12/12/2019
Thứ Năm tuần 2 mùa vọng
Đức Mẹ Guadalupê
BÀI ĐỌC I: Dcr 2, 14-17
“Hỡi thiếu nữ Sion, hãy hân
hoan”.
Trích sách Tiên tri
Dacaria.
Chúa phán: “Hỡi thiếu
nữ Sion, hãy ca tụng và hân hoan: vì này đây Ta đến ngự giữa ngươi. Trong ngày ấy
sẽ có nhiều dân tộc quy phục Chúa, họ sẽ là dân Ta và Ta sẽ ngự giữa ngươi.
Ngươi sẽ biết rằng Chúa các đạo binh đã sai ta đến cùng ngươi”. Thiên Chúa sẽ
chiếm lấy Giuđa làm sản nghiệp của Người trong thánh địa, và sẽ còn tuyển chọn
Giêrusalem. Mọi xác phàm hãy thinh lặng trước nhan thánh Chúa, vì Người đã chỗi
dậy trong thành thánh của Người. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Gđt 13,
23bc-24a. 25abc (Hr 18cde. 19. 20)
Đáp: Mẹ là vinh dự
của dân tộc chúng con (15, 10d: Hr 9d).
1) Hỡi con gái ta, con
đã được Chúa là Thiên Chúa Tối Cao chúc phúc trên tất cả mọi người nữ sinh ra ở
gian trần. Chúc tụng Thiên Chúa là Đấng đã dựng nên đất trời. – Đáp.
2) Vì hôm nay Thiên
Chúa ca tụng danh nàng, miệng người đời không ngớt lời tung hô, và hằng ghi nhớ
quyền năng Thiên Chúa đến muôn đời. – Đáp.
BÀI ĐỌC II: Kh 11, 19;
12, 1-6. 10
“Một điềm lạ vĩ đại xuất hiện
trên trời”.
Trích sách Khải Huyền
của Thánh Gioan.
Đền thờ Thiên Chúa
trên trời đã mở ra. Và một điềm lạ vĩ đại xuất hiện trên trời: một người nữ mặc
áo mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao: bà đang
mang thai, kêu la chuyển bụng, và đau đớn sinh con. Lại một điềm lạ khác xuất
hiện trên trời: một con rồng đỏ khổng lồ, có bảy đầu, mười sừng, và trên bảy đầu,
đội bảy triều thiên. Đuôi nó kéo đi một phần ba tinh tú trên trời mà ném xuống
đất. Con rồng đứng trước mặt người nữ sắp sinh con, để khi bà sinh con ra, thì
nuốt lấy đứa trẻ.
Bà sinh được một con
trai, Đấng sẽ dùng roi sắt mà cai trị muôn dân: Con bà được mang về cùng Thiên
Chúa, đến tận ngai của Người. Còn bà thì trốn lên rừng vắng, ở đó bà được Thiên
Chúa dọn sẵn cho một nơi. Và tôi nghe có tiếng lớn trên trời phán rằng: “Nay sự
cứu độ, quyền năng, vương quyền của Thiên Chúa chúng ta, và uy quyền của Đức
Kitô của Người đã được thực hiện”. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Lc 1, 28
Alleluia, alleluia!
– Kính chào Trinh Nữ Maria đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng Trinh Nữ, Trinh Nữ được
chúc phúc giữa các người phụ nữ. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 1, 26-38
“Này Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một
con trai”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, thiên thần
Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một
trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Đavít, trinh nữ ấy
tên là Maria. Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: “Kính chào Bà đầy ơn
phước, Thiên Chúa ở cùng Bà, Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ”. Nghe lời
đó, Bà bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì.. Thiên thần liền thưa:
“Maria đừng sợ, vì đã được nghĩa với Chúa. Này Bà sẽ thụ thai, sinh một Con
trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Đấng Tối
Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Đavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị
đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận”.
Nhưng Maria thưa với
thiên thần: “Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?”
Thiên thần thưa: “Chúa
Thánh Thần sẽ đến với Bà và uy quyền Đấng Tối Cao sẽ bao trùm Bà. Vì thế Đấng
Bà sinh ra, sẽ là Đấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ
Bà cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu
tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm
được”. Maria liền thưa: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần
truyền”. Và thiên thần cáo biệt Bà. Đó là lời Chúa.
————————————————-
2.
Hoặc đọc:
Lc 1, 39-47
“Phúc cho Bà là kẻ đã tin”
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Luca.
Ngày ấy, Maria chỗi dậy,
vội vã ra đi tiến lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Dacaria
và chào bà Êlisabeth. Và khi bà Êlisabeth nghe lời chào của Maria, thì hài nhi
nhảy mừng trong lòng bà, và bà Êlisabeth được đầy Chúa Thánh Thần, bà kêu lớn
tiếng rằng:
“Bà
được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc! Bởi đâu
tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi? Vì này tai tôi vừa nghe lời Bà chào,
hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa
phán cùng Bà sẽ được thực hiện”. Và Maria nói rằng: “Linh hồn tôi ngợi khen
Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa, Đấng Cứu độ tôi”. Đó là lời
Chúa.
Thân mẫu Chúa tôi đến với
tôi (12.12.2019 – Thứ Năm Tuần 2 MV)
Suy niệm:
Trong những ngày cuối cùng của mùa Vọng,
Hội Thánh mời gọi chúng ta suy niệm về cuộc gặp gỡ
giữa hai người mẹ: Chị Maria và bà Êlisabét,
giữa hai thai nhi: Ðức Giêsu và Gioan Tẩy Giả.
Một cuộc gặp gỡ chan chứa niềm vui.
Niềm vui của chị Maria với bước chân vội vã
băng qua những vùng đồi núi trập trùng xứ Giuđê.
Chị không đi một mình trên đường xa,
vì chị tin có một mầm sống đang lớn lên trong chị.
Chị chỉ mong cho mau đến nhà bà Êlisabét
để phục vụ bà trong những ngày gần sinh nở.
Niềm vui bất ngờ của bà chị họ sau lời chào của Maria.
Bà ngây ngất trước hồng ân mà cô em mình đã nhận được.
Bà tràn ngập hạnh phúc vì được Thân Mẫu Chúa đến thăm.
Êlisabét cảm thấy đứa con trong dạ cũng nhảy mừng.
Dường như bà quên cả niềm vui riêng tư,
để chỉ còn nhớ đến niềm vui cứu độ cho cả dân tộc.
Cuộc gặp gỡ diễn ra trong bầu khí của Thánh Thần.
Thánh Thần vẫn tác động trên chị Maria.
Thánh Thần tràn đầy bà Êlisabét.
Thánh Thần đã hoạt động nơi thai nhi Gioan (Lc 1,15).
Chị Maria đem đến niềm vui cho nhà ông Dacaria
vì chị mang lại Ðấng ban Tin Mừng cứu độ.
Chị đem đến sự phục vụ khiêm hạ
vì chị cưu mang Ðấng đến để phục vụ.
Khi được trở nên nữ tỳ của Thiên Chúa,
chị Maria đã sống như nữ tỳ của con người.
Chị có phúc vì chị được chọn làm Mẹ Ðấng Cứu Thế,
chị còn có phúc vì chị đã tin rằng
Chúa sẽ thực hiện những gì Người nói với chị.
Chúng ta chiêm ngắm Ðức Giêsu đang lớn dần trong lòng mẹ.
Ngài tăng trưởng như mọi người.
Những nhịp đập đầu tiên của trái tim nhỏ bé,
những nét riêng tư đầu tiên của khuôn mặt.
Con Thiên Chúa đã mang quả tim và khuôn mặt người phàm.
Từ khi Ngôi Lời được cưu mang trong dạ mẹ,
không ai có quyền khinh rẻ một thai nhi,
vì mỗi thai nhi đều mang khuôn mặt của Con Thiên Chúa;
không ai được coi thường người phụ nữ,
vì Thiên Chúa đã muốn Con mình được một trinh nữ sinh ra.
Cầu nguyện:
Lạy Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa,
xin gìn giữ nơi con quả tim của trẻ
thơ
tinh tuyền và trong ngần như dòng suối.
Xin ban cho con quả tim đơn sơ,
mau quên những nỗi buồn phiền.
Một quả tim hào hiệp dám hiến thân,
dịu dàng để cảm thông.
Một quả tim trung thành và quảng đại.
không quên ơn, không báo oán.
Xin tạo cho con quả tim hiền từ và khiêm tốn.
yêu mà không mong được yêu lại,
hân hoan xóa mình đi
để Con của Mẹ có chỗ trong lòng người
khác.
Một quả tim vĩ đại và bất khuất,
không khép lại trước những vô ơn,
không chán nản trước người lạnh nhạt.
Một quả tim khắc khoải
lo tìm vinh danh Chúa Giêsu Kitô,
quả tim mang vết thương vì yêu Ngài,
vết thương chỉ lành
khi được sống với Ngài trên trời.
Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Thứ Năm Tuần II Mùa Vọng
Bài Ðọc I: Is 41, 13-20
"Ta là Ðấng Thánh của Israel, Ta là Ðấng Cứu Chuộc
ngươi".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Ta là Chúa, Thiên Chúa của ngươi, Ta cầm tay ngươi và nói cùng ngươi: Ðừng
sợ gì, đã có Ta giúp.
Hỡi con sâu Giacóp, hỡi dân Israel, đừng sợ chi, Ta sẽ đến giúp ngươi,
đó là lời Chúa phán, Ðấng Thánh của Israel, Ðấng Cứu Chuộc ngươi. Ta sẽ đặt
ngươi như chiếc bừa mới tinh và có răng nhọn, ngươi sẽ băm các đồi ra như rơm
rác. Ngươi sẽ sàng chúng và gió sẽ cuốn chúng đi, và cơn lốc sẽ làm chúng tan
tác. Còn ngươi, ngươi sẽ vui mừng trong Thiên Chúa, sẽ hân hoan trong Ðấng
Thánh của Israel.
Những kẻ thiếu thốn nghèo nàn tìm nước, nhưng luống công, lưỡi chúng đã
khô đi vì khát nước. Ta là Chúa, Ta sẽ nhậm lời chúng. Thiên Chúa của Israel,
Ta sẽ không bỏ chúng. Ta khiến sông chảy trên đỉnh núi trọc, và suối nước tràn
giữa thung lũng. Ta sẽ biến hoang địa thành ao hồ và đất khô thành suối nước.
Nơi hoang địa, Ta sẽ cho mọc lên cây hương nam, cây keo, cây sim và cây
dầu; nơi sa mạc, Ta sẽ trồng cây tùng, cây du, cây bách, để mọi người thấy, biết,
lưu tâm và hiểu rằng chính tay Chúa đã làm nên sự nghiệp đó, và Ðấng Thánh của
Israel đã tạo nên cơ đồ này.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 144, 1 và 9. 10-11. 12-13ab
Ðáp: Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giàu ân
sủng (c. 8).
Xướng: 1) Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con, con sẽ ca khen Chúa, và con
sẽ chúc tụng danh Chúa tới muôn đời. Chúa hảo tâm với hết mọi loài,và từ bi với
mọi công cuộc của Chúa. - Ðáp.
2) Lạy Chúa, mọi công cuộc của Chúa hãy ca ngợi Chúa, và các thánh nhân
của Ngài hãy chúc tụng Ngài. Thiên hạ hãy nói lên vinh quang nước Chúa, và hãy
đề cao quyền năng của Ngài. - Ðáp.
3) Ðể con cái loài người nhận biết quyền năng và vinh quang cao cả nước
Chúa. Nước Ngài là nước vĩnh cửu muôn đời; chủ quyền Ngài tồn tại qua muôn thế
hệ. - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy đến viếng thăm chúng con trong
bình an, để tâm hồn chúng con được hoàn toàn vui mừng trước nhan Chúa. -
Alleluia.
Phúc Âm: Mt 11, 11-15
"Chưa từng có ai cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: "Ta bảo thật các
ngươi, trong các con cái người nữ sinh ra, chưa từng xuất hiện một ai cao trọng
hơn Gioan Tẩy Giả, nhưng người nhỏ nhất trong nước trời lại cao trọng hơn ông.
Từ thời ông Gioan Tẩy Giả đến giờ, nước trời phải dùng sức mạnh mà chiếm lấy,
và những kẻ mạnh mẽ can đảm mới chiếm được. Tất cả các tiên tri và lề luật đã
tuyên sấm cho đến Gioan và nếu các ngươi muốn hiểu, thì chính Gioan là Elia, kẻ
phải đến. Ai có tai, thì hãy nghe!"
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm : Gioan Tẩy giả.
Lustiger là người
Do Thái đã từng chứng kiến cảnh phân biệt chủng tộc và việc Đức quốc xã tiêu diệt
người Do Thái. Là người Do Thái, nhưng có bạn là người Công giáo, một hôm theo
bạn đến nhà thờ và từ đó muốn trở lại Công giáo. Anh muốn thuộc về Chúa và dâng
hiến cuộc đời cho Chúa. Mặc dù ông bố không chấp thuận, nhưng anh nhất quyết đi
tu để phục vụ người nghèo khổ, yếu đuối.
Năm 1954, thụ phong
linh mục. Năm 1964 được chọn làm Giám mục và được đề cử về làm Tổng Giám mục
Paris. Bị một số người bất bình phản đối, nhưng ngài vẫn kiên vững trong đức
tin và quan tâm phục vụ mọi người.
Bài Tin Mừng hôm nay
nói đến một con người đặc biệt, có sứ mệnh chuẩn bị tâm hồn người Do Thái đón
nhận Chúa, con người ấy là Gioan Tẩy giả. Kể từ khi gặp Chúa Giêsu, nhất là từ
khi bị Hêrôđê tống ngục, cố gắng quan trọng của Gioan là làm sao cho môn đệ của
ông nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Thiên sai. Dù tống giam Gioan, nhưng Hêrôđê vẫn
còn nể Gioan, nên cho ngài được liên lạc với bên ngoài, bằng chứng là các việc
Chúa Giêsu làm đều đến được tai Gioan và các môn đệ vẫn được tiếp xúc với ngài.
Chúa Giêsu cũng đã từng ca tụng Gioan với dân chúng đi theo và nghe Ngài giảng
dạy. Bằng lối văn đặt câu hỏi dồn dập, Ngài nhấn mạnh đến một số đức tính của
Gioan. Trước hết, là thái độ cứng rắn không chịu thua sự dữ: “Các người đi ra
sa mạc để coi cái gì? Cây sậy rung trước gió ư?” Gioan không phải là cây sậy.
Gioan đã dám đương đầu với sự xấu. Gioan không nể vua Hêrôđê khi khuyến cáo vua
không được lấy vợ của người anh cùng cha khác mẹ với mình là Philip. Thứ đến là
việc từ bỏ mọi sự để sống nghèo khó. Gioan không ăn mặc mịn màng và sống xa
hoa. Gioan chỉ vận tấm da thú, ăn những thức ăn đơn sơ tìm được nơi rừng hoang,
như châu chấu, mật ong. Sau cùng Chúa Giêsu nhấn mạnh đến sứ mệnh của Gioan:
“Các người đi xem một tiên tri ư? Ta bảo các người: và còn hơn một tiên tri nữa”.
Về ông đã có viết: “Này Ta sai sứ thần đi trước mặt ngươi để dọn đường cho
ngươi”.
Tuy nhiên, nếu vai trò
của Gioan cao trọng, thì Nước Trời còn cao trọng hơn, vì người nhỏ nhất trong
Nước Trời còn lớn hơn Gioan. Sở dĩ Nước Trời có giá trị lớn lao vì có sự hiện
diện của Chúa Giêsu Kitô. Nước Trời được mô tả như vương quốc của sức mạnh và
chỉ những kẻ mạnh mới dành được phần thắng.
Ước gì chúng ta biết sống
trọn vẹn ơn gọi của chúng ta và tìm gặp được Đức Giêsu là Đấng cứu độ và niềm
vui của chúng ta nơi trần gian này.
Lời Chúa Mỗi Ngày
Lễ Đức Mẹ Guadalupe, Năm
ABC
Bài đọc: Zec
2:14-17; Lk 1:26-38.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa tôn vinh những
ai khiêm nhường.
Lễ Đức Mẹ Guadalupe rất gần với Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm vì lý do lịch sử của nó. Anh
Gioan Diego, một nông dân người Mễ-tây-cơ, đang trên đường đi ngang qua ngọn đồi
Tepeyac để tham dự thánh lễ buộc này thì được Đức Mẹ hiện ra vào sáng sớm thứ bảy,
ngày 8 tháng 12 năm 1531. Đức Mẹ truyền cho anh phải đi gặp Đức Giám-mục giáo
phận, Juan de Zumárraga, để xin ngài xây một nhà thờ trên đồi Tepeyac dâng kính
Đức Mẹ. ĐGM nói ngài cần thời giờ để suy nghĩ. Lần thứ hai Đức Mẹ hiện ra và
thúc giục anh đi gặp ĐGM và nhắc lại lời yêu cầu, anh đi gặp và ngài nói cần một
dấu chỉ để ngài biết đó là ý của Đức Mẹ thật. Anh trở về và chuyển lời yêu cầu
của ĐGM, Đức Mẹ hứa sẽ thoả mãn lời yêu cầu trong lần gặp kế tiếp ngày 11 tháng
12. Vì bận săn sóc cậu bị bệnh nặng, anh không thể đến gặp Đức Mẹ ngày đã hẹn.
Hôm sau, ngày 12 tháng 12, anh cố tình đi con đường khác vì đã lỡ hẹn với Đức Mẹ,
để mời cha ban bí tích Xức Dầu cho cậu; Đức Mẹ vẫn hiện ra với anh. Đức Mẹ yêu
cầu anh đi lên đồi nhặt hoa hồng, là thứ hoa chưa bao giờ nở trên đồi khô cằn
Tepeyac vào tháng 12. Sau khi đã nhặt hoa, Đức Mẹ xếp những đoá hồng này trên
chiếc áo khoác của anh, và yêu cầu anh mặc vào và đi gặp ĐGM. Khi gặp ngài, anh
mở tung chiếc áo choàng đang mặc làm các hoa hồng rớt xuống, và trên áo có in
hình “Đức Mẹ Guadalupe.” ĐGM nhận ra đó là ý của Đức Mẹ thật và ngài truyền thi
hành công trình xây dựng ngôi thánh đường trên đồi Tepeyac. Chiếc áo choàng
này, sau gần năm trăm năm, nay vẫn còn nguyên vẹn và được giữ cẩn thận tại
Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ Guadalupe bên Mễ-tây-cơ.
ĐGH Leo XIII ban tặng “chuẩn y của Toà Thánh” trên áo choàng anh Gioan Diego
ngày 12 tháng 10 năm 1895. Đức Mẹ Guadalupe được tôn xưng là “Nữ Hoàng của Mễ-tây-cơ”;
“Người Bảo Vệ Mỹ Châu” (1945); “Nữ Hoàng Mỹ Châu La-tinh” và “Người bảo vệ của
những trẻ em chưa sinh” bởi ĐGH J.P. II năm 1999. Anh Gioan Diego được tôn
phong Chân-phước năm 1990 và hiển thánh năm 2002 bởi ĐGH J.P. II. Mẹ Giáo Hội
truyền phải kính lễ Đức Mẹ Guadalupe trên khắp lục địa Mỹ Châu ngày 12 tháng 12
hàng năm.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa sẽ qui tụ mọi dân cùng hướng về Jerusalem.
Thiên Chúa quan phòng mọi sự xảy ra trong cuộc đời này; tất cả là cho mục đích
cứu độ dân chúng của Ngài. Ban đầu Ngài chọn dân Do-thái như là dân riêng để
chuẩn bị cho biến cố Nhập Thể của Đức Ki-tô. Trong hai cuộc thất thủ và lưu đày
của miền Bắc (721 B.C.) và miền Nam (587 B.C.), chúng ta có thể quan sát thấy
hai mục đích chính của Thiên Chúa:
1.1/ Hai cuộc lưu đày cần
thiết để thanh tẩy dân của Thiên Chúa:
Ngôn sứ Zechariah và ngôn sứ Haggai là hai ngôn sứ sau thời lưu đày và có công
trong việc đốc thúc dân chúng xây dựng lại Đền Thờ Jerusalem đã bị phá huỷ vào
năm 587 B.C. bởi quân đội Babylon. Đền Thờ mới được khánh thành bởi thống đốc
Nehemiah và kinh sư Ezra vào năm 515 B.C. Trong ngày khánh thành, kinh sư Ezra
đã cho đọc và giảng kinh thánh từ sáng sớm tới trưa gồm Lề Luật và các Tiên Tri
để nhắc lại cho dân biết sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa, tội bất trung của
dân là lý do chính của toàn thể quốc gia bị huỷ diệt và lưu vong. Ông và các tư
tế nhấn mạnh đến tình thương Thiên Chúa dành cho họ trong việc quan phòng để
Các vua Ba-tư ra chiếu chỉ phóng thích cho họ về lại quê hương và giúp tài
chánh để xây dựng lại Đền Thờ, sau 50 năm miền Nam bị thất thủ, đúng như lời
các ngôn sứ đã loan báo (x/c Ezra 8-9).
Vì thế, điều lợi ích đầu tiên trong việc miền Nam bị thất thủ và lưu đày là
thanh tẩy dân chúng, giúp họ nhận ra mọi lỗi lầm họ đã vi phạm. Đối với Thiên
Chúa, việc phá huỷ và xây dựng lại đều có thể xảy ra cách dễ dàng cho mục đích
thanh tẩy dân của Ngài để Ngài có thể ở với họ. Trong đoạn văn của ngôn sứ
Zechariah, ông kêu gọi dân chúng, “Hỡi con gái Xi-on, hãy vui sướng reo hò, vì
này Ta đang đến để ở lại giữa ngươi, sấm ngôn của ĐỨC CHÚA.”
1.2/ Hai cuộc lưu đày cần
thiết để Dân Ngoại biết đến và tin vào Thiên Chúa: Muốn cho Dân Ngoại biết đến đạo Thiên Chúa, cần có những
người đi rao giảng và làm chứng. Dân Do-thái trở thành những người rao giảng dẫu
bị bắt buộc; vì Thiên Chúa vẫn có thể dùng những khí cụ bất toàn để hoàn tất ý
định của Ngài. Ngôn sứ Isaiah đã tiên báo rằng khi Thiên Chúa phục hồi dân
Do-thái từ nơi lưu đày, thì không phải chỉ có dân Do-thái trở về Jerusalem mà
thôi, nhưng còn rất nhiều con cái của các dân tộc khác nữa (Isa 49:6, 52:10,
60:3-11). Trong đoạn văn hôm nay, ngôn sứ Zechariah cũng đề cập đến sự kiện
này: “Ngày ấy, nhiều dân tộc sẽ gắn bó cùng ĐỨC CHÚA: Chúng sẽ thành dân thánh
của Ta, và Ta sẽ cư ngụ ở giữa ngươi.”
Trong cuộc hiện ra lần đầu tiên, Đức Mẹ truyền cho anh Gioan Diego đi gặp ĐGM để xây một Đền Thờ biệt kính Mẹ trên Đồi Tepeyac. Mục đích của việc xây Đền Thờ là để Mẹ có thể ở giữa dân để chia sẻ những nỗi khốn khổ và chỉ đường cho các dân tộc Châu Mỹ đến với Thiên Chúa. Biến cố này đã giúp cho việc truyền giáo lục địa trẻ nhất của thế giới gần năm trăm năm qua. Chúng ta phải nhận ra sự quan phòng khôn ngoan và tình yêu của Thiên Chúa và Mẹ Maria trong biến cố này.
Trong cuộc hiện ra lần đầu tiên, Đức Mẹ truyền cho anh Gioan Diego đi gặp ĐGM để xây một Đền Thờ biệt kính Mẹ trên Đồi Tepeyac. Mục đích của việc xây Đền Thờ là để Mẹ có thể ở giữa dân để chia sẻ những nỗi khốn khổ và chỉ đường cho các dân tộc Châu Mỹ đến với Thiên Chúa. Biến cố này đã giúp cho việc truyền giáo lục địa trẻ nhất của thế giới gần năm trăm năm qua. Chúng ta phải nhận ra sự quan phòng khôn ngoan và tình yêu của Thiên Chúa và Mẹ Maria trong biến cố này.
2/ Phúc Âm: Đức Kitô nhập thể nhờ lời thưa “Xin Vâng” của Đức Trinh Nữ
Maria.
2.1/ Thiên Chúa chọn
Maria làm Mẹ Đấng Cứu Thế: Trước tiên, chúng
ta cần xác định câu 26 trong trình thuật hôm nay là Lời Giới Thiệu tổng quát của
Luca trước khi đi vào chi tiết của biến cố Truyền Tin. Điều này giúp chúng ta
tránh được việc thắc mắc: Tại sao Mẹ trả lời “không biết đến chuyện vợ chồng”
trong câu 34, lại còn “đã thành hôn với một người tên là Giuse” trong câu 26.
Có thể nói hầu hết các danh hiệu của Đức Mẹ mà Giáo Hội tuyên xưng qua các thời
đại, có nguồn gốc trong các chi tiết của biến cố Truyền Tin:
(1) Mẹ Maria là Đấng đầy tràn ân sủng và Thiên Chúa luôn ở cùng Mẹ, như lời sứ
thần Gabriel chào Đức Mẹ: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng
bà.”
(2) Mẹ Maria luôn đẹp lòng Thiên Chúa: Sứ thần nói: “Thưa bà Maria, xin đừng sợ,
vì bà đẹp lòng Thiên Chúa.” Điều này chứng tỏ Mẹ luôn sạch tội.
(3) Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa: “Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con
trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối
Cao.” Hiển nhiên Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, vì Chúa Giêsu là Con Đấng Tối Cao.
(4) Mẹ là người đem lời Thiên Chúa hứa với các tổ phụ tới chỗ thành tựu: “Đức
Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua David, tổ tiên Người. Người sẽ
trị vì nhà Jacob đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận.”
2.2/ Xung đột giữa ý của
Thiên Chúa và của Maria: Khi được biết ý của
Thiên Chúa qua sứ thần Gabriel, Mẹ Maria cũng trình bày cho sứ thần ý muốn của
Mẹ là muốn sống cuộc đời thánh hiến: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không
biết đến việc vợ chồng!” Sứ thần mặc khải cho Mẹ Maria biết cuộc thụ thai kỳ diệu,
không giống như bất cứ cuộc thụ thai nào trong lịch sử nhân loại: “Thánh Thần sẽ
ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng
Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.”
Điều này có nghĩa Mẹ mang thai mà vẫn còn đồng trinh, như đã được tiên báo trước
bởi tiên tri Isaiah 7:14, và được nhắc lại bởi Matthew 1:23. Thánh Luca xác định
điều này bằng chứng từ của sứ thần Gabriel: “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì
là không thể làm được.” Nếu Thiên Chúa có thể cho một người sinh con trong lúc
tuổi gìa như Abraham và Sarah, như mẹ của Thủ-lãnh Sampson, như mẹ của Tiên-tri
Samuel, hay như Zachariah và Elisabeth trong trình thuật hôm nay, Ngài cũng có
thể làm cho Mẹ Maria mang thai con của Ngài và vẫn đồng trinh.
2.3/ Lời thưa “Xin Vâng”
của Đức Maria: Câu trả lời của Mẹ dạy chúng
ta hai điều: Thứ nhất là thái độ khiêm nhường của Mẹ Maria khi nói với sứ thần:
“Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa!” Thứ hai là thái độ vâng lời làm theo ý Chúa
của Mẹ Maria: “Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.” Với hai thái độ
thích đáng này, Mẹ đã cưu mang Đức Kitô và khai mào kỷ nguyên cứu độ cho nhân
loại.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Thiên Chúa và Đức Mẹ yêu thích người khiêm nhường. Anh
Gioan Diego chỉ là một nông dân nghèo hèn nhưng thành thật; anh được Đức Mẹ chọn
để thi hành ý định của Đức Mẹ. Đức Mẹ cũng được Thiên Chúa chọn để cưu mang Đức
Ki-tô vì sự khiêm nhường và vâng lời của Đức Mẹ.
– Hậu quả của tội lỗi là do lòng kiêu ngạo và sự bất tuân lệnh Thiên Chúa của
ông Adong và bà Evà. Chúng ta phải cố gắng hết sức khử trừ hai tội nguy hiểm
này.
– Chúng ta vẫn còn đang phải chiến đấu với Satan và đồng bọn của hắn, vì đó là
mối thù truyền kiếp; nhưng chúng ta được hứa sẽ chiến thắng, nếu chúng ta khiêm
nhường và làm theo thánh ý Thiên Chúa như Đức Kitô và Mẹ Maria.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
12/12/2019 – THỨ NĂM TUẦN 2 MV
Đức Mẹ Gua-đa-lu-pê
Mt 11,11-15
SỨC MẠNH NÀO CHO KI-TÔ HỮU?
“Từ thời ông Gio-an
Tẩy giả cho đến giờ, Nước Trời phải đương đầu với sức mạnh. Ai mạnh sức thì chiếm
được.” (Mt 11,12)
Suy niệm: “Thiên Chúa thích những
tâm hồn can đảm.” Lời này của Thánh Tê-rê-xa Cả như âm vang lời tuyên bố của
chính Đức Giêsu: “Nước Trời phải đương đầu với sức mạnh, ai mạnh sức thì chiếm
được” (c. 12). Ki-tô giáo không hề là thuốc phiện làm èo uột, ru ngủ quần
chúng, mà là con đường của những kẻ thực sự mạnh. Đức Giê-su không muốn các môn
đệ Người sống thụ động, ngại khó, vâng phục vì sợ sệt. Chúa muốn có những tâm hồn
mạnh mẽ dám vượt mọi thách đố, hiểm nguy, và dám sống chết vì Tin Mừng.
Mời Bạn: Các thánh nhân là những
người thực sự mạnh. Song cũng như bạn và tôi, các ngài vốn mỏng giòn yếu đuối.
Nhưng các ngài đã trở nên mạnh mẽ và vượt qua các thử thách nhờ biết dựa vào
Chúa, như lời thánh Phao-lô: “Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết”
(Pl 4,13).
Chia sẻ: Theo bạn, sự hiền lành, dịu dàng, thứ tha, nhường nhịn,
nhẫn nhục, khiêm tốn… là mạnh hay yếu? Tại sao?
Sống Lời Chúa: Như thánh Phao-lô, chúng
ta ý thức mình yếu đuối, nhưng với “sức mạnh của Đức Ki-tô ở mãi trong tôi,”
chúng ta quyết chiến với mọi cám dỗ lớn nhỏ mà mình gặp trong cuộc sống hằng
ngày.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, để xứng đáng với Nước Trời, chúng con phải
thật sự can đảm, mạnh mẽ khi đối đầu với cám dỗ, nhất là những cám dỗ ngọt ngào
của ma quỉ, trần gian và xác thịt. Xin giúp chúng con sống theo ơn can đảm và sức
mạnh mà Chúa Thánh Thần đã ban cho ngày lãnh nhận Bí Tích Thêm Sức. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
Suy Niệm : Gioan chính là Êlia
Suy niệm :
Đã từ lâu dân tộc Do Thái không có vị ngôn sứ nào xuất hiện.
Thiên Chúa thinh lặng như chẳng muốn nói với dân Ngài.
Người ta thường coi vị ngôn sứ cuối cùng là Malaki.
Ông sống trước công nguyên gần năm thế kỷ.
Ông đã mạnh mẽ phê phán những bê bối của các tư tế và dân Do Thái
sau khi họ trở về từ nơi bị lưu đầy ở Babylon.
Malaki tiên báo ngày đoán phạt của Đức Chúa gần đến.
Nhưng trước khi Ngài đến, sẽ có người đi trước để dọn đường (Ml 3, 1).
Êlia chính là người làm công việc đó:
“Này đây Ta sẽ sai đến với ngươi Êlia, vị ngôn sứ” (Ml 3, 23).
Gioan Tẩy giả là người đã làm nhiệm vụ của Êlia,
tuy ông không phải là một Êlia từ cõi chết sống lại.
Gioan xuất hiện như một ngôn sứ khắc khổ nơi sa mạc hoang vu.
Ông đã cất tiếng mời gọi mọi người sám hối và chịu phép rửa.
để dọn lòng đón Đấng Mêsia sắp đến.
Thế là sau bao thế kỷ mong chờ, Thiên Chúa lại ngỏ lời với dân Ngài.
Gioan Tẩy giả luôn là nhân vật nổi bật trong Mùa Vọng.
Đức Giêsu khẳng định ông còn trọng hơn một ngôn sứ nữa (Mt 11, 9).
Đã có bao ngôn sứ trong Cựu Ước xuất hiện trước ông,
loan báo về Đấng Cứu độ mà Thiên Chúa hứa ban.
Nhưng Gioan là người duy nhất đã chỉ cho dân thấy Đấng ấy là ai.
Chính là Đức Giêsu, người ông đã ban phép rửa.
Gioan cao trọng vì ông là cầu nối giữa hai giai đoạn của lịch sử cứu độ.
Ông vừa thuộc nhóm những ngôn sứ của giai đoạn trước (c. 11),
vừa là người đã chạm đến Nước Trời ở giai đoạn sau (cc. 12-13).
Giai đoạn trước của những lời Thiên Chúa hứa,
và giai đoạn sau khi Thiên Chúa thực hiện những lời hứa này.
Đức Giêsu là Đấng khai mở giai đoạn sau.
Nhưng Ngài cần Gioan để làm người trực tiếp giới thiệu.
Chúng ta không thánh thiện hơn Gioan Tẩy giả,
nhưng chúng ta có phần hạnh phúc hơn ông,
vì được sống trong giai đoạn lời hứa của Thiên Chúa nên thành tựu.
Ơn cứu độ đã đến, Nước Trời đã ở ngay bên.
“Kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông” (c. 11).
Cao trọng hơn vì những kho tàng mới do Đức Giêsu mang lại.
Ngài đem đến ơn cứu độ toàn diện cho từng người,
vượt xa những gì mà các ngôn sứ thời xưa mong đợi.
Gioan hẳn sẽ có mặt trong bữa tiệc cánh chung (Mt 8, 11).
Ông đã chiếm được Nước Trời bằng sức mạnh phấn đấu (c. 12).
Ông đã sống bất khuất và đã chết anh hùng.
Mỗi lần Mùa Vọng, chúng ta lại gặp Gioan.
Đức Giêsu mãi mãi cần những Gioan cho đến ngày tận thế,
để bắc một nhịp cầu, để làm người môi giới trung gian
để tình yêu cứu độ được mọi người đón nhận.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến.
Xin đừng mỉm cười mà nói rằng
Chúa đã ở bên chúng con rồi.
Có cả triệu người chưa biết Chúa.
Nhưng biết Chúa thì được cái gì ?
Chúa đến để làm gì
nếu đời sống con cái của Chúa
cứ tiếp tục y như cũ ?
Xin hoán cải chúng con.
Xin lay chuyển chúng con.
Ước gì sứ điệp của Chúa
trở nên máu thịt của chúng con,
trở nên lẽ sống của cuộc đời chúng con.
Ước gì sứ điệp đó
lôi chúng con ra khỏi sự an nhiên tự tại,
và đòi buộc chúng con,
làm chúng con không yên.
Bởi lẽ chỉ như thế,
sứ điệp đó mới mang lại cho chúng con
bình an sâu xa,
thứ bình an khác hẳn,
đó là Bình An của Chúa. (Helder Câmara)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
12 THÁNG MƯỜI HAI
Emmanuel – Thiên
Chúa Ở Với Chúng Ta
Thiên sứ thưa với Đức
Maria: “Cô sẽ mang thai, sinh một con trai và cô sẽ đặt tên cho con trẻ là
Giêsu” (Lc 1,31). Sự hoàn thành những lời này đang đến rất gần. Tất cả phụng vụ
Mùa Vọng đều đầy ắp niềm mong đợi này.
Trong những ngày cuối
cùng của mùa phụng vụ thánh này, chúng ta chào mừng Đấng sắp đến với những điệp
ca Mùa Vọng tuyệt mỹ, những điệp ca tóm lược cả mầu nhiệm Nhập Thể. Giáo Hội
thưa lên với Đấng sắp được sinh hạ bởi Đức Nữ Trinh và đặt tên Giêsu rằng:
Lạy Đấng Khôn Ngoan,
xuất phát từ Đấng Tối Cao,
Lạy Đức Chúa, thủ lãnh
nhà Israel,
Lạy Chồi Non gốc
Giêsê, được dựng nên như cờ hiệu cho các dân tộc,
Lạy Chìa Khóa nhà
Đavít, Ngài mở và không ai đóng lại được, Ngài khóa và không ai có thể mở ra,
Lạy Aùnh Bình Minh
Phương Đông, Ngài là vẻ huy hoàng của ánh sáng muôn thuở và là mặt trời công
chính,
Lạy Vua muôn dân và là
đá góc tường,
Lạy Đấng Emmanuel!
“Một trinh nữ sẽ mang
thai, sinh một con trai và sẽ đặt tên là Emmanuel” (Is 7,14). Đó là những lời của
Ngôn Sứ Isaia, được viết từ nhiều thế kỷ trước Đức Kitô.
Đức Maria, cùng với
thánh Giuse, đang tiến gần tới Bê lem. Mùa Vọng Đấng Cứu Độ đang chạm đến tột
điểm của nó. Và chính Đức Maria cũng là một món quà phúc ân trọn vẹn làm tràn
ngập trong tâm hồn chúng ta niềm đợi trông và hy vọng.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 12/12
Đức Mẹ Guađalupê
Is 41, 13-20; Mt
11, 11-15.
LỜI SUY NIỆM: “Tôi nói thật
với anh em: Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trong hơn
ông Gioan Tẩy Giả.”
Chúa Giêsu đang đề cao con người và sứ vụ của Gioan Tẩy Giả, chính qua Gioan,
những con người muốn tìm ra chân lý sống sẽ nhận ra một hướng đi mới để dễ dàng
nhận lãnh ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, ngày hôm nay chúng con có được đức tin, là nhờ những chứng nhân
của Chúa trong Giáo Hội. Xin cho chúng con cũng biết sống đời chứng nhân Tin Mừng,
để qua đó có thêm nhiều người cũng có được đức tin như chúng con ngày hôm nay.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 12-12: Thánh
GIOANA PHANXICA CHANTAL
(1572 – 1641)
Gioana Phanxica
Fremyet chào đời ngày 23.01.1572 ở Dijon, là con của vị chủ tịch nghị viện. Thuộc
một gia đình công giáo đạo đức, ông đã đào tạo con gái của mình nên một đứa trẻ
có đời sống tín hữu mạnh mẽ. Học tập như các trẻ em khác, thánh nữ có một tinh
thần sống động và tỏ ra vừa vui tươi vừa đứng đắn.
Dầu còn nhỏ, Gioana
Phanxica quyết xa rời những người lạc đạo, Ngài la hét khi có ai trong số họ chạm
tới Ngài. Khi đến tuổi hoà mình với đời sống đài các, sự dè giữ của thánh nữ chứng
tỏ Ngài đã không ao ước một cuộc sống dễ dãi trống rỗng. Một trong những nhiệt
huyết nơi Ngài là được thực hiện những công trình lớn cho Thiên Chúa: Ngài muốn
được tử đạo. Ngài đã phát khóc khi thấy những người khốn cực, Ngài nói: – “Nếu
không yêu thương người nghèo, tôi thấy mình như không yêu mến Thiên Chúa”.
Vị bá tước de Chantal
thấy rằng: Gioana Phanxica sẽ là người vợ quí nhất trên thế gian. Cuộc hôn nhân
hoàn tất. Gioana Fremyet lúc ấy 20 tuổi trở thành Gioana De Chantal. Buổi đầu,
vị nữ bá tước trẻ lo âu vì những món nợ cũ phải thanh toán. Nhưng GIOANA đã vui
cười bắt tay vào việc. Ngài chỗi dậy từ 5 giờ sáng, dự thánh lễ, dùng ngựa để
đi thăm nông trại và đất đai, kéo sợi và may vá với những người giúp việc, Ngài
tỏ ra là một người quản lý danh tiếng, đồng thời cũng rất bác ái và dễ yêu đến
nỗi người ta gọi Ngài là “bà phúc hậu”.
Có người còn nói rằng:
mình thích mang bệnh để được nữ bá tước viếng thăm, nhưng Ngài cũng biết rằng:
săn sóc và mỉm cười chưa đủ, phải có Chúa giúp sức. Chẳng hạn đến với một bênh
nhân xem như tuyệt vọng, Ngài thức đêm cầu nguyện và đến sáng thì bệnh nhân được
lành. Vị bá tước nhiều lần thấy người vợ đầy lòng bác ái quì cầu nguyện .
Khi xảy ra nội chiến,
cảnh khốn cùng lan rộng cắp làng quê. Vị nữ bá tước đón tiếp các người bị bỏ
rơi. Bệnh tật và các trẻ sơ sinh. Đoàn người thiếu ăn trong vòng bảy dặm tuôn đến,
Ngài tự tay múc cháo phục vụ mọi người. Thấy người đã được trợ cấp trở lại,
Ngài không từ chối giúp đỡ họ và thưa với Chúa: – “Con đến gõ cửa van xin lòng
thương xót của Chúa, nào là con có muốn đến lần thứ hai thứ ba mà bị xua đuổi
đâu ?”
Bá tước de Chantal là
một sị quan, thường vắng mặt để phục vụ nhà vua nơi triều đình hay trong quân đội.
Khi ấy thánh nữ bỏ đồ trang sức và áo nhung, tự khép mình với sáu người con và
các việc nội trợ, dành nhiều thời gian hơn để cầu nguyện. Khi bá tước trở về,
Ngài tổ chức ăn mừng với nét mặt rạng rỡ vui tươi. Hạnh phúc chiếu sáng tổ ấm
gia đình.
Nhưng trong một cuộc
đi săn, bá tước bị tử thương. Ngườivợ trẻ thành góa bụa lúc 28 tuổi, đã đau đớn
khóc lóc: – “Lạy Chúa, xin hãy cất đi mọi của cải và con cái, nhưng xin để lại
người chồng yêu quí mà Chúa ban cho con”.
Dầu vậy, trong cơn thất
vọng, thánh nữ đã điều khiển được lòng mình và tìm vâng theo thánh ý Chúa.
Gioanna Phanxica phải từ giã lâu đài để về sống gần cha chồng. Những người
nghèo vây quanh xe Ngài khóc lóc vì họ đã mất người mẹ hiền. Một cảnh huống nặng
nề đang đợi Gioanna nơi nhà cha chồng. Người quản gia già nắm mọi quyền bính, bắt
Ngài nuôi nấng con cái bà với con cái của thánh nữ. Người đàn bà trẻ đã cố gắng
để khỏi bị chống đối, Ngài luôn hiền hậu và không hề làm cha chồng nổi nóng. Ngài
cũng tổ chức một phòng thuốc cấp cứu và săn sóc người nghèo. Bảy năm trôi đi
trong nếp sống khó khăn và hãm mình.
Năm 164, Gioanna
Phanxica gặp thánh Phanxicô Salesiô. Vị thánh quyết định đời Ngài. Thánh nhân
giảng mùa chay tại Dijon và nhận thấy thánh nữ chăm chú nghe mình. Ngài hỏi
thánh nữ có ý định tái gái không ? Thánh nữ kêu: – Không !
Và thánh nhân đã trả lời:
– “Vậy phải kéo bảng hiệu xuống”. Chỉ muốn Chúa thôi, đừng làm dỏm, dẹp bỏ tất
cả chi tiết phong lưu lẫn lòng kiêu hãnh.
Gioanna tự lo cho mình,
phục vụ người nghèo, lau rửa những người khốn klhổ đầy chấy rận. Mặc đồ sạch sẽ
cho họ rồi nấu giặt và vá mạng áo quần cho họ. Thánh Phaxicô Salesiô dẫn Ngài tới
sự Thánh thiện bằng đời sống ngày càng kết hiệp sâu xa hơn với Chúa. Thánh nhân
cũng qủa quyết rằng: thời giờ đã đến để thánh nữ từ bỏ thế gian. Đường chân thực
của thánh nữ là trở nên tu sĩ và thiết lập dòng thăm viếng.
Gioanna đã anh hùng từ
giã gia đình, Ngài dẫn người con gái không lập gia đình là Fracoise để bổ túc
việc giáo dục bên cạnh Ngài. Người con trai ở lại với ông nội đã chống lại việc
Ngài ra đi và nằm ngang cửa ngăn cản. Cử chỉ của thánh nữ không theo tầm mức của
chúng ta: Gioanna lau nước mắt bước qua mình con. Ngài biết rằng: con mình sẽ
không bị bỏ rơi, vì Ngài đã trao phó cho người cậu là tổng giám mục Bourges. Và
mỗi khi cần đến, Ngài sẽ đi thăm để lo cho lợi ích của các con.
Tháng 6 năm 1610,
thánh nữ đã thiết lập tu viện dầu tiên ở Annecy và khẩn nguyện luôn thực hiện
điều gì xem ra hoàn hảo hơn. Danh tiếng của các nữ tu dòng Thăm Viếng tận tâm
phục vụ người nghèo, bệnh nhân và giáo dục các thiếu nữ lan rộng mau chóng. Suốt
30 năm, mẹ de Chanltal đã thiết lập nhiều tu viện, hiến mình làm nọi việc.
Vào cuối đời, Ngài kể
lại: – “Tôi như những nữ tá thô kệch thời thu hoạch. Người cha gia đình nói với
họ: hãy đến chỗ này, hãy đi chỗ nọ, hãy trở lại cánh đồng này, hãy đi tới chỗ
khác. Chẳng hạn người cha diễm phúc của chúng tôi đã nói: hãy đi thiết lập ở
Lyon , ở Grenoble, hãy trở lại để đi Bourges, hãy đi Paris, hãy từ giã Paris và
trở lại Dijon. Chẳng hạn nhiều năm tôi chỉ đi và đến, khi thì ở một trong những
cánh đồng, khi thì ở một nơi khác của cha thân yêu”.
Nơi nào thánh nữ đi
qua, Ngài đều để lại sự êm dịu, sự phấn khởi và niềm tin tưởng. Người ta thấy
Ngài chống lại sự nhọc mệt bằng niềm vui và can đảm. Linh động trong công việc,
Ngài nấu ăn và coi bò, giờ giải trí, Ngài vui vẻ với các nữ tu… khiến họ nói:
“Khi Mẹ chúng ta không giải trí được là thiếu một phần vui tươi êm ái”. Bệnh tật
không ngăn cản Ngài săn sóc và nghĩ tới mọi sự .
Với một trí khôn nhanh
nhẹn và chính xác, một lúc, Ngài đọc cho 3 nữ tu ghi chép.
Mười chín năm trước
khi qua đời, Gioanna Phanxica mất người bạn, người cha, người nâng đỡ là thánh
Phanxicô Salesio. Sự đau đớn của Ngài thực sự lớn lao. Rồi đến cái chết của người
con trai để lại một cháu gái sẽ là nữ nam tước de Sévigné. Các tang lễ liên tiếp
nơi các người thân. Nhưng thử thách lớn lao nhất của thánh nữ là những chán nản
nội tâm, những cám dỗ kinh khủng nghịch lại đức tin. Ngài không hể tỏ lộ những
đau đớn của mình và lấy sự bình thản để phủ lấp những lo âu. Mẹ de Claugy đã
nói về những khô khan liên tục của Ngài: – “Chỉ trong cõi đời đời, người ta mới
biết hết được”.
Khi Ngài qua đời, cha
giải tội nói: – “Suốt 23 năm, tôi đã thán phục nơi thánh nữ một lương tâm tinh
ròng trong suốt và rõ rệt hơn cả pha lê”.
Trong những hành trình
cuối cùng mẹ de Chantal được reo mừng khắp nơi. Khi có dịch hạch ở Annecy, Ngài
đã không từ chối bỏ nơi này và tăng gấp các việc bố thí và lời cầu nguyện . Ở
St. Germain, hoàng hậu đưa hai người con tới gặp và xin Ngài chúc lành. Ngài
hân hạnh được gặp thánh Vinh -sơn Phaolô, Dân Paris chen lấn để mong chạm tới
Ngài và nghe Ngài nói. Trở về, Ngài ngã bệnh ở Monlins. Tới phút cuối Ngài vẫn
còn lo lắng đến mọi việc. Và sau 3 lần kêu danh Chúa Giêsu, Ngài tắt thở năm
1641, năm 1767 Ngài được tuyên thánh.
(daminhvn.net)
12 Tháng Mười Hai
Thế Giới Sẽ Hết Nghèo Ðói
Mẹ Têrêxa thành
Cacutta, người được giải thưởng Nobel Hòa Bình năm 1979 đã kể lại câu chuyện
sau đây: ngày nọ, có một thiếu phụ và 8 đứa con dại đến gõ cửa xin gạo. Từ nhiều
ngày qua, bà và các con của bà không có được một hạt cơm trong bao tử. Mẹ
Têrêxa đã trao cho bà một túi gạo. Người đàn bà nhận gạo, cám ơn và chia ra làm
hai phần… Ngạc nhiên về cử chỉ ấy, Mẹ Têrêxa hỏi bà tại sao lại phân làm hai.
Người đàn bà nghèo khổ ấy trả lời: “Tôi dành lại một phần cho gia đình người Hồi
Giáo bên cạnh nhà, vì đã mấy ngày qua họ cũng không có gì để ăn”.
Mẹ Têrêxa kết luận như
sau: Thế giới này sẽ hết nghèo đói nếu người ta biết chia sẻ cho nhau. Càng
giàu có, chúng ta càng muốn tích lũy thêm, nhưng càng nghèo khổ, chúng ta càng
dễ chia sẻ hơn.
Nghèo không là một điều xấu, giàu cũng không là một cái tội. Xấu hay không, tội hay không đó là lòng tham lam và ích kỷ của con người mà thôi. Giá trị và danh dự của con người tùy thuộc ở lòng quảng đại của mình.
Nghèo không là một điều xấu, giàu cũng không là một cái tội. Xấu hay không, tội hay không đó là lòng tham lam và ích kỷ của con người mà thôi. Giá trị và danh dự của con người tùy thuộc ở lòng quảng đại của mình.
(Lẽ Sống)







Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét