20/01/2020
Thứ Hai tuần 2 thường niên
Bài Ðọc I: (năm
II) 1 Sm 15, 16-23
"Vâng lời thì
tốt hơn của lễ. Chúa truất phế không cho ông làm vua nữa".
Trích sách Samuel quyển
thứ nhất.
Trong những ngày ấy,
Samuel nói cùng Saolê rằng: "Thôi! Tôi sẽ tuyên bố cho ông những điều
Thiên Chúa đã nói với tôi trong đêm qua". Và Saolê đáp: "Ngài cứ
nói". Samuel liền nói: "Khi ông tự thấy ông còn bé nhỏ, há ông đã chẳng
được đặt làm thủ lãnh các chi họ Israel sao? Và Thiên Chúa đã chẳng xức dầu
phong ông làm vua Israel sao? Chúa đã sai ông lên đường và nói: "Hãy đi giết
quân Amalec tội lỗi, và hãy giao chiến với chúng cho đến khi tận diệt
chúng". Tại sao ông không nghe lời Chúa, mà lại chạy theo chiến lợi phẩm
và làm điều tội lỗi trước mặt Chúa như vậy?" Saolê nói với Samuel:
"Vâng, tôi đã nghe lời Chúa, đã đi trên đường Chúa sai tôi, đã bắt Aga vua
Amalec, và tàn sát dân Amalec. Nhưng trong các chiến lợi phẩm, dân chúng đã lấy
chiên bò, những vật nhất hạng họ cướp được để tế lễ Chúa là Thiên Chúa của họ tại
Galgalê".
Samuel nói: "Này
Chúa ưa thích của lễ toàn thiêu và hy lễ hơn sự vâng lời Chúa ư? Vì vâng lời
thì tốt hơn của lễ, và tuân lệnh thì cao đẹp hơn dâng mỡ cừu; vì phản bội thì
giống như tội tà thuật, còn ngoan cố thì giống như tội thờ bụt thần. Vậy bởi
ông khinh bỉ lời Chúa, nên Chúa truất phế không cho ông làm vua nữa".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 49, 8-9.
16bc-17. 21 và 23.
Ðáp: Ai đi đường ngay thẳng, Ta chỉ cho thấy ơn Thiên
Chúa cứu độ (c. 23b).
Xướng: 1) Ta không khiển
trách ngươi về chuyện dâng lễ vật, vì lễ toàn thiêu của ngươi đặt ở trước mặt
Ta luôn. Ta không nhận tự nhà ngươi một con bò non, cũng không nhận tự đoàn
chiên ngươi những con dê đực. - Ðáp.
2) Tại sao ngươi ưa kể
ra những điều huấn lệnh, và miệng ngươi thường nói về minh ước của Ta? Ngươi là
kẻ không ưa lời giáo huấn và ném bỏ lời Ta lại sau lưng? - Ðáp.
3) Ngươi làm thế, mà
Ta đành yên lặng? Ngươi đã tưởng rằng Ta giống như ngươi? Ta sẽ bắt lỗi, sẽ
phơi bày trước mặt ngươi tất cả. Ai hiến dâng lời khen ngợi, người đó trọng
kính Ta; ai đi đường ngay thẳng, Ta chỉ cho thấy ơn Thiên Chúa cứu độ. - Ðáp.
Phúc Âm: Mc 2, 18-22
"Tân lang còn ở
với họ".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, môn đồ của
Gioan và các người biệt phái ăn chay, họ đến nói với Chúa Giêsu rằng: "Tại
sao môn đồ của Gioan và các người biệt phái ăn chay, còn môn đồ Ngài lại không
ăn chay?" Chúa Giêsu nói với họ: "Các khách dự tiệc cưới có thể ăn
chay khi tân lang còn ở với họ không? Bao lâu tân lang còn ở với họ, thì họ
không thể ăn chay được. Nhưng sẽ đến ngày tân lang bị đem đi, bấy giờ họ sẽ ăn
chay. Không ai lấy vải mới mà vá áo cũ, chẳng vậy, miếng vải vá sẽ rút lại mà
kéo áo cũ, và chỗ rách lại tệ hơn. Cũng không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, chẳng
vậy, rượu sẽ làm vỡ bầu da, và rượu đổ, bầu da hư. Nhưng rượu mới phải để trong
bầu da mới".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Cốt lõi của đạo
Trong những thập niên
gần đây, mặc dầu càng lúc Hiến pháp các quốc gia càng đi sâu vào sự tách biệt
giữa tôn giáo và nhà nước; thế nhưng, sự liên kết giữa tôn giáo và chính trị lại
càng đậm nét hơn. Cuộc chiến giữa Tư bản và Cộng sản đã hầu như chấm dứt, nhưng
chiến tranh tôn giáo xem chừng vẫn dai dẳng, không những giữa những người khác
tôn giáo với nhau, mà ngay cả trong cùng một tôn giáo. Nhìn vào thảm cảnh ấy,
ai cũng thắc mắc tự hỏi: Tôn giáo nào mà không dạy ăn ngay ở lành, tôn giáo nào
mà không dạy sự khoan dung tha thứ, thế thì tại sao những người có tôn giáo lại
nhân danh tôn giáo của mình để gây chiến với người khác hay với chính những người
đồng đạo của mình? Câu trả lời thật đơn giản: sở dĩ người có tôn giáo có thái độ
quá khích và bất khoan nhượng, là vì họ chưa sống đúng cái cốt lõi của đạo. Xét
cho cùng, cái cốt lõi của tôn giáo nào cũng là tình thương.
Chúa Giêsu cũng muốn
chứng tỏ cho chúng ta thấy thế nào là sống đạo. Chúng ta hãy chiêm ngắm thái độ
và lời dạy của Ngài trong Tin Mừng hôm nay. Vừa bắt đầu sứ mệnh rao giảng của
Ngài, cũng như các kinh sư của thời đại Ngài, Chúa Giêsu cũng qui tụ một số môn
đệ; và cũng như các môn đệ của các kinh sư khác, môn đệ của Ngài cũng theo một
lối sống nào đó. Thế nhưng, điều khiến cho nhiều người ngạc nhiên và đặt vấn đề,
đó là Chúa Giêsu và các môn đệ Ngài không tuân giữ một số ngày chay tịnh như
môn đệ của Gioan hay của những người Biệt phái. Không tuân giữ những ngày chay
tịnh đã đành, sau này xem ra Chúa Giêsu càng thách thức hơn nữa, khi Ngài không
tuân giữ cả ngày hưu lễ hay một số tập tục khác, như rửa tay trước khi ăn.
Suốt cuộc sống của
Ngài, Chúa Giêsu đã tỏ ra rất độc lập đối với Do thái giáo. Ðây quả là cách sống
đạo hoàn toàn mới mẻ mà Chúa Giêsu muốn đề ra cho con người. Ðối với Ngài, linh
hồn và cốt lõi của đạo chính là tình thương; tình thương ấy đã thúc đẩy Ngài đi
đến tận cùng bằng cái chết trên Thập giá, và cái chết của Ngài mãi mãi là lời tố
cáo về thái độ bất khoan nhượng trong niềm tin tôn giáo của con người. Vụ án của
Ngài được thi hành như một vụ án chính trị; mãi mãi tên tuổi của viên toàn quyền
La mã là Philatô gắn liền với cái chết của Ngài. Tuy nhiên, vụ án của Chúa
Giêsu vẫn là một vụ án tôn giáo: Ngài chết vì sự cuồng tín và thái độ bất khoan
nhượng của các thủ lãnh Do thái giáo.
Chiêm ngắm thái độ của
Chúa Giêsu trong suốt cuộc đời trần thế của Ngài và lắng nghe giáo huấn của
Ngài, chúng ta sẽ thấy rằng cái cốt lõi của đạo chính là tình thương. Trong cuộc
sống đạo, nhiều lúc chúng ta thắc mắc phải ăn chay thế nào cho đúng cách? Ngày
Chúa nhật có được làm việc xác không? Bỏ lễ Chúa nhật có tội hay không? Thật ra
còn có nhiều câu hỏi nền tảng hơn mà thiết tưởng chúng ta không thể không đặt
ra để tự vấn lương tâm mỗi ngày: tôi có sống công bình, bác ái chưa? Tôi có yêu
thương người anh em bên cạnh tôi chưa? Nhắm mắt làm ngơ trước nỗi khổ của người
xung quanh tôi có phải là một tội không?
Nguyện xin Chúa cho
chúng ta ngày càng thấu hiểu và xác tín rằng sống đạo là sống yêu thương, rằng
cốt lõi của Kitô giáo chính là tình thương.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Hai, Tuần 2 TN2
Bài đọc: Heb
5:1-10; I Sam 15:16-23; Mk 2:18-22.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải tuyệt
đối vâng phục Thiên Chúa.
Xung đột giữa
tư tưởng và ý thức hệ cũ và mới thường xảy ra ở mọi nơi và
mọi thời như các chính thể, trong tôn giáo, cách cư xử. Ví dụ: Phong
trào canh tân của Nhóm Tự Lực Văn Đoàn vào đầu thế kỷ 20, điển
hình trong tác phẩm Đoạn Tuyệt của Khái Hưng. Chúa Giêsu và
các môn đệ cũng phải đương đầu với người Do-thái khi Ngài mang những mặc
khải mới của Thiên Chúa đến cho con người. Câu hỏi được đặt ra: Phải tuân theo
điều nào?
Các Bài Đọc hôm nay
xoay quanh sự xung đột giữa Thiên Chúa và con người, giữa cái cũ và cái mới.
Trong mọi trường hợp, con người phải luôn vâng phục Thiên Chúa. Trong Bài Đọc
I, năm chẵn, Thiên Chúa sai Samuel đến để truất phế ngôi vua của
Saul, vì nhà vua đã không tuân phục Thiên Chúa để tru diệt toàn bộ quân
Amalek. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu dùng câu hỏi của những người thuộc thời đại
cũ để giúp họ nhận ra thời đại mới đã bắt đầu; họ cần có tâm hồn
mới để lãnh nhận giáo lý mới của Ngài mang đến.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
2/ Bài đọc I (năm chẵn): Vâng phục thì tốt hơn là dâng hy lễ, lắng nghe thì tốt hơn
là dâng mỡ cừu.
2.1/ Saul không vâng lời
Thiên Chúa: Samuel được Đức Chúa sai tới để truyền
lệnh cho vua Saul phải lên đường giao chiến với vua và quân đội của người
Amalek. Lý do là vì cách họ đã đối xử và chặn đường con cái Israel
khi từ Ai-cập đi lên; những gì Đức Chúa đã phán, Ngài sẽ thi hành. Lời
của Đức Chúa truyền cho Saul qua ngôn-sứ Samuel rất rõ ràng: "Các
ngươi phải tru hiến tất cả những gì thuộc về nó. Ngươi không được tha
chết cho nó. Ngươi phải giết từ đàn ông đến đàn bà, từ nhi đồng đến
trẻ con đang bú, từ bò đến chiên dê, từ lạc đà đến lừa" (I
Sam 15:3).
Sau khi giao chiến và
thắng trận, Saul đã không thực thi trọn vẹn lời Đức Chúa truyền, hai điều Saul
đã bất tuân Thiên Chúa: (1) ông đã không tru diệt Agag, vua Amalek; và (2) ông
đã để cho quân lính giữ lại những thú vật béo tốt. Việc làm của Saul
không qua mặt được Đức Chúa; Ngài sai Samuel tới để hạch tội bất tuân của
Saul: "Tại sao ngài đã không nghe theo tiếng Đức Chúa? Tại sao ngài đã
xông vào lấy chiến lợi phẩm và làm điều dữ trái mắt Đức Chúa?"
Vua Saul nói với ông
Samuel: "Tôi đã nghe theo tiếng Đức Chúa. Tôi đã đi theo con đường Đức
Chúa sai tôi đi. Tôi đã đưa Agag, vua Amalek về và đã tru hiến Amalek.
Trong số chiến lợi phẩm là chiên dê và bò, trong số những vật bị tru
hiến, dân đã lấy những con tốt nhất để làm hy lễ dâng Đức Chúa, Thiên
Chúa của ông, tại Gilgal." Vua Saul nghĩ mình làm như thế là đẹp
lòng Thiên Chúa!
2.2/ Vâng lời Thiên Chúa
trọng hơn mọi hy lễ: Ông Samuel nói: "Đức
Chúa có ưa thích các lễ toàn thiêu và hy lễ như ưa thích
người ta vâng lời Đức Chúa không? Này, vâng phục thì tốt hơn là dâng hy lễ, lắng
nghe thì tốt hơn là dâng mỡ cừu." Đây là điều quan trọng mà tác giả Sách
Thánh Vịnh cũng như các ngôn sứ đã không ngừng lập đi lập lại để răn
bảo dân chúng (x/c Psa 40:6, 51:16; Isa 1:10-17; Mic 6:5-8; Amo 5:21-24; Hos
6:6). Bất tuân lệnh Thiên Chúa được đồng hóa với những tội nặng như tội
như bói toán và thờ ngẫu tượng.
Hậu quả của tội bất
tuân là Saul bị Thiên Chúa truất quyền làm vua: "Bởi vì ngài đã gạt bỏ lời
của Đức Chúa, nên Người đã gạt bỏ ngài, không cho làm vua nữa."
Tuân theo mệnh lệnh của
cấp trên là điều tối quan trọng trong quân đội để bảo vệ an ninh và
trật tự. Nếu một người lãnh đạo không tuân theo luật lệ, họ sẽ không
thể làm gương cho cấp dưới và không thể điều khiển binh lính dưới quyền
mình. Hơn nữa, cấp dưới không luôn biết những nguy hiểm sẽ xảy ra; vì thế,
họ cần tuyệt đối vâng theo lệnh của cấp trên. Nếu điều này đúng cho quân đội,
nó càng khẩn thiết hơn cho mối liên hệ giữa con người với Thiên Chúa.
3/ Phúc Âm: Chúa Giêsu bảo vệ môn đệ của mình.
3.1/ Tại sao môn đệ Chúa
Giêsu không ăn chay? “Bấy giờ các môn đệ ông
Gioan và các người Pharisees đang ăn chay; có người đến hỏi Đức Giêsu: "Tại
sao các môn đệ ông Gioan và các môn đệ người Pharisees ăn chay, mà
môn đệ ông lại không ăn chay?"
Giao thời giữa Cựu và
Tân Ước là thời gian người Do-thái gia tăng việc chay tịnh và khổ chế,
không những chỉ có trong những giáo phái, mà còn phổ thông trong dân
như các việc đạo đức. Chay tịnh, cùng với cầu nguyện và làm phúc, được coi
là ba trụ chính của đời sống đạo đức (Tob 12:8). Sách Judith coi chay tịnh
là cách để xin ơn lành từ Thiên Chúa (Jdt 4:9). Lối sống chay tịnh
và khổ chế của Gioan Tẩy Giả trong sa mạc là muốn đề cao lối
sống đơn giản và sự tùy thuộc hoàn toàn vào Thiên Chúa.
3.2/ Câu trả lời của
Chúa Giêsu nhấn mạnh đến 2 điểm chính:
(1) Lý do ăn chay: Ăn
chay phải có mục đích rõ ràng. Chúa cho biết lý do tại sao các môn đệ của
Ngài chưa ăn chay: “Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể ăn
chay, khi chàng rể còn ở với họ? Bao lâu chàng rể còn ở với
họ, họ không thểăn chay được.” Chúa Giêsu nhận Ngài chính là chàng rể, và
khách dự tiệc cưới, bạn hữu của chàng rể là các môn đệ.
(2) Thời gian ăn chay:
Chay tịnh có lúc của nó, không phải lúc nào cũng ăn chay. Chúa Giêsu cho biết
khi nào các môn đệcủa Ngài sẽ ăn chay: "Nhưng khi tới ngày chàng rể bị đem
đi rồi, bấy giờ họ mới ăn chay trong ngày đó.”
3.3/ Phải có tâm hồn mới
để lãnh nhận đạo lý mới: Chúa Giêsu là
mốc thời gian để phân biệt giữa cái cũ và mới. Những người Pharisees và
môn đệ của Gioan đại diện cho lớp người cũ, các môn đệ của Chúa Giêsu
đại diện cho lớp người mới. Để có thể lãnh nhận những đạo lý mới được
giảng dạy bởi Đức Kitô, một người cần có tâm hồn mới: rộng đủ đểnhận ra những
bất toàn của đạo lý cũ; đồng thời biết đón nhận những đạo lý mới để làm
cho con người ngày càng toàn hảo hơn. Nếu không có tâm hồn mới, con người sẽ ngoan
cố thủ cựu những điều cũ; đồng thời họ sẽ khước từ những
giáo lý mới của Đức Kitô.
Để giúp họ nhận
ra sự quan trong của một tâm hồn mới, Chúa Giêsu dùng 2 ví dụ rất
quen thuộc với khán giả:
(1) Áo và miếng vá:
“Chẳng ai lấy vải mới mà vá áo cũ, vì như vậy, miếng vá mới đã vá vào sẽ kéo
vải cũ, khiến chỗ rách lại càng rách thêm.”
(2) Rượu và bầu da:
“Cũng không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy, rượu sẽ làm
nứt bầu, thế là rượu cũng mất mà bầu cũng hư. Nhưng rượu mới, bầu cũng phải
mới!"
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Đức Kitô là Thượng Tế mới
của giao ước mới hoàn hảo hơn. Chúng ta hãy chạy đến với Ngài để học
hỏi những mặc khải mới của Thiên Chúa; và mời Ngài đồng hành với chúng ta.
- Vâng lời làm theo những
lời dạy dỗ của Thiên Chúa và của Đức Kitô là điều tối quan trọng trong cuộc
sống. Chúng ta đừng bao giờ bất tuân những mệnh lệnh của Thiên Chúa.
- Dĩ nhiên chúng ta
không đón nhận tất cả các cái mới và lọai bỏ các cái cũ; nhưng biết
dùng trí khôn để thích ứng với hoàn cảnh: giữ lại những gì tốt,
thâu nhận những gì mới, và cải tiến để làm cho tốt hơn.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
20/01/2020
THỨ HAI TUẦN 2 TN
Th. Pha-bi-a-nô, giáo hoàng, tử đạo
Mc 2,18-22
Th. Pha-bi-a-nô, giáo hoàng, tử đạo
Mc 2,18-22
CANH TÂN THEO LỜI CHÚA
“Không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy, rượu sẽ làm
nứt bầu, thế là rượu cũng mất mà bầu da cũng hư. Nhưng rượu mới, bầu da cũng phải
mới.” (Mc 2,22)
Suy niệm: Thật khó
khăn và rất sợ hãi khi phải đổi mới, bởi chúng ta thường an tâm với những gì
mình kiểm soát được. Vì thế, Đức Phan-xi-cô cho biết đó là lý do khiến chúng ta
khó tín thác vào Chúa, bởi lòng tín thác luôn đòi hỏi ta phải chấp nhận đổi mới
theo Phúc Âm, vì đổi mới-sám hối là đòi hỏi thiết yếu của Phúc Âm. Ai có thể giải
thích được sự lớn mạnh của Giáo Hội từ số mười hai người bất toàn đến số đông
các tín hữu hôm nay trên thế giới, nếu không phải do Lời Chúa thôi thúc họ vượt
ra khỏi sự an toàn thường ngày để ra đi truyền giáo làm nên điều mới mẻ trong
thế giới? Như vậy, sự mới mẻ của Lời Chúa là men của rượu mới mà Chúa Giê-su
nói đến và đòi hỏi Ki-tô hữu phải đổi mới tương hợp với Lời Chúa. Sự đổi mới
đòi buộc này làm Ki-tô hữu ái ngại, nhưng là lẽ sống của Ki-tô hữu nếu không muốn “rượu
sẽ làm nứt bầu, thế là rượu cũng mất mà bầu da cũng hư.”
Mời Bạn: Chủ nghĩa
duy cảm đang biến chúng ta thành những người dễ dãi, không cần từ bỏ tội lỗi,
không cần đón nhận Lời Chúa và chấp nhận được đổi mới theo Lời Chúa. Giờ đây, bạn
có ưng thuận lắng nghe Lời Chúa hằng ngày không? Rượu Lời Chúa luôn mới đòi hỏi
chúng ta phải như bầu da mới canh tân cuộc đời theo Lời Chúa.
Sống Lời Chúa: Mỗi ngày
dành giờ riêng tư với Chúa và đọc Lời Chúa.
Cầu nguyện: Lạy
Chúa, xin ban ân sủng Chúa cho chúng con, và xin ban cho chúng con “Thần Trí
dũng mãnh” của Chúa để Ngài “đổi mới mặt đất này” (Is 11,2; Tv 104,30).
(5 phút Lời Chúa)
Chàng rể còn ở với
Các Kitô hữu ăn chay,
vác thánh giá theo Chúa Giêsu, dù họ vẫn luôn sống trong niềm vui, bởi tin vào
Đấng đã phục sinh vinh hiển.
Suy niệm:
Một trong những nét khác biệt giữa Gioan Tẩy Giả với Đức Giêsu
là sự khắc khổ nhiệm nhặt.
Gioan được coi là người “không ăn bánh, không uống rượu” (Lc 7, 33).
còn Đức Giêsu bị mang tiếng là “tay ăn nhậu” với quân thu thuế (Lc 7, 34).
Chúng ta đã từng thấy ngài ăn tại nhà ông Lêvi hay ông Dakêu.
Các người Pharisêu cũng là những người thích ăn chay nhiều lần trong tuần,
dù ngày ăn chay chính thức hàng năm của đạo Do-thái chỉ là ngày lễ Xá tội.
Như thế có sự khác biệt khá rõ giữa môn đệ của Đức Giêsu
với môn đệ của Gioan Tẩy Giả và môn đệ của người Pharisêu.
Một bên có vẻ thoáng và thoải mái, một bên thì khắc khổ nhiệm nhặt.
“Tại sao môn đệ của ông lại không ăn chay ?”
Có người đã dám hỏi thẳng Đức Giêsu như thế.
Ngài đã trả lời bằng một cách dùng một hình ảnh dễ hiểu và đầy ý nghĩa.
Vào thời Đức Giêsu, tại Paléttin, cũng như tại nhiều vùng quê ngày nay,
đám cưới là một biến cố mừng vui có tính làng xã.
Chẳng thể nào hiểu được chuyện một người đi ăn cưới
với khuôn mặt buồn của kẻ đang ăn chay.
“Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể ăn chay,
khi chàng rể còn ở với họ”
Đức Giêsu tự ví mình với chàng rể, còn môn đệ là khách dự tiệc cưới.
Bầu khí trong nhóm môn đệ của ngài là bầu khí vui tươi của một lễ thành hôn
bởi lẽ thời đại thiên sai đã đến rồi.
Đức Giêsu, Đấng Mêsia dân Ítraen mong đợi từ lâu, nay có mặt.
Ngài là chàng rể kết duyên với cô dâu là dân tộc Ítraen của ngài.
Đức Giêsu đã làm trọn điều các ngôn sứ nói trong Cựu Ước
về việc Thiên Chúa lập hôn ước với dân của Người (Hs 2, 21-22; Is 62, 4-5).
“Nhưng khi tới ngày chàng rể bị đem đi khỏi họ, bấy giờ họ mới ăn chay.”
Sau khi Đức Giêsu chịu cái chết dữ dằn, được phục sinh và lên trời,
Giáo hội bước vào một giai đoạn mới, giai đoạn chờ đợi ngài quang lâm.
Trong giai đoạn này, khi Chúa Giêsu vừa vắng mặt, vừa hiện diện,
Các Kitô hữu ăn chay, vác thánh giá theo Chúa Giêsu,
dù họ vẫn luôn sống trong niềm vui, bởi tin vào Đấng đã phục sinh vinh hiển.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
các sách Tin Mừng chẳng khi nào nói Chúa cười,
nhưng chúng con tin Chúa vẫn cười
khi thấy các trẻ em quấn quýt bên Chúa.
Chúa vẫn cười khi hồn nhiên ăn uống với các tội nhân.
Chúa đã cố giấu nụ cười trước hai môn đệ Emmau
khi Chúa giả vờ muốn đi xa hơn nữa.
Nụ cười của Chúa đi đôi với Tin Mừng Chúa giảng.
Nụ cười ấy hòa với niềm vui
của người được lành bệnh.
Lạy Chúa Giêsu,
có những niềm vui
Chúa muốn trao cho chúng con hôm nay,
có sự bình an sâu lắng Chúa muốn để lại.
Xin dạy chúng con
biết tươi cười,
cả khi cuộc đời chẳng
mỉm cười với chúng con.
Xin cho chúng con
biết mến yêu cuộc sống,
dù không phải tất cả
đều màu hồng.
Chúng con luôn có
lý do để lo âu và chán nản,
nhưng xin đừng để nụ
cười tắt trên môi chúng con.
Ước gì chúng con cảm
thấy hạnh phúc,
vì biết mình được
Thiên Chúa yêu thương
và được sai đi
thông truyền tình thương ấy. Amen.
Lm Antôn Nguyễn
Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
20 THÁNG GIÊNG
Chia Sẻ Trong Công
Trình Cứu Chuộc
Chúng ta không được phép quên lý do tại sao Đức Giêsu đã đến làm người
trên cõi đời này. Người đã đến để hoàn thành công trình cứu độ. Người đã hoàn
thành bằng cách nào? Bằng đau khổ và cái chết của Người trên Thập Giá và bằng
chiến thắng của Người nơi cuộc Phục Sinh vinh quang. Mọi lao động của con người,
dù có vẻ tầm thường đến mấy đi nữa, cũng đều tham dự vào công trình cứu độ này
của Đức Giêsu. Như tôi đã nói trong thông điệp về Lao Động: “Bằng thái độ chấp
nhận những nỗi vất vả trong công việc của mình, trong niềm kết hiệp với Đức
Kitô Khổ Nạn vì chúng ta, chúng ta đang cộng tác – một cách nào đó – với Con
Thiên Chúa trong công trình cứu chuộc nhân loại; chúng ta đang chứng tỏ mình là
môn đệ đích thực của Đức Giêsu; chúng ta đang vác thập giá hằng ngày của mình
qua công việc mà mình được mời gọi đảm nhận.” (Laborem exercens 27).
Giáo Hội cố gắng trung thành với mẫu gương và chứng tá của Đức Kitô bằng
cách kiên thủ với nỗi quan tâm đến thiện ích của người lao động. Những thông điệp
nổi tiếng của các giáo hoàng, bắt đầu với Thông Điệp Rerum novarum của Đức Lê-ô
XIII, luôn luôn bênh vực quyền lợi về lương bổng và về điều kiện làm việc của
người lao động.
Giáo huấn của Giáo Hội dựa trên nguyên tắc rằng mọi con người đều được dựng
nên giống hình ảnh Thiên Chúa và đều được Thiên Chúa ban cho một phẩm giá độc
đáo. Vì thế, cần phải bảo đảm rằng không ai bị sử dụng thuần túy như một phương
tiện sản xuất, như kiểu một cỗ máy hay một con trâu, con bò… Giáo Hội bác bỏ mọi
hệ thống xã hội và kinh tế dẫn đến tình trạng tước đoạt nhân tính của người lao
động.
Bên cạnh mối quan tâm về điều kiện làm việc, Giáo Hội kiên quyết đòi hỏi
rằng người lao động phải nhận được món tiền lương xứng đáng – một món tiền
lương có tính đến các nhu cầu của gia đình họ nữa. “Đối với một người lao động
trưởng thành có những trách nhiệm gia đình, thì một món tiền lương công bằng
nghĩa là phải đủ để tạo lập và duy trì một gia đình đúng phẩm giá và bảo đảm
tương lai của gia đình ấy nữa” (Laborem exercens 19).
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 18/01
1Sm 15, 16-23; Mc
2, 18-22.
Lời Suy Niệm: “Bấy giờ các
môn đệ ông Gioan và các người Pharisêu đang ăn chay, có người đến hỏi Đức
Giêsu: “Tại sao các môn đệ ông Gioan và các môn đệ người Pharisêu ăn chay, mà
môn đệ ông lại không ăn chay?” Đức Giêsu trả lời: “Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới
lại có thể ăn chay, khi chàng rể còn ở với họ? Bao lâu chàng rể còn ở với họ, họ
không thể ăn chay được.”
Những thắc mắc của các
môn đệ Gioan, cũng như những môn đệ người Pharisêu về việc họ đang ăn chay mà
môn đệ của Chúa lại không ăn chay. Chúa Giêsu cho họ và cả chúng ta hôm nay biết:
Những ai đang được Người ở cùng, thì không cần phải ăn chay; bởi vì đang được sống
trong niềm vui, trong tình thương và ân huệ của Người. Người là Thiên Chúa thật
của họ. Nên việc ăn chay và sám hối là dấu chỉ của những con người bị xa cách
Thiên Chúa vì những lỗi lầm mình đã phạm, không còn nhận được ơn ban của Ngài
trong cuộc sống. Họ cần phải ăn chay, sám hối để chỉnh sửa đời sống; để tái nhận
ơn ban của Ngài. Ăn chay sám hối còn là để dọn mình trước trong việc thờ phượng
Thiên Chúa và câu nguyện với Ngài.
Lạy Chúa Giêsu. Chúng
con là những kẻ bất toàn trước mặt Chúa, mang nhiều thiếu sót và tội lỗi. Xin
cho chúng con luôn biết sám hối tội lỗi của mình trước mỗi khi cử hành nghi thức
thờ phượng Chúa. Để những việc chúng con làm và những lời cầu xin của chúng con
được Chúa thương nhận.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 20-01: Thánh
FABIANO
Giáo Hoàng Tử Đạo
(+ 250)
Thánh Fabianô lên ngôi
thánh Phêrô không phải do người ta bầu ra, cho bằng chính sự chọn lựa của Thiên
Chúa. Vào lúc dân chúng và hàng giáo sĩ Roma họp nhau để chọn vị mục tử, thì một
cánh chim câu từ trên trời xuống đậu trên đầu Fabiano. Ngài kế vị thánh Anthêrô
làm giáo hoàng năm 236.
Do đó, dầu trước kia
không ai ngó tới Ngài vì Ngài còn là một giáo dân ngoại quốc, bây giờ mọi người
đều lớn tiếng gọi Ngài là người được Chúa chọn. Một cuộc tuyển lựa đặc biệt như
vậy vào Giáo hội hàng đầu trong các Giáo hội, chắc chắn phải có những biến cố
đáng kể tiếp theo. Nhưng lịch sử lại không lưu giữ kỷ niện nào.
Ngài được cai quản
Giáo hội trong 14 năm, với lòng nhiệt thành lẫn sự khôn ngoan. Ngài đã gửi nhiều
nhà truyền giáo sang xứ Gôn (Gaute) và đã kết án nhiều lầm lạc bị gán ghép cách
sai trái cho Origenê. Thánh Cyprianô đã tặng cho Ngài danh hiệu "một con
người khôn sánh".
Ngài đã chịu chết vì đạo
trong thời bách hại của Đeciô khoảng năm 250.
*************
Ngày 20-01: Thánh SÊBASTIANÔ
Ngày 20-01: Thánh SÊBASTIANÔ
Tử Đạo (Thế kỷ III)
Thánh Sêbastianô là
công dân của hai thành phố vì cha Ngài quê quán tại Nac-bon (Narbonne) và mẹ
Ngài quê quán tại Milanô. Năm 283 Ngài gia nhập quân đội. Thánh Sêbastianô nói
rằng: sự hiền lành, khôn ngoan, tài khéo, quảng đại, ngay thẳng và cả trăm đức
tính khác khiến triều đình sớm biết tới thánh nhân. Hoàng đế Điôclêtiano quí mến
và đặt Ngài làm đại úy phòng vệ của ông. Vai trò này giúp cho thánh nhân dễ
dàng đến với các nhà tu để an ủi khích lệ đức tin của các Kitô hữu bị bách hại.
Dịp may đã đến cho
Ngài thi thố lòng nhiêt hành của mình khi Marcô và Marcelinô, hai hiệp sị bị kết
án tử hình vì danh Chúa. Lúc ấy họ suýt bị lung lay đức tin vì những dòng nước
mắt của cha mẹ già yếu lẫn vợ con. Thánh nhân đã có mặt kịp thời để khuyến
khích họ,
Ngài nói: - Hỡi các
chiến sĩ Chúa Kitô, các bạn hy sinh linh hồn bất tử cho thân xác bùn đất sao ?
Các bạn chối bỏ đức tin, phản bội Thiên Chúa, hiến thân cho ma quỉ và từ khước
triều thiên sắp sáng chói trên đầu các bạn sao ?
Đang khi nói những lời
này, một ánh sáng chói lòa tràn ngập ngôi nhà của người giữ ngục. Vợ của người
giữ ngục tên là Zoê được khỏi bệnh câm. Lời nói của thánh Sêbastianô với vài
phép lạ kèm theo đã khơi dậy lòng can đảm nơi các vị tử đạo, cải hóa cha mẹ họ
và khoảng sáu mươi lương dân khác.
Nhưng cuộc trở lại cảm
kích nhất là cuộc trở lại của Crô-mat (Cromace), viên tổng trấn Roma. Ong ta bị
bệnh lậu và nghe biết rằng thánh Sêbastianô, nhờ sức mạnh thầm kín nào đó, có
thể chữa lành nhiều bệnh tật. Ông đến xin thánh nhân cầu khẩn trời cao cho mình
được lành bệnh, thánh nhân nhận lời: - Tôi rất muốn, nhưng với điều kiện là ông
phải thiêu hủy các ngẫu tượng và theo đạo đã.
Đầu tiên ông không chịu
nhưng rồi cũng ưng theo. Ông phá hủy một số lớn các ngẫu tượng. Nhưng bệnh lại
trầm trọng hơn. Ông than thở với thánh nhân: - Nghe lời ông tôi đã pahá hủy các
tựơng thần. Ông đã hứa cho tôi hết bệnh. Bây giờ tôi lại khổ cực hơn bao giờ hết
.
Thánh Sêbastianô trả lời:
- Thưa hoàng công, việc Ngài phá hủy các tượng chẳng nhằm gì nếu Ngài còn cố giữ
lại một tượng thôi. Hãy tiêu hủy nó đi hết và Ngài sẽ được toại nguyện.
Crô-mat tuân theo và
ông đã hết bịnh. Ong và cả gia đình đã theo đạo. Từ chức, ông về miền quê và
nhà ông đã trở thành nơi nương náu cho các Kitô hữu bị đánh hại.
Năm 286, ngọn lửa bách
hại bùng lên dữ dội. Phần đông các Kitô hữu trốn về miền quê. Thánh Sêbastianô
xin đức giáo hoàng cho phép ở lại Rôma để hướng dẫn và nâng đỡ những người còn
lại. Đức giáo hoàng đã trả lời ngay: - Hỡi con hãy ở lại chiến trường để giúp đỡ
các chiến sĩ và hãy tỏ ra là một chiến sĩ gan dạ bảo vệ đức tin.
Một kẻ bội giáo đã tố
giác Ngài với hoàng đế, giận dữ, Điôcletianô triệu vời Ngài tới ngay. Thánh
nhân vừa tới, hoàng đế nói liền: - Sêbastianô, ta đã quí mến ngươi, ta cho
ngươi ở trong hoàng cung và coi ngươi như người nhà mà bây giờ ngươi thù nghịch
với hoàng đế và các thần linh sao ?
Sêbastianô khiêm tốn
trả lời rằng: mình chỉ có thể phục vụ hoàng đế và tổ quốc khi thờ phượng một
Thiên Chúa chân thật và khinh bỏ các ngẫu tượng bằng gỗ đá. Tức giận, hoàng đế
truyền lập tức trói thánh nhân lại và bắn tên cho đến chết. Khi thân thể Ngài đầy
ngập thương tích, người ta tưởng Ngài đã chết và bỏ mặc tại chỗ. Ban đêm, một
góa phụ tên là Irênê đến lấy xác Ngài để mai táng. Nhưng thật lạ lùng khi thấy
Ngài còn sống. Bà liền đưa về nhà săn sóc cho đến khi thánh nhân bình phục hoàn
toàn.
Lúc ấy các Kitô hữu
khuyên Ngài nên tìm đường lẩn trốn. Nhưng sau khi cầu nguyện, Ngài quyết định đến
trước Điôcletianô tuyên xưng đức tin một lần nữa. Trước mặt hoàng đế, Ngài nói:
- Các thày cả thờ ngẫu thần làm cho nhà vua coi các Kitô hữu như là kẻ thù của
tổ quốc. Nhưng đó chỉ là vu khống. Trái lại phải coi như là người xây dựng tổ
quốc mới đúng, bởi vì họ không ngừng cầu nguyện cho tổ quốc được cứu rỗi và nên
phồn thịnh.
Ngạc nhiên không biết
có phải là Sêbastianô ông đã ra lệnh giết không, ông hỏi lại cho chắc. Khi đã
biết chắc, ông truyền đem thánh nhân ra pháp trường đánh đòn cho chết rồi vất
xác xuống rãnh. Một mệnh phụ tên là Lucina đã chôn cất Ngài vào một nghĩa địa ở
dưới hầm.
Từ đó nơi này được mệnh
danh là hang toại đạo thánh Sêbastianô và ngày nay cũng tại nơi này có xây một
đại thánh đường lấy tên là vương cung thánh đường thánh Sêbastianô .
(daminhvn.net)
20 Tháng Giêng
Chuyện Một Khu Rừng
Một câu chuyện có
thật đã được kể về nguồn gốc của một khu rừng như sau: Một ông lão người Pháp nọ,
sau khi vợ qua đời, đã mang đứa con trai duy nhất của ông đến một vùng đất khô
cằn nhất của Miền Trung nước Pháp để lập nghiệp. Thật ra, người đàn ông chỉ muốn
quên đi cái quá khứ khó khăn vất vả.
Vùng đất khô cằn
nơi ông đặt chân đến chỉ còn vỏn vẹn năm ngôi làng nhỏ với rất ít dân cư sống
trong những căn nhà siêu vẹo đổ nát, đa số đã bỏ lên những thành phố lớn để tìm
công ăn việc làm. Ông lão trên 60 tuổi đưa mắt nhìn khung cảnh xung quanh và đi
đến kết luận: nếu không có cây cối, chỉ trong vòng một thời gian ngắn, cả vùng
này sẽ trở thành sa mạc hoang tàn. Sau khi đã dọn chỗ cho đàn cừu và một số gia
súc khác, ông lão bắt đầu đi bộ dọc theo các lối đi và nhặt từng hạt dẻ. Ông chọn
những hạt dẻ tốt để riêng và ngâm vào nước. Khi mặt trời vừa lên, ông dùng một
thanh sắt nhọn moi những lỗ nhỏ và đặt cứ mỗi lỗ một hạt dẻ.
Ngày ngày như thế,
trong liên tiếp 3 năm, ông lão đã trồng được 100 ngàn cây dẻ con. Ông hy vọng rằng
ít nhất 10 ngàn cây còn sống sót. Ông cũng hy vọng rằng Chúa sẽ cho ông sống được
thêm vài năm nữa để làm cho xong công tác trồng cây này.
Ông qua đời năm
1947, hưởng thọ 89 tuổi. Từ những hạt dẻ ông đã cặm cụi moi từng lỗ bỏ vào, nay
nước Pháp đã có được một trong những khu rừng đẹp nhất thế giới. Trong ba khóm
rừng mỗi khóm dài 11 cây số, những cây dẻ xanh tươi cao lớn đã có mặt để giữ nước
mưa, làm cho cây cối xung quanh được xanh tươi và biến khu đồi khô cằn ngày xưa
thành những dòng suối róc rách. Chim chóc đã trở lại. Sự sống cũng chớm nở. Dân
chúng từ từ trở lại các ngôi làng cũ để xây nhà và làm lại cuộc đời.
Sự sống của thiên
nhiên thường giúp con người bớt cô đơn. Ðồng ruộng, cây cỏ xanh tươi, tiếng
chim ca hót thường khơi dậy niềm vui sướng trong lòng người. Ðó là lý do khiến
cho những người sống ở thôn dã dễ có tâm hồn thanh thản và lạc quan vui sống
hơn người thành thị.
Lớn lên ở thôn dã, chứng
kiến cảnh gieo trồng của người nông dân, Chúa Giêsu đã mượn những hình ảnh của
những sinh hoạt thôn dã ấy để nói về Nước Trời. Người gieo trồng nào cũng có niềm
tin và sự lạc quan. Gieo hạt giống vào lòng đất là đặt tất cả niềm tin tưởng
phó thác của mình vào thiên nhiên. Có hạt rơi xuống đất tốt, có hạt rơi bên vệ
đường, có hạt rơi trong bụi gai. Nhưng kết quả cuối cùng vẫn là vụ mùa tươi tốt.
Có những hạt rơi vào đất tốt, có những hạt rơi bên vệ đường, có những hạt rơi
vào bụi gai. Có những kết quả trông thấy, có những âm thầm đau khổ, có những
bách hại dữ dội, nhưng cuối cùng Giáo Hội của Ðức Kitô vẫn tồn tại và sinh ra
được nhiều hoa trái của niềm Hy Vọng.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét