như
nói đến tình yêu là đụng đến tự do, và đụng đến tự do là phải dấn thân mạo hiểm.
Có thể được chấp nhận hay bị từ khước. Có thể “được cả” mà
cũng có thể “ngã về không”. Chính cái bắp bênh trong tình yêu,
trong chọn lựa, mới làm bừng sáng nét cao đẹp của hy sinh, từ bỏ.
Hy
sinh bao giờ cũng có hương thơm của hạnh phúc. Từ bỏ bao giờ cũng cho tâm hồn
nét thanh cao. Hy sinh và từ bỏ là chuẩn bị luống cày cho hạt giống mọc lên.
Nhưng “Từ
bỏ chính mình” không phải là quyết định một lần để thay cho suốt cả đời
mà là thái độ luôn sẵn sàng từ bỏ trong mọi giây phút của cuộc sống.
“Ai
liều mạng sống vì Ta sẽ được sống” (Mc.8,35). Quả thật, bỏ mình vì Chúa, chúng ta chẳng lỗ lã
chút nào. Chúng ta chối từ cái tương đối để được Đấng Tuyệt đối, khước từ cái
mau qua để đón nhận cái vĩnh hằng, từ bỏ cuộc sống hay chết để được sự sống đời
đời, vì “Ai biết chết thì sẽ biết sống”.
*
Lạy
Chúa, ai trong chúng con cũng mang mầm ích kỷ ; thích hưởng thụ hơn là hy
sinh, thích thu tích hơn là cho đi, thích cai trị hơn là phục vụ.
Xin
dạy chúng con biết chiến đấu mà không sợ thương tích, làm việc cực nhọc mà
không tìm nghỉ ngơi, biết hy sinh mà không đòi phần thưởng, nhưng chỉ biết rằng :
chúng con đang thực thi thánh ý Chúa. Amen. (Ignatiô Loyola). (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
3.
Hai
loại đức tin
Có
hai loại đức tin : Loại thứ nhất là tin theo niềm tin của ông bà, cha mẹ,
thầy cô… Có thể gọi đây là đức tin thừa hưởng ; Loại thứ hai là tin vì
mình đã suy nghĩ, cân nhắc rồi thấy đáng tin nên tin. Có thể gọi đây là đức tin
cá nhân.
Người
có đức tin thừa hưởng có được cái lợi này là không dễ bị cám dỗ làm lung lạc đức
tin : cho dù gặp phải những lập luận ngược với điều anh vẫn tin thì anh
cũng không nao núng, bởi vì anh được cả một truyền thống nhiều thế hệ nâng đỡ đức
tin của anh. Tuy nhiên anh cũng có cái bất lợi là đức tin ấy không đủ vững để
làm nền tảng cho cuộc sống của anh, và cũng không đủ mạnh để thôi thúc anh loan
truyền đức tin cho người khác.
Người
có đức tin cá nhân cũng có cái lợi là bởi vì đức tin ấy do chính anh nghiền ngẫm
suy nghĩ mà tìm ra cho nên nó rất vững mạnh. Tuy nhiên cái bất lợi là nó khiến
anh phải tiếp tục tra vấn và suy nghĩ. Có thể một lúc nào đó anh lại hồ nghi và
cũng có thể anh sẽ bỏ đức tin. Bởi vì đức tin thực chất là một ơn ban miễn phí
chứ không phải là kết quả tìm tòi của con người.
Người
hạnh phúc nhất là người có đức tin thuộc cả hai loại : vừa do thừa hưởng từ
những thế hệ trước, vừa được củng cố bởi những xác tín cá nhân.
Bởi
thế, trong bài Tin Mừng này, trước hết Đức Giêsu hỏi các môn đệ : “Người
ta nghĩ Thầy là ai ?” Câu hỏi nhằm kiểm tra những gì các ông thu
nhận được từ người khác. Nhưng Đức Giêsu còn hỏi tiếp “Phần chúng con, chúng
con nghĩ Thầy là ai ?” Câu hỏi này nhằm khuyến khích các ông suy nghĩ và
có lập trường cá nhân, để đạt tới một xác tín cá nhân.
Chúng
ta cám ơn Chúa vì cho chúng ta thừa hưởng đức tin từ các thế hệ cha ông. Nhưng
chúng ta cũng phải cố gắng suy nghĩ và đào sâu đức tin ấy để nó trở thành một
niềm xác tín cá nhân. Và luôn luôn chúng ta hãy xin Chúa gìn giữ và củng cố ơn
ban đức tin của chúng ta. (Viết theo Flor McCarthy)
4.
Đức
tin và việc làm
Một
chiếc đồng hồ bằng vàng mà không chỉ đúng giờ thì vô ích.
Một
cây xum xuê cành lá mà không có trái thì cũng vô ích.
Một
chiếc đèn cẩn đầy kim cương mà không cháy sáng được thì cũng vô ích.
Cho
nên Thánh Giacôbê nói : “Đức tin không có việc làm là đức tin chết”.
Hoa
trái của cầu nguyện là đức tin
Hoa
trái của đức tin là tình yêu
Hoa
trái của tình yêu là phục vụ
Và
hoa trái của phục vụ là bình an. (Viết theo Flor McCarthy)
5.
Nhận
ra Đức Giêsu
Nhận
ra Đức Giêsu là Kitô
Trước
khi Đức Giêsu đặt câu hỏi : “Anh em bảo Thầy là ai ?”, Ngài đã từng
làm nhiều dấu lạ trước mặt các môn đệ. Tại Galilê, Ngài đã hai lần làm cho bánh
hoá nhiều để nuôi đám đông dân chúng (Mc 6,30-44 ; 8,1-10). Ngài đã từng
đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ (6,45-52). Ngài cũng đã trừ quỷ cho một
bé gái (7,24-30), chữa một người câm điếc (7,31-37), và một người mù (8,22-26).
Tất cả những việc Ngài làm và những lời Ngài dậy đã từ từ vén mở cho họ thấy
Ngài là ai, mặc dù họ thường bị Ngài chê là đần độn và chậm hiểu (7,18 ;
8,17.21). Đức Giêsu không trực tiếp nói cho các môn đệ biết căn tính của mình.
Ngài dẫn họ đi trên con đường để họ tự khám phá ra Ngài. Xê-da-rê Phi-lip-phê
là nơi mà Đức Giêsu thấy có thể đặt cho các môn đệ câu hỏi quan trọng
này : “Anh em bảo Thầy là ai ?” Người ngoài chỉ có một cái nhìn mơ hồ
và thiếu sót về Đức Giêsu. Họ coi Ngài là Gioan Tẩy Giả, là ngôn sứ Êlia hay một
ngôn sứ nào đó. Đức Giêsu chờ đợi một câu trả lời rõ ràng và đầy đủ hơn từ phía
các môn đệ thân tín. Phêrô, đại diện cho cả nhóm, nói lên niềm xác tín của
mình : “Thầy là Đức Kitô.” Phêrô đã nói đúng, nhưng hình ảnh của Phêrô về
Đức Kitô vẫn không khác với quan niệm thông thường của đám đông dân
chúng : một Đức Kitô oai phong lẫm liệt, không hề biết đến thất bại. Đức
Kitô đó không phải là Đức Kitô Giêsu.
Đức
Kitô : Con Người chịu đau khổ
Dù
sao nhờ câu tuyên xưng của Phêrô mà Đức Giêsu bắt đầu nói đến cuộc khổ nạn của
Ngài và nói một cách không úp mở. Đây là điều mới mẻ cả về nội dung lẫn hình thức
trình bày. Ngài không dùng dụ ngôn nữa, nhưng nói thẳng về định mệnh đang chờ đợi
mình. Có người cho rằng lời tiên báo của Đức Giêsu về cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh
chỉ là lời được viết dựa trên các biến cố đã xảy ra. Thật ra, Đức Giêsu đã thấy
những phản ứng chống đối lời giảng dạy của Ngài, Ngài biết mình phải đương đầu
với các nhà lãnh đạo Do Thái giáo, và Ngài thấy bóng dáng của cái chết đang
rình rập mình. Nhưng Đức Giêsu không thối lui, dù Ngài có thể thối lui. Ngài
không đi tìm cái chết, nhưng Ngài muốn tiếp tục trung tín với Cha và phục vụ
loài người, dù phải trả giá bằng mạng sống. Đó là sự lựa chọn của Giêsu, lựa chọn
của một người có lòng tin. Đức Giêsu tin rằng dù kẻ thù có cướp được sinh mạng
của Ngài ở đời này thì Cha cũng chẳng bao giờ bỏ rơi Ngài, chẳng “để cho Ngài
phải thấy sự hư nát” (Tv 16,10 bản LXX). Đức Giêsu mang tâm tình của một chứng
nhân hiên ngang ra pháp trường. Cái chết là giá phải trả để trung tín về một
tình yêu.
Lời
tiên báo về cuộc Khổ Nạn và Tử Nạn của Đức Giêsu làm cho Phêrô choáng váng. Ông
không sao hiểu được những điều khủng khiếp như vậy, bởi ông còn mải mê với một
Đức Kitô vinh quang. Ông phản ứng ngay, ông kéo Đức Giêsu lại mà trách Ngài. Chẳng
rõ ông đã nói gì với Ngài, nhưng chắc chắn đó là những lời can ngăn đầy tình
yêu thương chân thành. Một lời can ngăn như thế thật nguy hiểm. Đức Giêsu nhận
thấy đây là một cơn cám dỗ của Satan qua môn đệ Phêrô. Ngài bảo ông :
“Satan, hãy lui lại sau Ta”. Ngay từ khi gọi Phêrô ở ven hồ Galilê, Đức Giêsu
đã cho ông thấy chỗ của ông : “Hãy đi sau Ta”. Chỗ đứng của môn đệ là ở
sau Thầy. Đức Giêsu muốn đưa Phêrô về đúng chỗ của ông, bởi ông muốn dẫn đường
cho Ngài, muốn đi trước Ngài. “Vì anh không nghĩ những điều của Thiên Chúa, mà
chỉ nghĩ những điều của loài người.” Đức Giêsu thấy rõ đâu là con đường Thiên
Chúa muốn mình đi, và đâu là con đường thế gian chờ đợi. Con đường của Thiên
Chúa thì vượt trên những tính toán khôn ngoan nhân loại. “Bởi vì sự điên rồ của
Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối của Thiên Chúa thì mạnh
mẽ hơn loài người.” (1C 1,25)
Thân
phận của người môn đệ
Những
câu cuối cùng của đoạn Tin Mừng trên đây nhắm vào cả dân chúng lẫn môn đệ. Nói
cách khác, nhắm đến mọi Kitô hữu, không phân biệt bậc sống. “Nếu ai muốn đi sau
Ta”. Đi sau Đức Giêsu là mẫu số chung của mọi Kitô hữu. Từ Đức Giáo Hoàng đến
các giáo dân, tất cả đều là môn đệ đi sau Thầy Giêsu, với một lòng tự nguyện. Bất
cứ ai muốn thì đều được mời gọi đi theo, mà theo là phải từ bỏ. Các môn đệ đầu
tiên đã bỏ chài lưới, bỏ cả thân phụ cùng những người làm công để theo Đức
Giêsu. Còn bây giờ, điều Đức Giêsu đòi hỏi thì tận căn hơn nhiều. Không phải chỉ
bỏ một vật nào đó, mà là từ bỏ chính mình. Từ bỏ này là gốc rễ của mọi từ bỏ
khác.
Từ
bỏ chính mình là không còn sống cho chính mình nữa, là vác lấy thập giá của
mình mà theo Đức Giêsu. Như thế Đức Giêsu cho chúng ta một hình ảnh về người
Kitô hữu. Kitô hữu là người vác thập giá mình đi sau Đức Giêsu vác thập giá.
Vác thập giá là công việc dành cho chính tử tội trên đường đến nơi chịu đóng
đinh. Có thể chúng ta không được phúc tử đạo, nhưng chắc chắn mỗi Kitô hữu đều
được chịu cái chết thiêng liêng, chết cho chính mình để rồi sống cho Thiên
Chúa. Con đường Khổ Nạn – Phục Sinh của Đức Giêsu là con đường Phêrô không thể
hiểu được và cũng không chấp nhận, nhưng rồi đó cũng sẽ là con đường của ông,
và của tất cả chúng ta. “Khi đã về già, anh sẽ giang tay ra và người khác sẽ thắt
lưng cho anh và lôi anh đến nơi anh không muốn.” (Ga 21,18). Đức Giêsu đã vác
thập giá, cái dụng cụ giết người mà cả người Do Thái lẫn Hy Lạp đều coi là nhơ
nhuốc. Thập giá của Đức Giêsu là do Ngài gánh lấy tội lỗi của nhân loại. Còn thập
giá của chúng ta là do chúng ta lãnh lấy sứ mạng rao giảng Tin Mừng của Đức
Giêsu và muốn làm chứng cho Ngài. Chúng ta chấp nhận liều mất mạng sống mình vì
Đức Kitô và vì Tin Mừng (c.35).
Từ
bỏ chính mình là điều kiện tiên quyết, nếu không thì việc gánh vác sứ mạng của
Đức Giêsu sẽ chỉ là một ảo tưởng chẳng đi tới đâu. Ngay cả người đã theo Chúa
cũng bị cám dỗ vì chính lòng tận tụy trung tín của mình. Điều này đã xảy ra nơi
các môn đệ. Sau khi họ đã bỏ cha mẹ, vợ con, nghề nghiệp, tài sản… để theo
Chúa, họ chợt thấy mình trở nên quan trọng. Cái tôi có nguy cơ lớn lên song
song với lòng quảng đại hiến thân của họ. Nhóm Mười Hai bắt đầu tranh luận với
nhau xem ai là người lớn nhất trong Nhóm (Mc 9,33). Vậy trở ngại đầu tiên và cuối
cùng vẫn là cái tôi. Từ bỏ cái tôi là nỗ lực liên tục của mọi Kitô hữu, dù là
tu sĩ hay giáo dân, già hay trẻ, trí thức hay ít học.
Thanh
tẩy tội lỗi của mình nhờ ơn Chúa giúp, là điều không khó lắm. Nhưng thật là khó
khi phải thanh tẩy mình khỏi những nhân đức và biết bao công trạng mình đã lập
được. Với ơn Chúa, chúng ta có thể làm được điều khó khăn này. (Lm Augustine
sj, Vietcatholic 2001)
V. Lời
nguyện cho mọi người
Chủ tế :
Anh chị em thân mến, Đức Giêsu Kitô đã cứu độ mọi người bằng đi qua đường thập
giá để đem họ vào vinh quang Nước Trời ; đó cũng là đường mà mọi người phải
đi qua để có thể vào Nước Trời. Chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện :
1.
Xin cho các vị chủ chăn và mọi con chiên trong Hội thánh không lùi bước trước
khó khăn gian khổ / nhưng luôn trung thành bước đi theo Đức Giêsu trên đường
thập giá.
2.
Xin cho các nhà cầm quyền và dân chúng trong các nước chậm tiến, kém phát triển /
biết sẵn sàng chấp nhận mọi gian nan thử thách / để xây dựng đất nước theo
công lý và hòa bình.
3.
Xin cho mọi người đang gặp khổ nạn / biết liên kết với cuộc khổ nạn của Đức
Giêsu Kitô / để tìm thấy ý nghĩa và niềm hy vọng cho cuộc sống.
4.
Xin cho mọi người trong họ đạo chúng ta là môn đệ Chúa / biết trung thành
đi theo Chúa / và sẵn sàng liều mạng sống vì Chúa và vì Tin mừng của Người.
Chủ tế :
Lạy Đức Giêsu, xin cho Lời Chúa và Thánh Thể Chúa bồi dưỡng chúng con, để chúng
con luôn sẵn sàng chia sẻ với cuộc khổ nạn của Chúa, và cũng được chia sẻ vinh
quang thiên quốc với Chúa. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị.
VI. Trong
Thánh lễ
– Trước
kinh Lạy Cha : Thánh Kinh nói “Chúa luôn gần gũi những tấm lòng tan nát
khiêm cung”. Mỗi người chúng ta đều mang cõi lòng tan nát vì bao nỗi khổ đau.
Chúng ta hãy dâng hết lên Chúa cùng với Lời kinh Lạy Cha.
– Trước
lúc rước lễ : Đức Giêsu mà chúng ta sắp rước vào lòng chính là Con Chiên
Thiên Chúa gánh lấy mọi đau khổ và mọi tội lỗi của loài người.
VII. Giải
tán
Thánh
lễ đã xong. Khi về nhà, anh chị em hãy ghi nhớ Lời Chúa dạy hôm nay : “Ai
muốn theo Ta, hãy từ bỏ chính mình, vác Thập giá mình mà theo”.
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio
Divina: Chúa Nhật XXIV Thường Niên (B)
Chủ
Nhật 16 Tháng Chín, 2018
Đi
theo Chúa Giêsu như thế nào
Chăm
sóc các Môn Đệ, chữa lành Người Mù
Mc
8:27-35
1. Lời nguyện mở đầu
Lạy
Chúa Giêsu, xin hãy sai Thần Khí Chúa đến giúp chúng con đọc Kinh Thánh với
cùng tâm tình mà Chúa đã đọc cho các môn đệ trên đường Emmau. Trong
ánh sáng của Lời Chúa, được viết trong Kinh Thánh, Chúa đã giúp các môn đệ khám
phá ra được sự hiện diện của Thiên Chúa trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết
của Chúa. Vì thế, cây thập giá tưởng như là sự kết thúc của mọi niềm hy vọng,
đã trở nên nguồn mạch của sự sống và sự sống lại.
Xin
hãy tạo trong chúng con sự thinh lặng để chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa
trong sự Tạo Dựng và trong Kinh Thánh, trong các sự kiện của đời sống hằng ngày
và trong những người chung quanh, nhất là những người nghèo khó và đau khổ.
Nguyện xin Lời Chúa hướng dẫn chúng con để, giống như hai môn đệ từ Emmau,
chúng con cũng sẽ được hưởng sức mạnh sự phục sinh của Chúa và làm chứng cho những
người khác rằng Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng con như nguồn mạch của tình
anh em, công lý và hòa bình. Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con của
Đức Maria, Đấng đã mặc khải cho chúng con về Chúa Cha và đã sai Chúa Thánh Thần
đến với chúng con. Amen.
2. Bài Đọc
a)
Chìa khóa dẫn đến bài đọc:
Phần
Tin Mừng của Chúa Nhật thứ 24 Thường Niên tuần này trình bày lời loan báo đầu
tiên về cuộc Thương Khó và cái chết của Chúa Giêsu, cho các Môn Đệ, Phêrô cố gắng
loại trừ Thập Giá và giáo huấn của Chúa Giêsu liên quan đến những hệ quả của Thập
Giá cho những ai muốn làm môn đệ của Người. Phêrô không hiểu được đề
nghị của Chúa Giêsu liên quan đến Thập Giá và khổ nạn. Ông đã chấp
nhận Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, nhưng không là Đấng Cứu Thế chịu khổ nạn. Phêrô
đã bị nhồi sọ bởi lời tuyên truyền của chính quyền thời bấy giờ nói về Đấng Cứu
Thế như một vị Quân Vương vinh hiển. Phêrô dường như bị mù
quáng. Ông không thể nhìn thấy bất cứ điều gì và ước mong Chúa Giêsu
cũng sẽ giống như ông, Phêrô đã mong ước và hình dung. Ngày nay, tất
cả chúng ta đều tin vào Đức Giêsu. Nhưng tất cả chúng ta không hiểu Người trong
cùng một cách. Đối với tôi, Chúa Giêsu là ai? Vào thời
nay, hình ảnh phổ biến nhất về Chúa Giêsu mà người ta có là gì? Ngày
nay, liệu có lời tuyên truyền nào nhằm xen vào trong cách chúng ta nhìn thấy
Chúa Giêsu không? Đối với Đức Giêsu, tôi là ai?
b)
Phần phân đoạn văn bản để trợ giúp cho bài đọc:
Mc
8:27-28: Câu hỏi của Chúa Giêsu liên quan đến ý kiến của người dân
và câu trả lời của các Môn Đệ
Mc
8:29-30: Câu hỏi của Chúa Giêsu và ý kiến của các Môn Đệ
Mc
8:31-32a: Lời loan báo đầu tiên về cuộc Thương Khó và cái chết
Mc
8:32b-33: Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và ông Phêrô
Mc
8:34-35: Những điều kiện để đi theo Chúa Giêsu
c)
Tin Mừng:
27 Khi ấy, Chúa Giêsu cùng các môn đệ
đi về phía những làng nhỏ miền Cêsarê thuộc quyền Philipphê. Dọc đường, Người hỏi
các ông rằng: “Người ta bảo Thầy là ai?” 28 Các ông đáp lại
rằng: “Thưa là Gioan Tẩy Giả. Một số bảo là tiên tri Êlia, một số khác lại cho
là một trong các vị tiên tri”. 29 Bấy giờ Người hỏi: “Còn
các con, các con bảo Thầy là ai?” Phêrô lên tiếng đáp: “Thầy là Đấng
Kitô”. 30 Người liền nghiêm cấm các ông không được nói về
Người với ai cả.
31 Và Người bắt đầu dạy các ông biết Con
Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ
chối bỏ và giết đi, rồi sau ba ngày sẽ sống lại. 32 Người
công khai tuyên bố các điều đó. Bấy giờ Phêrô kéo Người lui ra mà can trách Người. 33 Nhưng
Người quay lại nhìn các môn đệ và quở trách Phêrô rằng: “Satan, hãy lui đi! Vì
ngươi không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người”. 34 Người
tập họp dân chúng cùng các môn đệ lại, và phán: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ
mình, vác thập giá mình mà theo Ta. 35 Quả thật, ai muốn cứu
mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng,
thì sẽ cứu được mạng sống mình”.
3. Giây phút thinh lặng cầu
nguyện
Để Lời
Chúa có thể thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.
4. Một vài câu hỏi gợi ý
Để
giúp chúng ta trong phần suy gẫm cá nhân.
a) Điều nào trong văn bản này làm bạn hài
lòng nhất hay đánh động bạn nhất? Tại sao?
b) Ý kiến của dân chúng và của Phêrô về
Chúa Giêsu ra sao? Tại sao Phêrô và dân chúng nghĩ như thế?
c) Mối tương quan giữa việc chữa lành người
mù, được mô tả trước đây (Mc 8:22-26) và cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu với
Phêrô và các Môn Đệ khác là gì?
d) Chúa Giêsu đòi hỏi gì nơi những ai muốn
đi theo Ngài?
e) Ngày nay, điều gì ngăn cản chúng ta
không nhận ra và đảm nhận kế hoạch của Chúa Giêsu?
5. Dành cho những ai muốn đào
sâu vào trong chủ đề
a)
Bối cảnh xưa và nay:
i) Trong câu Tin Mừng Mc 8:27, lời hướng dẫn
cặn kẽ của Chúa Giêsu cho các Môn Đệ bắt đầu, và việc này kéo dài đến chương Mc
10:45. Lúc khởi đầu của lời hướng dẫn cũng như tại phần kết của nó,
Máccô đặt việc chữa lành người mù: Mc 8:22-26 và Mc
10:46-52. Tại lúc bắt đầu, việc chữa lành người mù không phải là dễ
dàng và Chúa Giêsu đã phải chữa anh ta trong hai giai đoạn. Việc chữa
lành sự mù lòa của các Môn Đệ cũng khó khăn không kém. Chúa Giêsu đã
phải đưa ra một lời giải thích dài liên quan đến tầm quan trọng của cây Thập
Giá để giúp các ông nhìn thấy thực tế, bởi vì nó là cây thập giá đã mang lại sự
mù lòa ở họ. Vào đoạn kết, việc chữa lành người mù Batimê là hoa
trái của đức tin vào Chúa Giêsu. Nó cho thấy lý tưởng của người Môn
Đệ: tin tưởng vào Đức Giêsu và chấp nhận Ngài như chính con người
Ngài, không phải như tôi mong muốn hay tưởng tượng.
ii) Vào năm 70, khi Máccô đang viết sách
này, tình trạng của các cộng đoàn không phải là dễ dàng thoải
mái. Đã có rất nhiều đau khổ, rất nhiều thập giá. Sáu năm
trước đó, vào năm 64, hoàng đế Nêrô đã hạ lệnh đàn áp dã man lần thứ nhất, giết
hại rất nhiều Kitô hữu. Trong năm 70, tại Palestine, thành
Giêrusalem sắp bị tàn phá bởi người La Mã. Tại các quốc gia khác, sự
căng thẳng lớn giữa những người Do Thái cải đạo và những người không cải đạo đã
bắt đầu. Mối khó khăn lớn nhất là Thập Giá của Chúa
Giêsu. Người Do Thái cho rằng một kẻ bị đóng đinh trên Thập Giá thì
không thể là Đấng Cứu Thế được mọi người trông đợi, bởi vì Lề Luật đã khẳng định
rằng bất cứ kẻ nào đã bị kết án xử chết treo trên thập giá thì phải xem kẻ ấy
như là đồ bị Thiên Chúa nguyền rủa (Đnl 21:22-23).
b)
Bình luận về văn bản:
Mc
8:22-26: Chữa lành người mù
Người
ta dẫn một người mù đến và xin Đức Giêsu chữa cho anh ta. Chúa Giêsu
đã chữa anh, nhưng theo một cách khác. Thoạt tiên, Người cầm lấy tay
anh mù đưa ra khỏi làng, rồi bôi nước miếng vào mắt anh, đặt tay trên anh và hỏi: Anh
có thấy gì không? Và anh ta thưa: Tôi thấy người
ta, trông họ như cây cối, họ đi đi lại lại! Anh ta thấy chỉ có một
phần. Anh ta trông thấy cây cối và lẫn lộn chúng với người ta, và
người ta với cây cối! Chỉ đến lần thứ hai Chúa Giêsu đặt tay trên mắt
anh thì anh trông rõ tỏ tường mọi sự và Người nghiêm cấm anh đừng có về
làng. Chúa Giêsu không muốn có một cuộc loan truyền nhanh
chóng! Bài mô tả này về việc chữa lành người mù là phần giới thiệu về
các hướng dẫn sẽ được trao cho các Môn Đệ, bởi vì trong thực tế, Phêrô và các
Môn Đệ khác đều bị mù! Và sự mù lòa của các Môn Đệ được Chúa Giêsu chữa lành, mặc
dù không phải trong lần đầu tiên. Các ông đã chấp nhận Chúa Giêsu là
Đấng Cứu Thế, nhưng chỉ như một Đấng Cứu Thế vinh hiển. Các ông chỉ
nhận thấy một phần! Các ông đã không muốn dính líu với Thập
Giá! Các ông đã lẫn lộn cây cối với người ta!
Mc
8:27-30: ĐỂ TRÔNG THẤY: khám phá ra thực tại
Chúa
Giêsu hỏi: “Người ta bảo Thầy là ai? Các ông đáp lại cho
thấy dân chúng có nhiều ý kiến khác nhau: “Gioan Tẩy Giả”, “Tiên tri
Êlia hay một trong các vị tiên tri”. Sau khi nghe ý kiến của những
người khác, Chúa Giêsu lại hỏi: “Còn các con, các con bảo Thầy là
ai?” Phêrô thưa rằng: “Thầy là Đấng Kitô, Đấng Thiên
Sai!” Đó là: “Thầy là Chúa, Đấng mà người ta đang mong đợi!” Chúa
Giêsu đồng ý với Phêrô, nhưng nghiêm cấm ông không được nói với ai về điều
này. Tại sao Chúa Giêsu lại cấm các ông điều này? Lúc bấy
giờ, mọi người đều đang mong đợi sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế, nhưng mỗi người
mong theo cách riêng của mình, tùy theo tầng lớp và địa vị xã hội mà người ấy
có: một số mong Ngài đến như một vị Vua, một số khác thì
như một vị Thày Cả, Luật Sĩ, Anh Hùng, Đấng Phán Xét hay là Tiên Tri! Dường
như không ai mong đợi một Đấng Thiên Sai là Người Tôi Tớ, như được
công bố bởi tiên tri Isaia (Is 42:1-9).
Mc
8:31-33: ĐỂ ĐÁNH GIÁ: Xác định rõ tình
hình: Lời loan báo đầu tiên về cuộc Thương Khó
Chúa
Giêsu bắt đầu giảng dạy rằng Người chính là Đấng Cứu Thế Tôi Trung được
loan báo bởi tiên tri Isaia, sẽ bị bắt và bị
giết
trong khi thực hiện sứ vụ công lý của Người (Is 49:4-9;
53:1-12). Phêrô với tràn đầy sợ hãi, ông kéo Chúa Giêsu sang một bên
và cố gắng can gián Người.
Và
Chúa Giêsu quở trách Phêrô: “Satan, hãy lui ra sau
Ta! Ngươi không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người!” Phêrô
nghĩ rằng ông đã đưa ra câu trả lời đúng. Và, thực ra, ông chỉ nói
đúng chữ: “Thầy là Đức Kitô!” Nhưng ông đã không cho từ
ngữ này ý nghĩa đúng. Phêrô không thấu hiểu Chúa Giêsu. Ông giống
như anh mù ở Béthsaiđa. Ông lẫn lộn người ta với cây cối! Câu
đáp lời của Chúa Giêsu rất nghiêm khắc. Người gọi Phêrô là Satan! Satan
trong tiếng Do Thái có nghĩa là kẻ tố cáo, là kẻ ngăn trở những người
khác đi theo đường lối của Thiên Chúa. Chúa Giêsu không cho phép bất
cứ ai cản trở Người khỏi sứ vụ của mình. Theo đúng từng chữ, Chúa
Giêsu nói: “Hãy lui ra sau Ta!” Đó có nghĩa là, Phêrô phải
đi đằng sau Chúa Giêsu, phải đi theo Đức Giêsu và chấp nhận
con đường hoặc phương hướng mà Chúa Giêsu đã vạch ra. Phêrô muốn là
kẻ đứng trước và chỉ hướng. Ông mong muốn một Đấng Cứu Thế theo
phương cách và lòng ước muốn của mình.
Mc
8:34-37: ĐỂ HÀNH ĐỘNG: Những điều kiện để đi theo Chúa
Giêsu
Chúa
Giêsu rút ra những kết luận mà vẫn còn giá trị đến ngày nay: Ai
muốn theo Ta, hãy vác thập giá mình mà theo Ta! Vào thời ấy, thập
giá là bản án tử hình mà Đế Chế La Mã đã áp đặt cho những kẻ bị gạt ra ngoài lề
xã hội. Như thế, vác thập giá mình và đi theo Chúa Giêsu có nghĩa là
chấp nhận bị thiệt thòi bởi hệ thống bất công mà sự bất công đã được hợp pháp
hóa. Nó cho thấy một sự đổ vỡ hoàn toàn và triệt để. Như
Thánh Phaolô nói trong Thư Gửi các Tín Hữu Galát: “Ước chi tôi chẳng
hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta! Nhờ thập
giá Người, thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá đối với tôi,
và tôi đối với thế gian” (Gal 6:14). Thập Giá không phải là định mệnh,
nó cũng chẳng là nhu cầu cấp bách từ Chúa Cha. Thập Giá là hệ quả của
sự kết ước, được Chúa Giêsu đảm nhận một cách tự do để mặc khải Tin Mừng rằng
Chúa Giêsu đến từ Chúa Cha, và do đó tất cả mọi người đều được chấp nhận và được
đối xử như anh chị em. Bởi vì lời loan báo mang tính cách mạng này,
Người đã bị bách hại và Người không sợ phải hy sinh mạng sống mình. Không
có bằng chứng nào về một tình yêu cao quý hơn là việc thí mạng sống mình cho
anh em.
c)
Phần phụ lục:
Lời
hướng dẫn của Chúa Giêsu cho các Môn Đệ
Ở giữa
sự chữa lành cho hai người mù (Mc 8:22-26 và Mc 10:46-52), chúng ta thấy có lời
hướng dẫn dài của Chúa Giêsu cho các Môn Đệ, để giúp cho các ông hiểu về tầm
quan trọng của Thập Giá và các hệ quả của nó đối với đời sống (Mc 8:27 – 10:45). Nó
dường như là một tài liệu, một loại giáo lý công giáo, được thực hiện
bởi chính Chúa Giêsu. Nó nói về thập giá trong đời sống của người
Môn Đệ. Nó là một loại lược đồ hướng dẫn:
Mc
8:22-26: Chữa lành người mù
Mc
8:27-38: Loan báo lần thứ nhất về Cuộc Thương Khó
Mc
9:1-29: Hướng dẫn về Đấng Mêssia Tôi Tớ
Mc
9:30-37: Loan báo lần thứ hai về Cuộc Thương Khó
Mc
9:38 – 10:31: Hướng dẫn về cuộc đối thoại
Mc
10:32-45: Loan báo lần thứ ba về Cuộc Thương Khó
Mc
10:46-52: Chữa lành người mù
Như chúng
ta có thể thấy, sự hướng dẫn được hình thành bởi ba lần loan báo về Cuộc Thương
Khó. Lần thứ nhất ở Mc 8:27-38, lần thứ hai ở Mc 9:30-37 và lần thứ
ba ở Mc 10:32-45. Giữa lần thứ nhất và lần thứ hai, có một loạt các
hướng dẫn để giúp các ông hiểu được rằng Chúa Giêsu là Đấng Mêssia Tôi
Trung (Mc 9:1-29). Giữa lần thứ hai và lần thứ ba, có một loạt
các hướng dẫn để làm sáng tỏ việc hoán cải phải xảy ra trong cuộc sống của những
ai chấp nhận Chúa Giêsu là Đấng Mêssia Tôi Trung (Mc
9:38-10:31).
Bối cảnh
của toàn bộ lời chỉ dẫn là con đường từ Galilê lên Giêrusalem,
từ biển hồ đến thập giá. Chúa Giêsu đang trên đường tiến về
Giêrusalem, nơi người sẽ bị xử tử. Từ đầu đến cuối của lời chỉ dẫn
này, Máccô thông báo rằng Chúa Giêsu đang trên đường tiến về thành Giêrusalem
(Mc 8:27; 9:30-33; 10:1, 17-32), nơi mà Người sẽ nhận lấy thập giá.
Trong
mỗi lần của ba lời loan báo này, Chúa Giêsu nói về Cuộc Thương Khó, Cái Chết và
sự Phục Sinh của Người như là một phần của chương trình của Chúa
Giêsu: “Con Người sẽ phải chịu nhiều đau khổ, sẽ bị các kỳ lão, các
trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ, và giết đi, rồi sau ba ngày sẽ sống lại” (Mc
8:31; 9:31; 10:33). Câu nói cho thấy rằng thập giá
đã được công bố trong các lời tiên tri (xem Lc 24:26).
Mỗi một
lời loan báo về Cuộc Thương Khó thì được đi kèm với những cử chỉ hoặc lời nói
hiểu lầm về phần các Môn Đệ. Trong lần thứ nhất, Phêrô không muốn thập
giá và trách cứ Chúa Giêsu (Mc 8:32). Trong lần thứ hai, các Môn Đệ
không hiểu Chúa Giêsu, các ông sợ hãi và muốn được làm người lớn hơn cả (Mc
9:32-34). Vào lần thứ ba, các ông sợ hãi, họ kinh hoàng (Mc 10:32), và các
ông tìm kiếm sự đề bạt (Mc 10:35-37). Và điều này bởi vì trong các cộng
đoàn vào thời Máccô đang viết quyển Tin Mừng của ông, có nhiều người giống như
Phêrô: họ không muốn cây thập giá! Họ giống như các Môn Đệ: họ
không hiểu thập giá, họ sợ hãi và lại muốn là kẻ cao trọng nhất; họ sống trong
nỗi sợ hãi và mong ước có được sự ủng hộ. Mỗi một trong ba lời loan
báo này đã cho họ một lời định hướng về phần Chúa Giêsu, phê phán sự thiếu hiểu
biết của các Môn Đệ và giảng dạy về cách cư xử của họ phải như thế
nào. Như vậy, trong lời loan báo đầu tiên, Chúa Giêsu đòi hỏi những
ai muốn theo Người thì phải vác thập giá mình mà theo, từ bỏ chính mình vì tình
yêu Người và cho Tin Mừng của Người, không hổ thẹn về Người và Lời của Chúa (Mc
8:34-38). Trong lần thứ hai Chúa đòi hỏi: phải làm kẻ phục
vụ mọi người, tiếp đón các trẻ nhỏ, những kẻ bé mọn, như là tiếp đón chính Chúa
Giêsu (Mc 9:35-37). Trong lần thứ ba Người đòi hỏi: phải
uống chén mà Người sắp uống, không được bắt chước những kẻ làm lớn lấy uy quyền
mà cai trị dân, nhưng hãy bắt chước Con Người là Đấng đến không phải để được
người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc muôn
người (Mc 10:35-45).
Sự hiểu
biết tổng quát những điều sau đây về Chúa Giêsu không phải được thu nhặt từ lời
giảng dạy lý thuyết, mà từ việc dấn thân thực tiễn, cùng đi với
Người trên con đường phục vụ, từ miền Galilê đến thành
Giêrusalem. Những ai có tâm duy trì ý tưởng của Phêrô, đó là, về Đấng
Mêssia vinh hiển không qua thập giá, sẽ không hiểu thấu và sẽ không thành công
trong việc đảm nhận thái độ của người môn đệ đích thực. Họ sẽ tiếp tục
mù lòa, lẫn lộn người ta với cây cối (Mc 8:24). Bởi vì không vác thập giá
thì không thể hiểu được Chúa Giêsu là ai và đi theo Chúa Giêsu thì
có nghĩa là gì.
Con
đường đi theo là con đường của sự tận hiến, từ bỏ, phục vụ, sẵn sàng, chấp nhận
xung khắc, biết rằng sẽ có sự sống lại. Thập giá không phải là một sự
ngẫu nhiên trên đường, mà là tạo thành một phần của con đường. Bởi
vì trong thế gian, sắp xếp đẳng cấp bắt nguồn từ sự vị kỷ, tình yêu và phục vụ
chỉ có thể tồn tại trong việc chịu đóng đinh! Kẻ nào từ bỏ cuộc sống
mình mà phục vụ tha nhân, thì gây khó chịu cho những người sống gắn liền với những
đặc quyền ưu đãi và kẻ ấy phải chịu đau khổ.
6. Cầu nguyện với Thánh Vịnh
25 (24)
Lạy
Chúa, xin hãy chỉ cho con đường lối của Ngài!
Lạy
CHÚA, con nâng tâm hồn lên cùng CHÚA.
Lạy Thiên Chúa của con, con tin tưởng nơi Ngài,
xin Ngài đừng để con tủi nhục,
đừng để quân thù đắc chí nhạo cười con.
Chẳng ai trông cậy Chúa,
mà lại phải nhục nhằn tủi hổ,
chỉ người nào tự dưng phản phúc
mới nhục nhằn tủi hổ mà thôi.
Lạy Thiên Chúa của con, con tin tưởng nơi Ngài,
xin Ngài đừng để con tủi nhục,
đừng để quân thù đắc chí nhạo cười con.
Chẳng ai trông cậy Chúa,
mà lại phải nhục nhằn tủi hổ,
chỉ người nào tự dưng phản phúc
mới nhục nhằn tủi hổ mà thôi.
Lạy
CHÚA, đường nẻo Ngài, xin dạy cho con biết,
lối đi của Ngài, xin chỉ bảo con.
Xin dẫn con đi theo đường chân lý của Ngài
và bảo ban dạy dỗ,
vì chính Ngài là Thiên Chúa cứu độ con.
Sớm hôm con những cậy trông Ngài, bởi vì Ngài nhân ái.
lối đi của Ngài, xin chỉ bảo con.
Xin dẫn con đi theo đường chân lý của Ngài
và bảo ban dạy dỗ,
vì chính Ngài là Thiên Chúa cứu độ con.
Sớm hôm con những cậy trông Ngài, bởi vì Ngài nhân ái.
Lạy
CHÚA, xin nhớ lại nghĩa nặng với ân sâu
Ngài đã từng biểu lộ từ muôn thuở muôn đời.
Tuổi xuân trót dại bao lầm lỗi, xin Ngài đừng nhớ đến,
nhưng xin lấy tình thương mà nhớ đến con cùng.
Ngài đã từng biểu lộ từ muôn thuở muôn đời.
Tuổi xuân trót dại bao lầm lỗi, xin Ngài đừng nhớ đến,
nhưng xin lấy tình thương mà nhớ đến con cùng.
CHÚA
là Đấng nhân từ chính trực, chỉ lối cho tội nhân,
dẫn kẻ nghèo hèn đi theo đường công chính,
dạy cho biết đường lối của Người.
dẫn kẻ nghèo hèn đi theo đường công chính,
dạy cho biết đường lối của Người.
Tất cả
đường lối CHÚA đều là yêu thương và thành tín
đối với những kẻ nào giữ giao ước và lề luật Chúa.
Lạy CHÚA, tội con thật nặng nề,
vì danh Ngài, xin lượng thứ cho con.
đối với những kẻ nào giữ giao ước và lề luật Chúa.
Lạy CHÚA, tội con thật nặng nề,
vì danh Ngài, xin lượng thứ cho con.
Phàm
ai kính sợ CHÚA,
Người chỉ cho thấy đường phải chọn.
Họ sẽ được an vui hạnh phúc một đời,
và con cháu thừa hưởng đất tổ tiên.
Người chỉ cho thấy đường phải chọn.
Họ sẽ được an vui hạnh phúc một đời,
và con cháu thừa hưởng đất tổ tiên.
CHÚA
xử thân tình với những ai kính sợ Chúa
và cho họ biết giao ước của Người.
Mắt tôi nhìn CHÚA không biết mỏi
vì chính Người sẽ gỡ chân tôi khỏi dò lưới.
và cho họ biết giao ước của Người.
Mắt tôi nhìn CHÚA không biết mỏi
vì chính Người sẽ gỡ chân tôi khỏi dò lưới.
Lạy
Chúa, xin đoái nhìn và xót thương con,
vì thân này bơ vơ khổ cực.
Lòng đau như thắt, xin làm cho thanh thoả,
và giải thoát con khỏi bước ngặt nghèo.
vì thân này bơ vơ khổ cực.
Lòng đau như thắt, xin làm cho thanh thoả,
và giải thoát con khỏi bước ngặt nghèo.
Xin
Chúa thấy cho cảnh lầm than khổ cực
và tha thứ hết mọi tội con.
Xin Chúa thấy cho: thù địch con đông vô kể,
chúng ghét thân này, ghét cay ghét đắng.
và tha thứ hết mọi tội con.
Xin Chúa thấy cho: thù địch con đông vô kể,
chúng ghét thân này, ghét cay ghét đắng.
Xin bảo
toàn sinh mạng và giải thoát con,
đừng để con tủi nhục, bởi vì con ẩn náu bên Ngài.
Ước gì lòng trong sạch và ngay thẳng
che chở giữ gìn con, vì con trông cậy Chúa.
Lạy Thiên Chúa, xin Ngài cứu Israel
thoát mọi nỗi truân chuyên ngặt nghèo.
đừng để con tủi nhục, bởi vì con ẩn náu bên Ngài.
Ước gì lòng trong sạch và ngay thẳng
che chở giữ gìn con, vì con trông cậy Chúa.
Lạy Thiên Chúa, xin Ngài cứu Israel
thoát mọi nỗi truân chuyên ngặt nghèo.
7. Lời Nguyện Kết
Lạy
Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa về Lời Chúa đã giúp chúng con hiểu rõ hơn
ý muốn của Chúa Cha. Nguyện xin Thần Khí Chúa soi sáng các việc làm
của chúng con và ban cho chúng con sức mạnh để thực thi Lời Chúa đã mặc khải
cho chúng con. Nguyện xin cho chúng con, được trở nên giống như Đức
Maria, thân mẫu Chúa, không những chỉ lắng nghe mà còn thực hành Lời
Chúa. Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha trong sự
hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.






Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét