02/02/2020
Chúa Nhật 4 Thường
Niên năm A.
DÂNG CHÚA GIÊSU TRONG
ĐỀN THỜ.
(phần I)
BÀI ĐỌC I: Ml 3, 1-4
“Đấng Thống Trị mà các ngươi
tìm kiếm, đến trong đền thánh Người”.
Trích sách Tiên tri Malakhi.
Này
đây Chúa là Thiên Chúa phán: “Đây Ta sai thiên thần Ta đi dọn đường trước mặt
Ta!” Lập tức Đấng Thống Trị mà các ngươi tìm kiếm, và thiên thần giao ước mà
các ngươi mong ước, đến trong đền thánh Người. Chúa các đạo binh phán: “Này đây
Người đến”. Ai có thể suy tưởng đến ngày Người đến, và có thể đứng vững để
trông nhìn Người? Vì Người sẽ như lửa thiêu đốt, như thuốc giặt của thợ giặt.
Người sẽ ngồi như thợ đúc và thợ lọc bạc, Người sẽ thanh tẩy con cái Lêvi, và
làm cho chúng nên sạch như vàng bạc. Chúng sẽ hiến dâng lễ tế cho Chúa trong
công bình. Lễ tế của Giuđa và Giêrusalem sẽ đẹp lòng Chúa, như ngày xưa và như
những năm trước. Đó là lời Chúa toàn năng phán. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 23, 7. 8. 9. 10
Đáp: Vua hiển vinh là ai vậy?
(c. 8a)
Xướng:
1)Các
cửa ơi, hãy ngẩng đầu lên; vươn mình lên, hỡi cửa ngàn thu! để Vua hiển vinh
Người ngự qua. – Đáp.
2)
Nhưng Vua hiển vinh là ai vậy? Đó là Chúa dũng lực hùng anh, đó là Chúa anh
hùng của chiến chinh. – Đáp.
3) Các
cửa ơi, hãy ngẩng đầu lên, vươn mình lên, hỡi cửa ngàn thu, để vua hiển vinh
Người ngự qua. – Đáp.
4)
Nhưng Vua hiển vinh là ai vậy? Đó là Chúa đạo thiên binh, chính Người là Hoàng
Đế hiển vinh. – Đáp.
BÀI ĐỌC II: Dt 2, 14-18
“Người phải nên giống anh em
Mình mọi đàng”.
Trích thư gửi tín hữu
Do-thái.
Vì các
con trẻ cùng chung thân phận máu thịt, chính Chúa Giêsu cũng giống như chúng,
cũng thông phần điều đó, để nhờ cái chết của Người mà Người huỷ diệt kẻ thống
trị sự chết là ma quỷ, và để giải thoát tất cả những kẻ sợ chết mà làm nô lệ suốt
đời. Vì chưng Người không đến cứu giúp các thiên thần, nhưng đến cứu giúp con
cái Abraham. Bởi thế, Người nên giống anh em Mình mọi đàng, ngõ hầu trong khi
phụng sự Chúa, Người trở thành đại giáo trưởng nhân lành và trung tín với Chúa,
để đền tội cho dân. Quả thật, bởi chính Người đã chịu khổ hình và chịu thử thách,
nên Người có thể cứu giúp những ai sống trong thử thách. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Lc 2,32
Alleluia, alleluia! – Ánh
sang đã chiếu soi muôn dân, và là vinh quang của Israel dân Chúa. –
Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 2, 22-32 hoặc 22-40
“Mắt tôi đã nhìn thấy ơn cứu độ”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Luca.
Khi ấy,
đủ ngày thanh tẩy theo luật Môsê, cha mẹ Chúa Giêsu liền đem Người lên
Giêrusalem để hiến dâng cho Chúa, như đã chép trong Lề luật Chúa rằng: “Mọi con
trai đầu lòng sẽ được gọi là người thánh thuộc về Chúa”. Và cũng để dâng lễ vật
cho Chúa, như có nói trong Luật Chúa, là một đôi chim gáy, hay một cặp bồ câu
con.
Và đây
ở Giêrusalem, có một người tên là Simêon, là người công chính, kính sợ Thiên
Chúa, và đang đợi chờ niềm ủi an của Israel. Thánh Thần cũng ở trong ông. Ông
đã được Thánh Thần trả lời rằng: Ông sẽ không chết, trước khi thấy Đấng Kitô của
Chúa. Được Thánh Thần thúc giục, ông vào đền thờ ngay lúc cha mẹ trẻ Giêsu đưa
Người đến để thi hành cho Người những tục lệ của Lề luật. Ông bồng Người trên
cánh tay mình, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:
“Lạy
Chúa, giờ đây, Chúa để cho tôi tớ Chúa ra đi bình an theo như lời Chúa đã phán:
vì chính mắt con đã nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt
muôn dân, là Ánh sáng chiếu soi các lương dân, và vinh quang của Israel dân
Chúa”.
Cha mẹ
Người đều kinh ngạc về những điều đã nói về Người. Simêon chúc lành cho hai ông
bà và nói với Maria mẹ Người rằng: “Đây trẻ này được đặt lên, khiến cho nhiều
người trong Israel phải sụp đổ hay được đứng dậy, và cũng để làm mục tiêu cho
người ta chống đối. Về phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà để tâm tư
nhiều tâm hồn được biểu lộ!”
Lúc ấy,
cũng có bà tiên tri Anna, con ông Phanuel, thuộc chi họ Asê, đã cao niên. Mãn
thời trinh nữ, bà đã sống với chồng được bảy năm, rồi thủ tiết cho đến nay đã
tám mươi tư tuổi. Bà không rời khỏi đền thờ, đêm ngày ăn chay cầu nguyện phụng
sự Chúa. Chính giờ ấy, bà cũng đến, bà liền chúc tụng Chúa, và nói về trẻ Giêsu
cho tất cả những người đang trông chờ ơn cứu chuộc Israel.
Khi
hai ông bà hoàn tất mọi điều theo Luật Chúa, thì trở lại xứ Galilêa, về thành
mình là Nadarét. Và con trẻ lớn lên, thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và ơn nghĩa
Thiên Chúa ở cùng Người. Đó là lời Chúa.
Suy
niệm : Lễ Dâng Chúa trong Đền thờ (Chúa nhật
02-02-2020)
Từ truyền thống xa xưa, ngày lễ được cử hành vào ngày 2-2 dương lịch được gọi là “Lễ Nến”, bởi trong thánh lễ có nghi thức làm phép Nến. Có một thời, người ta coi ngày lễ này là lễ kính Đức Maria, dựa trên trình thuật của Thánh Luca về việc Đức Maria mang lễ vật dâng vào đền thờ, để được thanh tẩy như luật định. Từ năm 1969 lễ này không còn thuần ý nghĩa lễ dành kính Đức Maria, nhưng được đổi thành lễ Dâng Chúa Giêsu trong Đền thờ, với mục đích quy hướng chúng ta về Chúa Giêsu, Đấng Thiên sai đã đến trần gian để cứu độ nhân loại
Khi gọi ngày lễ này là lễ “Dâng Chúa Giêsu vào Đền thờ”, phụng vụ muốn nhắc tới sự kiện Đức Mẹ và Thánh Giuse thực hiện điều được quy định trong luật Môi-sen. Đây là những quy định chúng ta có thể đọc thấy trong sách Xuất Hành, sách Lêvi và sách ngôn sứ Isaia (Xh 13,11-16; Lv 12,1-8; Is 88,14f;42,6). Nội dung những khoản Luật này nói về nghi thức dâng con đầu lòng cho Chúa vào thời điểm khoảng 40 ngày sau khi con trẻ được sinh ra. Nghi thức này vừa khẳng định những trẻ nam đầu lòng thuộc về Chúa, vừa là nghi thức thanh tẩy đối với người phụ nữ sau khi sinh. Bởi lẽ, theo quan niệm Do Thái xưa kia, sau khi sinh con, người phụ nữ trở thành “ô uế”.
Đức Mẹ và Thánh Giuse cũng làm theo luật đã ghi chép, tức là đem Hài Nhi Giêsu dâng cho Chúa. Theo Thánh Luca, nghi thức dâng Chúa Giêsu trong đền thờ Giêrusalem theo luật định lại trở nên cuộc gặp gỡ kỳ diệu: Hai người đạo đức là Ông già Simêon và Bà Anna được hạnh phúc bồng bế hài nhi Giêsu trên tay mình. Họ là những người từ nhiều năm hằng trông đợi Đấng Cứu Thế mà Thiên Chúa đã hứa. Qua cuộc gặp gỡ này họ đã nhận ra hài nhi Giêsu là “ánh sáng cho mọi dân tộc” (Lc 2,22-40). Phụng vụ Kitô giáo diễn tả nghi lễ này như một cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu với Dân của Người. Lần đầu tiên, Chúa Giêsu hiện diện trong Đền thờ, là trung tâm của Do Thái giáo, biểu tượng cho sự hiện diện của Thiên Chúa giữa Dân Ngài. Việc Chúa đến mở ra một giai đoạn mới trong chương trình cứu độ. Ngài sẽ trở nên ánh sáng muôn dân và thánh hóa con người. Người cũng làm cho những hy lễ dâng tôn thờ Thiên Chúa Cha mang một ý nghĩa mới. Đây cũng là điều chúng ta đọc trong Bài đọc I, trích sách ngôn sứ Isaia. Vị ngôn sứ đã thông báo: “Này đây Người đến. Khi Người đến, Người sẽ thanh tẩy con cái Lêvi và làm cho chúng thanh sạch như vàng bạc. Chúng sẽ hiến dâng lễ tế cho Chúa trong công bình”. Chúa Giêsu xuất hiện trong Đền thờ để thân thưa với Chúa Cha: “Này con đến để thực thi ý Chúa”. Sau này, Người còn đến Đền thờ nhiều lần, không phải để thi hành công việc tế tự, nhưng để thanh tẩy Đền thờ. Trong giáo huấn của Người, Chúa cũng kịch liệt lên án một thứ phụng tự chuộng hình thức, xa rời tình yêu và thiếu vắng thương xót, để kêu gọi mọi người hãy tôn thờ Chúa trong tinh thần và Chân lý.
Qua nghi lễ dâng Hài Nhi Giêsu dâng trong Đền thờ, Đức Maria và Thánh Giuse đã chu toàn những điều Luật dạy. Phụng vụ Kitô giáo cũng nhìn thấy ở đây sự hạ mình của Con Thiên Chúa. Đức Giêsu mang lấy thân phận con người và sống như chúng ta ngoại trừ tội lỗi. Tác giả thư Do Thái khẳng định: Chúa Giêsu trở nên giống như anh em mình mọi đàng, nhờ đó, Người trở thành vị Đại Giáo trưởng nhân lành và trung tín với Chúa. Vì là người như chúng ta, Đức Giêsu cảm thông với chúng ta, chia sẻ những tâm tư của phận người, nâng đỡ những ai chịu thử thách và đem cho họ ơn niềm vui ơn cứu độ (Bài đọc II).
“Ánh sáng chiếu soi các lương dân, và vinh quang của Israen Dân Chúa”. Đó là lời ca tụng của cụ già Simêôn. Lời ca tụng này diễn tả chủ đề chính yếu của Phụng vụ hôm nay. Chủ đề “Ánh Sáng” được nhấn mạnh trong phụng vụ lễ Giáng Sinh, Lễ Hiển Linh và Lễ Chúa Giêsu chịu phép Rửa. Ngày hôm nay, một lần nữa, chủ đề này lại được nhắc tới. Chúa Giêsu là ánh sáng trần gian. Người đến để chiếu soi đêm tối nơi lòng người. Đó là đêm tối của hận thù, chia rẽ, tội lỗi và sự chết. Tác giả Tin Mừng thứ bốn giới thiệu với chúng ta: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người” (Ga 1,9). Chính Chúa Giêsu khẳng định: “Chính tôi là ánh sáng cho trần gian, ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống.” (Ga 8,12). Người đã chữa cho người mù từ khi mới sinh, không chỉ con mắt thể lý, mà còn con mắt tâm hồn. Nhờ đó anh trở nên sáng mắt và sáng suốt nhận ra Người là Đấng Thiên sai và Đấng Cứu độ trần gian.
Năm 1997, thánh Gioan Phaolô II Giáo Hoàng đã thiết lập lễ Dâng Chúa Giêsu trong Đền thờ là ngày Quốc tế của đời sống thánh hiến, với ước nguyện những ai dấn thân sống đời tu trì trở nên giống Chúa Giêsu và trở thành ánh sáng cho trần gian.
Trở nên ánh sáng là ơn gọi của các Kitô hữu, như Chúa đã nói. Tuy vậy, những người sống đời thánh hiến lại tình nguyện sống triệt để lời gọi này qua việc khấn giữ ba nhân đức Phúc âm, đó là Khó nghèo, Khiết tịnh và Vâng lời. Đức Thánh Cha Phanxicô mong ước, ở đâu có tu sĩ, ở đó có niềm vui. Ngài cũng khích lệ các tu sĩ nam nữ: anh chị em hãy đánh thức thế giới bằng đời sống thánh thiện và hy sinh của mình. Chúng ta hãy cầu nguyện cho những ai sống đời sống thánh hiến, biết tỏa sáng xung quanh bằng sự thánh thiện đơn sơ, với lòng yêu mến chân thành và nhiệt huyết tông đồ. Chúa Giêsu đã dạy: “Anh em là ánh sáng thế gian...Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ nhìn thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
Một câu chuyện do chính Mẹ Têrêxa kể lại: một ngày kia tại Melbourne, Úc, Mẹ đến thăm viếng một người đàn ông nghèo nàn không được một ai quan tâm đến. Ông ta sinh sống dưới tầng hầm, trong một căn phòng dơ dáy, hôi tanh, không có ánh sáng. Mẹ bắt đầu bằng việc thu dọn và sắp xếp lại căn phòng. Ban đầu, ông ta cự tuyệt:
-“Bà cứ để mọi sự như cũ. Tôi quen như vậy rồi”.
Dù thế, Mẹ vẫn cứ xúc tiến công việc dọn dẹp và gợi chuyện để nói với ông. Tình cờ, dưới một đống rác, Mẹ phát hiện ra một cây đèn dầu phủ đầy bụi bặm. Mẹ lấy cây đèn ra lau chùi, và nhận thấy nó khá đẹp. Mẹ nói với ông ta:
-“Ở đây, ông có một cây đèn rất đẹp. Sao ông không bao giờ thắp sáng nó lên vậy?”.
Người đàn ông này đáp:
-“Tôi không bao giờ thắp sáng cây đèn đó vì có ai đến thăm tôi đâu!”
Hai trong số các nữ tu của Mẹ Têrêxa bắt đầu thường xuyên đến thăm ông. Mọi sự dần dần được cải thiện đối với ông ta. Mỗi lần các nữ tu đến thăm, thì ông ta đều thắp đèn lên. Thế rồi một ngày kia, ông nói với các nữ tu:
-“Thưa các Sơ, kể từ nay, tôi có thể tự xoay sở được rồi. Xin nói dùm với người nữ tu đầu tiên đến thăm tôi rằng, ánh sáng mà bà đã thắp lên trong cuộc đời tôi hiện vẫn còn đang cháy sáng”.
Cây đèn bên ngoài đã được thắp lên, vì ngọn đèn trong tim ông đã sáng lên. Ánh sáng đó được truyền qua nhờ lòng nhân ái của Mẹ Têrêxa và các nữ tu của Mẹ.
Lạy Chúa Giêsu là Ánh Sáng trần gian, xin cho chúng con tiếp nhận từ nơi Chúa ánh sáng thiêng liêng, để chúng con biết đường đi đến Chân Lý, đồng thời trở nên ánh sáng cho những người xung quanh. Amen.
+TGM Giuse Vũ Văn Thiên
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Dâng Con Trong Đền Thờ (Ngày 2 tháng 2)
Bài đọc: Mal 3:1-4; Heb 2:14-18; Lk 2:22-32.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chúa Giêsu vào Đền Thờ để gặp gỡ
dân Người.
Đền Thờ
là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa giữa con người: bắt đầu với Lều Hội Ngộ
khi con cái Israel vẫn còn lang thang suốt 40 năm trường trong sa mạc; sau khi ổn
định trong Đất Hứa, vua Solomon đã xây dựng một Đền Thờ và di chuyển Hòm Bia
vào nơi Cực Thánh, để con người đến cầu nguyện và dâng lễ hy sinh đền tội; khi
Đền Thờ Jerusalem bị phá hủy toàn bộ vào năm 70 AD, sự hiện diện của Thiên Chúa
không chỉ còn giới hạn tại Jerusalem, nhưng lan tràn mọi nơi, bất cứ nơi nào có
nhà thờ, nơi đó có Chúa Giêsu hiện diện với con người cho đến Ngày Tận Thế.
Các
bài đọc hôm nay muốn nhấn mạnh đến sự hiện diện của Thiên Chúa trong Đền Thờ để
gặp gỡ dân Ngài. Trong bài đọc I, tiên-tri được coi như cuối cùng của Cựu Ước,
Malachi, nhìn thấy trước ngày Thiên Chúa thân hành hiện đến thăm viếng dân Người
để thanh tẩy họ khỏi mọi tội lỗi; một sứ giả sẽ đi trước chuẩn bị đường cho
Ngài. Trong bài đọc II, tác giả Thư Do-thái mô tả cách thức hiện diện của Thiên
Chúa: Ngài sẽ mặc lấy xác phàm của con người để ở với con người, để con người
có thể trông thấy Ngài bằng xương thịt. Ngài sẽ trải qua tất cả những đau khổ của
kiếp người để cảm thông, để trợ giúp, và để xóa sạch tất cả tội lỗi của con người.
Trong Phúc Âm Lucas, cụ già Simeon là người đầu tiên được xem thấy Chúa khi cha
mẹ mang Ngài đến để gặp gỡ dân Người. Simeon sẵn sàng nhắm mắt ra đi, vì ông đã
được nhìn thấy ơn cứu độ bằng xương thịt như lời các tiên tri loan báo.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Kìa, vị sứ giả của giao ước mà
các ngươi đợi trông đang đến.
Sách
tiên-tri Malachi được viết sau Thời Lưu Đày, khoảng 515 BC. Cũng như nhiều các
tiên-tri khác, tiên-tri Malachi tin triều đại của Đấng Thiên Sai đã gần đến:
“Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta. Và bỗng nhiên Chúa
Thượng mà các ngươi tìm kiếm, đi vào Thánh Điện của Người. Kìa, vị sứ
giả của giao ước mà các ngươi đợi trông đang đến, Đức Chúa các đạo
binh phán.” Theo lời tiên-tri Malachi, một Sứ-giả sẽ đến trước để dọn đường trước
khi Đấng Thiên Sai tới; và khi đã dọn đường xong, Đấng Thiên Sai sẽ đến bất cứ
lúc nào.
1.1/ Vai
trò của Sứ-giả:
Truyền thống Do-thái tin Ngày Đấng Thiên Sai tới sẽ là ngày kinh hoàng của kẻ dữ,
nhưng sẽ mang hy vọng cho những người Israel còn sót. Tiên-tri Malachi nói về
Ngày này như sau: “Ai chịu nổi ngày Người đến? Ai đứng được khi Người xuất hiện?
Quả thật, Người như lửa của thợ luyện kim, như thuốc tẩy của thợ giặt. Người sẽ
ngồi để luyện kim tẩy bạc; Người sẽ thanh tẩy con cái Lêvi và tinh luyện chúng
như vàng, như bạc.”
Hai
nhiệm vụ chính của Sứ-giả dọn đường cho Đấng Thiên Sai là thanh tẩy và tinh luyện
tâm hồn dân chúng để họ sẵn sàng cho Ngày của Thiên Chúa. Hai chất liệu được
dùng là lửa của người luyện kim và thuốc tẩy của người thợ giặt. Lửa được dùng
để thử cho biết vàng nào là vàng thực và tinh luyện nó khỏi mọi vết dơ bẩn. Thuốc
tẩy được dùng để tẩy sạch những vết dơ bám vào trong quần áo. Điều Sứ-giả cần
thanh tẩy và tinh luyện chính là tâm hồn con người, sao cho xứng đáng để có thể
đứng vững trong Ngày của Đức Chúa.
Tiên-tri
Malachi lên án những lỗi lầm của hàng tư tế vì họ lười biếng và khinh thường
Thiên Chúa trong việc thờ phượng. Đó là lý do tại sao Thiên Chúa không nhận lễ
vật của họ, Ngài sẽ chọn lễ vật trong sạch hơn (Mal 1:1-2:17). Vì thế, đối tượng
chính mà tác giả nhắm tới là hàng tư tế Levi và tâm hồn của họ: “Bấy giờ, đối với
Đức Chúa, chúng sẽ là những kẻ đến dâng lễ vật, theo lẽ công chính. Lễ vật của
Judah và của Jerusalem sẽ làm đẹp lòng Đức Chúa như những ngày xa xưa, như những
năm thuở trước.”
1.2/
Tiên-tri Elijah là Sứ-giả dọn đường cho Đấng Cứu Thế: “Này Ta sai ngôn-sứ Elijah đến
với các ngươi, trước khi Ngày của Đức Chúa đến, Ngày trọng đại và kinh hoàng.
Nó sẽ đưa tâm hồn cha ông trở lại với con cháu và đưa tâm hồn con cháu trở lại
với cha ông, kẻo khi Ta đến, Ta sẽ đánh phạt xứ sở đã bị án tru diệt.”
Song
song bổn phận của con người đối với Thiên Chúa là bổn phận của con người đối với
tha nhân; nhất là những người trong gia đình. Một khi mối liên hệ chiều dọc với
Thiên Chúa bị lơ là thì mối liên hệ chiều ngang với tha nhân cũng bị thiệt hại.
Sứ-giả dọn đường cho Thiên Chúa cũng phải chú trọng đến sứ vụ hòa giải giữa con
người với con người, trong gia đình cũng như ngòai xã hội.
2/ Bài đọc II: Người đã phải nên giống anh em
mình về mọi phương diện.
Khi
Kitô Giáo lan tràn vào thế giới La-Hy, hai vấn nạn khó khăn Giáo Hội phải đương
đầu với là phải giải thích cho người Hy-lạp biết:
(1) Tại
sao Thiên Chúa phải nhập thể: Đối với người Hy-lạp, Thiên Chúa hòan tòan là Thần
Khí, nơi Ngài không có một chút vật chất nào cả. Để được giải thóat và kết hợp
với Thiên Chúa, con người phải cố gắng làm sao để thóat khỏi ngục tù thân xác
đang giam hãm linh hồn con người, để chỉ còn thần khí mà thôi. Kitô Giáo đi ngược
lại, Con Thiên Chúa phải nhập thể để cứu chuộc con người!
(2) Tại
sao Thiên Chúa phải chịu đau khổ: Người Hy-lạp và người Do-thái không tin Thiên
Chúa phải chịu đau khổ; chỉ có con người mới phải chịu đau khổ mà thôi. Một
Thiên Chúa phải chịu đau khổ không còn là Thiên Chúa nữa. Họ lý luận: Nếu Thiên
Chúa không có uy quyền để vượt thóat đau khổ, làm sao Ngài có thể giúp người
khác vượt qua đau khổ được? Kitô Giáo cũng đi ngược lại, không thể có Ơn Cứu Độ
nếu con Thiên Chúa không chịu chết trên Thập Giá!
Tác giả
Thư Do-thái cố gắng trả lời hai vấn nạn này như sau:
2.1/ Chúa
Giêsu phải nhập thể để mang lấy thân phận con người: Để có thể tiêu diệt tội lỗi và
sự chết, Chúa Giêsu phải mang lấy thân xác con người để có thể chịu chết và đền
tội cho con người. Nếu không có thân xác, làm sao chết? “Vì con cái thì đều
chung một huyết nhục, nên Đức Giêsu đã cùng mang lấy huyết nhục đó. Như vậy, nhờ
cái chết của Người, Người đã tiêu diệt tên lãnh chúa gây ra sự chết, tức là ma
quỷ, và đã giải thoát những ai vì sợ chết mà suốt đời sống trong tình trạng nô
lệ. Vì những kẻ được Người giúp đỡ không phải là các thiên thần, mà là con cháu
Abraham.” Dĩ nhiên, Chúa Giêsu không chết muôn đời; Ngài đã sống lại vinh
quang, và trở nên hoa quả đầu tiên của những người từ trong cõi chết sống lại.
Ngài là “người tiên phong” đi mở đường, để tất cả các anh em của Ngài cũng được
đi con đường đó.
2.2/ Chúa
Giêsu phải trở nên con người về mọi phương diện: Tác giả Thư Do-thái nhận ra sự cần thiết của
việc Chúa Giêsu phải trở nên con người về mọi phương diện, ngọai trừ tội lỗi:
“Bởi thế, Người đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện, để trở thành
một vị Thượng Tế nhân từ và trung tín trong việc thờ phượng Thiên Chúa, hầu đền
tội cho dân.” Mục đích của việc “hòan toàn trở nên con người” là để:
(1)
Ngài có thể thực sự được coi là một con người: Đã là con người, ai cũng phải chịu
đựng đau khổ và ngang qua cái chết.
(2)
Ngài có thể thông cảm và đồng cảm với thân phận con người: Nếu một người không
ngang qua những kinh nghiệm đau khổ và sự chết, người đó sẽ không thể hòan tòan
hiểu và thông cảm những ai bị ở trong hòan cảnh đó.
(3)
Ngòai ra, Ngài có thể giúp đỡ một cách hiệu quả cho những ai ở trong hòan cảnh
đó: “Vì bản thân Người đã trải qua thử thách và đau khổ, nên Người có thể cứu
giúp những ai bị thử thách.”
Nói
tóm, Thiên Chúa có uy quyền trên cả sự sống và sự chết. Ngài có thể cho Con của
Ngài nhập thể, chịu đau khổ, ngang qua sự chết, và phục sinh vinh hiển. Chẳng
có gì là không thể đối với Thiên Chúa; chúng ta đừng áp dụng cách thức suy nghĩ
của con người cho Thiên Chúa.
3/ Phúc Âm: Các mẫu gương của những người sống
theo đường lối của Thiên Chúa.
3.1/ Gia
Đình Thánh tuân giữ Lề Luật của Thiên Chúa: Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật
Moses, bà Maria và ông Giuse đem con lên Jerusalem, để tiến dâng cho Chúa, như
đã chép trong Luật Chúa rằng: "Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của
thánh, dành cho Chúa," và cũng để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là một
đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non.
3.2/ Ông
Simeon tin vào Lời Thiên Chúa hứa và sự thúc đẩy của Thánh Thần.
(1)
Ông Simeon là người công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của
Israel, và Thánh Thần hằng ngự trên ông. Ông đã được Thánh Thần linh báo cho biết
là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Kitô của Đức Chúa. Được
Thánh Thần thúc đẩy, ông lên Đền Thờ.
(2)
Lúc cha mẹ Hài Nhi Giêsu đem con tới, ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng
Thiên Chúa rằng: "Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi
tớ này được an bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn
cho muôn dân: Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Israel
Dân Ngài."
3.3/ Ông
Simeon nói tiên tri:
(1) Về
con trẻ: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel ngã
xuống hay đứng dậy. Cháu còn là mục tiêu cho người đời chống đối; và như vậy,
những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra.” Nhiều người bị ngã xuống hay được
đứng dậy là hòan tòan tùy thuộc vào phản ứng của họ đối với Đức Kitô. Trong cuộc
đời của Chúa, người bị ngã xuống là phần đông là các Kinh-sư và Biệt-phái, vì họ
từ chối không tin và luôn tìm cách bắt bẻ và tiêu diệt Ngài. Những người được đứng
dậy là các người thu thuế, gái điếm, và dân ngọai; tuy bị coi là tội lỗi, nhưng
khi được Chúa tỏ lòng thương xót, họ đã ăn năn và tin vào Ngài.
(2) Về
Mẹ Maria: “Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà." Cuộc đời của
Chúa Giêsu là cuộc đời của Mẹ; đau khổ của Con là của Mẹ. Mẹ Maria đã đồng hành
với con từ lúc sinh ra trong máng cỏ cho tới lúc sinh thì tên Thập Giá.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Nhà
thờ là nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa để bàn chuyện, để được hướng dẫn, và để
lãnh nhận những ơn thánh cần thiết cho cuộc sống con người.
-
Chúng ta cần phải chuẩn bị tâm hồn mỗi khi đến nhà thờ để gặp gỡ Thiên Chúa. Nếu
chúng ta đến nhà thờ với một tâm hồn khô khan, vội vã và bất kính, chúng ta sẽ
không thể gặp gỡ Thiên Chúa và lãnh nhận những hồng ân của Ngài.
Lm.Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
02/02/2020 – CHÚA NHẬT TUẦN 4 TN – A
Dâng Chúa Giê-su trong đền thánh
Lc 2,22-40
ĐƯỢC ÂN NGHĨA CÙNG CHÚA
Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và
hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa. (Lc 2,40)
Suy niệm: Hài Nhi Giê-su được thánh
Giu-se và Mẹ Ma-ri-a dâng hiến cho Thiên Chúa trong đền thánh không chỉ là một
việc làm chiếu theo luật Mô-sê: “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của
thánh dành cho Chúa” (Lc 2,23). Là Con Thiên Chúa, Đức Giê-su luôn hiệp nhất với
Chúa Cha. Giờ đây, bản tính nhân loại nơi Ngài được thánh hiến để thuộc trọn về
Chúa và nhờ đó “ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan và được ân
nghĩa cùng Thiên Chúa.” Hẳn nhiên trong thân phận con người, Hài Nhi Giê-su
cũng gặp nhiều khó khăn thách đố trong cuộc sống; nhưng chính nhờ “trải qua nhiều
đau khổ” Ngài đã “học biết thế nào là vâng phục” (Dt 5,8) để trưởng thành tới mức
thập toàn và sẵn sàng thực hiện kế hoạch cứu độ con người.
Mời Bạn: Chúa Giê-su được dâng hiến
trong đền thánh trở nên mẫu mực cho bạn để “hướng tới sự trưởng thành toàn diện”
(Chủ đề mục vụ năm 2020). Khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, bạn cũng được thánh
hiến cho Thiên Chúa và được thông phần chức vụ ngôn sứ, tư tế và vương đế của
Chúa Ki-tô. Đó chính là ơn gọi nên thánh của mọi ki-tô hữu, dù là tu sĩ hay
giáo dân, qua việc sống chứng nhân cho Chúa trong bậc sống và việc bổn phận hằng
ngày của mình.
Sống Lời Chúa: Mỗi ngày ý thức phục vụ
trong yêu thương để cảm nghiệm được niềm vui trong ơn gọi nên thánh của mình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con biết
dâng hiến trong vui tươi, hạnh phúc và bình an để dần trưởng thành và nên giống
Chúa, được vững mạnh, khôn ngoan và đầy ân sủng của Chúa. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
Ánh sáng và
vinh quang (2.2.2020 – Chúa Nhật, Dâng Chúa Giêsu trong Đền Thánh)
Suy niệm:
“Thứ bốn
thì ngắm, Đức Bà dâng Chúa Giêsu trong đền thánh,
ta hãy xin cho được vâng lời chịu lụy.”
Đức Mẹ đã muốn giữ Luật Chúa một cách nghiêm chỉnh.
Luật trong sách Lêvi (12, 2-8) đòi buộc người mẹ 40 ngày sau khi sinh con trai
phải lên đền thờ để được thanh tẩy và phải dâng lễ vật nữa.
Nếu không đủ khả năng dâng một con chiên và một bồ câu non
thì phải dâng một cặp bồ câu non hay một đôi chim gáy.
Ngày nay chúng ta không thể hiểu tại sao Đức Mẹ phải dâng lễ tạ tội
và phải được thanh tẩy sau khi sinh Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa.
Tại sao việc sinh nở lại bị coi là ô uế?
Dù sao Mẹ Đấng Cứu Thế đã vâng theo Luật dạy.
ta hãy xin cho được vâng lời chịu lụy.”
Đức Mẹ đã muốn giữ Luật Chúa một cách nghiêm chỉnh.
Luật trong sách Lêvi (12, 2-8) đòi buộc người mẹ 40 ngày sau khi sinh con trai
phải lên đền thờ để được thanh tẩy và phải dâng lễ vật nữa.
Nếu không đủ khả năng dâng một con chiên và một bồ câu non
thì phải dâng một cặp bồ câu non hay một đôi chim gáy.
Ngày nay chúng ta không thể hiểu tại sao Đức Mẹ phải dâng lễ tạ tội
và phải được thanh tẩy sau khi sinh Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa.
Tại sao việc sinh nở lại bị coi là ô uế?
Dù sao Mẹ Đấng Cứu Thế đã vâng theo Luật dạy.
Hơn nữa,
cùng với thánh Giuse, Mẹ đã dâng Con cho Chúa trong đền thờ.
Điều này Luật không buộc, nhưng Mẹ đã làm vì lòng sốt sắng.
Thật ra để chuộc lại con trai đầu lòng,
chỉ cần trả cho tư tế gần 60 gam bạc (Ds 18, 15-16).
Mẹ sung sướng đem Con lên đền thờ dâng cho Thiên Chúa
vì hơn ai hết Mẹ biết rằng Hài Nhi Giêsu này là quà tặng Chúa ban cho mình.
Dâng Con là nhìn nhận Con mình mãi mãi thuộc trọn về Chúa,
ở với Chúa và làm việc cho Chúa suốt đời,
dù mình đã chuộc Con về bằng một số bạc được ấn định theo Luật dạy.
Bài Tin Mừng hôm nay có 4 lần nói đến “Luật” (cc.23.24.27.39).
Về việc giữ Luật, Đức Maria đã không đòi một ngoại lệ hay đặc ân nào.
Điều này Luật không buộc, nhưng Mẹ đã làm vì lòng sốt sắng.
Thật ra để chuộc lại con trai đầu lòng,
chỉ cần trả cho tư tế gần 60 gam bạc (Ds 18, 15-16).
Mẹ sung sướng đem Con lên đền thờ dâng cho Thiên Chúa
vì hơn ai hết Mẹ biết rằng Hài Nhi Giêsu này là quà tặng Chúa ban cho mình.
Dâng Con là nhìn nhận Con mình mãi mãi thuộc trọn về Chúa,
ở với Chúa và làm việc cho Chúa suốt đời,
dù mình đã chuộc Con về bằng một số bạc được ấn định theo Luật dạy.
Bài Tin Mừng hôm nay có 4 lần nói đến “Luật” (cc.23.24.27.39).
Về việc giữ Luật, Đức Maria đã không đòi một ngoại lệ hay đặc ân nào.
Hãy
nhìn ngắm Thánh Gia lên đền thờ.
Một đôi vợ chồng nghèo bồng một đứa con còn rất nhỏ.
Ai có thể nhận ra đứa bé này là Đấng Kitô, là ơn cứu độ cho muôn dân?
Đó là cụ Simêon, một người đạo hạnh, luôn mong chờ điều Chúa hứa.
Hơn nữa cụ là người có Thánh Thần hằng ngự trên (c.25),
người được Thánh Thần linh báo (c. 26), và thúc đẩy lên đền thờ (c. 27).
Chính Thánh Thần làm cụ nhận ra điều mắt thường không thấy,
Và cụ sung sướng, mãn nguyện bồng Hài Nhi trên tay.
Cụ bà ngôn sứ Anna cũng nhận ra Đấng Cứu chuộc đến với mình.
Cụ là người đạo đức, ăn chay cầu nguyện, đêm ngày thờ phượng Thiên Chúa.
Cụ bà Anna đã công khai giới thiệu Hài Nhi cho những người chung quanh.
Một đôi vợ chồng nghèo bồng một đứa con còn rất nhỏ.
Ai có thể nhận ra đứa bé này là Đấng Kitô, là ơn cứu độ cho muôn dân?
Đó là cụ Simêon, một người đạo hạnh, luôn mong chờ điều Chúa hứa.
Hơn nữa cụ là người có Thánh Thần hằng ngự trên (c.25),
người được Thánh Thần linh báo (c. 26), và thúc đẩy lên đền thờ (c. 27).
Chính Thánh Thần làm cụ nhận ra điều mắt thường không thấy,
Và cụ sung sướng, mãn nguyện bồng Hài Nhi trên tay.
Cụ bà ngôn sứ Anna cũng nhận ra Đấng Cứu chuộc đến với mình.
Cụ là người đạo đức, ăn chay cầu nguyện, đêm ngày thờ phượng Thiên Chúa.
Cụ bà Anna đã công khai giới thiệu Hài Nhi cho những người chung quanh.
Để gặp
được Chúa trong đời thường, chúng ta cần có lòng mong ngóng,
cần sống đời sống đẹp lòng Chúa và cần được Thánh Thần mách bảo.
cần sống đời sống đẹp lòng Chúa và cần được Thánh Thần mách bảo.
Cầu nguyện:
Lạy
Chúa,
xin nhận lấy trọn cả tự do, trí nhớ, trí hiểu,
và trọn cả ý muốn của con,
cùng hết thảy những gì con có,
và những gì thuộc về con.
xin nhận lấy trọn cả tự do, trí nhớ, trí hiểu,
và trọn cả ý muốn của con,
cùng hết thảy những gì con có,
và những gì thuộc về con.
Mọi
sự ấy, Chúa đã ban cho con,
lạy Chúa, nay con xin dâng lại cho Chúa.
lạy Chúa, nay con xin dâng lại cho Chúa.
Tất
cả là của Chúa,
xin Chúa sử dụng hoàn toàn theo ý Chúa.
xin Chúa sử dụng hoàn toàn theo ý Chúa.
Chỉ
xin ban cho con lòng mến Chúa và ân sủng.
Ðược như thế, con hoàn toàn mãn nguyện. Amen.
Ðược như thế, con hoàn toàn mãn nguyện. Amen.
(Kinh
dâng hiến của thánh I-Nhã)
Lm.
Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
2 THÁNG HAI
Uy Quyền
Ẩn Giấu Trong Cái Đơn Sơ
Thiên
Chúa, Đấng Tạo Thành của muôn loài, Đấng toàn năng của trời và đất, Đấng là Vua
Vinh Hiển, đã đến trong hình hài một đứa bé nhỏ nhoi. Biến cố Thiên Chúa vào đền
thờ của dân Ngài được bao phủ trong mầu nhiệm của sự yếu đuối và bất lực. Tuy
nhiên, uy quyền của Ngài ẩn giấu trong vẻ đơn sơ và yếu đuối ấy của một em bé.
Tất cả
biến cố này là một mầu nhiệm. Rất tình cờ, ngay chính giữa mầu nhiệm này, một
tiếng nói đã cất lên. Đó là ông già Si-mê-on. Thánh sử Luca cho biết Thánh Thần
hằng ngự trên ông già này (cf. Lc 2, 25).
Nghĩa
là, Si-mê-on đã lên tiếng trong tư cách một nhà tiên tri. Lời ông nói khiến người
ta sửng sốt. Ông chúc tụng Thiên Chúa: “Muôn lạy Chúa, giờ đây, theo lời Ngài
đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu
độ mà Chúa đđành sẵn cho muôn dân: Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là
vinh quang của It-ra-en dân Ngài” (Lc 2, 29 – 32).
Kỳ lạ
biết bao khi đó là những lời nói về một em bé. Nhưng sấm ngôn của Si-mê-on hoàn
toàn chân thực. Và lời thánh vịnh xưa đã được ứng nghiệm. Đấng vào đền thờ
Giê-ru-sa-lem hôm nay đây chính là ánh sáng và là ơn cứu độ của toàn thế giới.
Ngài đã mang ánh sáng và ơn cứu độ đến trong cung cách như thế đấy. Ngài chính
là Vua Vinh Hiển.
Nhưng,
vị vua vinh hiển này sẽ thiết lập triều đại vinh quang của Ngài trên trái đất bằng
cách nào đây? Bằng cách nào đây, em bé Giê-su sinh hạ ở Bê-lem ấy sẽ trở thành
ánh sáng và ơn cứu độ của trần gian? Ông già Si-mê-on đã trả lời cho những vấn
nạn trên khi ông tiên báo: “Cháu bé này sẽ là dấu hiệu cho người đời chống
báng” (Lc 2, 34).
Những
lời ấy bộc lộ toàn bộ con đường cứu độ của Đức Kitô từ khi chào đời cho đến lúc
chết trên thập giá. Người là ánh sáng của các dân tộc; nhưng Người cũng là một
dấu chống đối của mọi thời đại, một dấu khơi lên sự thù địch, sự mâu thuẫn.
Các
ngôn sứ của It-ra-en ngày xưa, trước Người, cũng đã từng như thế. Đó là số phận
của Gio-an Tẩy Giả, và cũng sẽ là số phận của bất cứ ai nối gót theo Người.
Giê-su đã thực hiện biết bao dấu lạ lớn lao. Người chữa lành các bệnh nhân, Người
hóa bánh và cá ra nhiều để phân phối cho đám đông dân chúng, Người truyền cho
giông tố im lặng, và thậm chí Người cho kẻ chết được sống lại.
Đám
đông tuôn đến với Đức Giêsu từ khắp mọi nơi, họ lắng nghe Người vì Người giảng
dạy với uy quyền. Thế nhưng, Người gặp phải sự chống đối kịch liệt của những kẻ
không chịu mở lòng trí ra để đón nhận Người.
Rốt cục,
sự chống đối của người ta leo lên đến tột đỉnh trong cuộc khổ nạn và cái chết
thập giá của Đức Giêsu. Sấm ngôn ngày ấy của ông già Si-mê-on hoàn toàn ứng
nghiệm.
Sấm
ngôn ấy ứng nghiệm cho cuộc đời của Đức Giêsu – và ứng nghiệm cho cuộc đời của các
môn đệ Người mọi nơi và mọi thời.
– suy tư 366 ngày của Đức
Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope
John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 02/2
CHÚA NHẬT IV Thường Niên.
DÂNG CHÚA GIÊSU VÀO ĐỀN
THÁNH
(LỄ NẾN).
Ml 3,1-4; Dt 2:14-18; Lc
2,22-40
Lời Suy Niệm: “Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Môsê, bà Maria và
ông Giuse đem con lên Giêrusalem để tiến dâng cho Chúa.”
Việc dâng Chúa Giêsu vào Đền Thờ cho thấy Người có tư cách là “Con Đầu Lòng”
thuộc về Thiên Chúa như sở hữu riêng cả Ngài. Cùng với ông Simêon và bà Anna,
toàn thể dân Ítraen đến gặp gỡ Đấng Cứu Độ mà họ trông chờ (theo truyền thống
Byzantin gọi biến cố này như vậy). Chúa Giêsu được nhìn nhận là Đấng Messia được
mong đợi đã lâu, là “ánh sáng muôn dân”, là “vinh quang của Ítraen”, nhưng cũng
là “dấu hiệu cho người đời chống báng”. Lưỡi gươm của đau khổ được tiên báo cho
Đức Maria, loan báo một dâng hiến khác, hoàn hảo và duy nhất trên thập giá, việc
dâng hiến này sẽ mang lại ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã dành sẵn cho muôn dân.”
(GL số 529)
Lạy Chúa Giêsu. Hôm nay trên tay chúng con đều đang cầm một cây nến được thắp
sáng, nhắc nhở cho chúng con ngày chúng con lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội. Xin cho
tất cả đều biết giữ mình trong sáng, để dâng hiến đời mình cho Chúa.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 02-02
ĐỨC MẸ DÂNG CHÚA
GIÊSU trong Đền Thánh
Kể từ
cuối thế kỷ IV, Giáo hội Gierusalem đã mừng kính lễ này, hướng tới việc dâng
Chúa Giêsu vào đền thánh và việc thanh tẩy Đức Trinh Nữ. Giáo hội Hy Lạp và
Milanô kể lễ này vào một số lễ trọng kính Chúa, một nghi lễ chính trong năm.
Giáo hội Roma lại thường kể lễ này vào số các lễ Đức Trinh Nữ.
Trong
thông điệp về lòng tôn sùng Đức Trinh Nữ Maria. Đức Phaolô VI viết: “Lễ mùng 2
tháng 2, được cải tên là lễ “dâng Chúa vào đền thánh”, cũng cần nhắc nhở để hưởng
nguồn phong phú lớn lao của ân sủng Chúa Giêsu và Maria đi song song. Đức Kitô
thực hiện mầu nhiệm cứu độ. Maria mật thiết kết hợp với Chúa chịu khổ hình, để
thực hiện một sứ mạng vừa thuộc về Dân Chúa của Cựu ước, vừa là hình ảnh của
Dân Tân ước luôn luôn vị bắt bớ gian khổ, thử thách đức tin và lòng trông cậy”
(Lc 2,21-35) (Marialis Cultur, số 7b).
Sự kiện
dâng Chúa Giêsu vào đền thánh và thánh tẩy Đức Trinh Nữ đã được thánh sử Luca
ghi lại (Lc 2,22-39). Sự kiện này nhằm thực hiện những lề luật đã được ghi rõ
trong Cựu ước (Lv 12,8). Theo luật Môisê, phụ nữ sau khi sanh con thì bị coi là
nhơ uế trong 40 ngày nếu sinh con trai và trong 80 này nếu sinh con gái. Trong
những ngày ấy họ không được vào đền thờ và không được chạm đến vật dụng nào đã
thánh hiến cho Thiên Chúa.
Hết những
ngày kiêng cữ trên, họ đến đền thờ để được thanh tẩy. Họ phải mang theo một con
chiên nếu là nhà giàu hay hai con chim gáy hoặc bồ câu non làm của lễ. Ngoài ra
để ghi nhớ dịp vượt qua đất Ai cập. Lúc các con đầu lòng của loài người hay là
của loài vật đều phải dâng cho Thiên Chúa (Xh 13,2). Vậy, trung tín với lề luật,
Đức Maria và thánh Giuse “khi đã đầy ngày, lúc phải làm lễ tẩy uế cho các đấng
theo luật Môsê, thì ông bà đem hài nhi lên Giêrusalem tiến dâng cho Chúa” và
các Ngài “dâng làm lễ tế một cặp chim gáy hay hai con bồ câu” (Lc 2,22-24).
Như vậy
sự kiện dâng Chúa Giêsu vào đền thánh diễn ra một cách bình thường dưới mắt người
đời. Nhưng trong lịch sử cứu độ, đây là việc thực hiện lời tiên báo của tiên
tri Malaki: “Thình lình sẽ đến nơi đền thờ của Người, vị Chúa tể mà các ngươi
đòi hỏi, và thần sứ giao ước mà các ngươi ước nguyện, này vị ấy đến” (Ml 3,1).
Chúa đã đến trong đền thờ Người. Bao nhiêu người đã ngóng chờ biến cố cứu độ
này. Nhưng như chính tiên tri Malaki trước tự hỏi: “Ai chịu đựng nổi ngày Người
đến ? Ai đứng vững được khi Người hiện ra ?” (Ml 3,2).
Dĩ
nhiên khó ai nhận biết được Thiên Chúa, bởi vì Ngài đã mặc lấy vóc dáng con người
như chúng ta. Phải có sự soi sáng của Thánh Thần mới biết được. Siméon và Anna
là những người công chính và mộ đạo đã được hường đặc ân này. Được linh cảm,
Siméon “đến đền thờ, khi cha mẹ bồng hài nhi Giêsu đến để làm theo điều lề luật
dạy về Người” (Lc 2,27).
Am lấy
Hài nhi trên tay, Siméon đã chúc tụng Chúa và nói:
“Mắt
tôi đã thấy ơn Người cứu độ,
Người đã dọn sẵn trước mặt muôn dân,
Anh sáng mạc khải cho dân ngoại
và vinh quang của Israel dân Người” (Lc 2,30-32)
Người đã dọn sẵn trước mặt muôn dân,
Anh sáng mạc khải cho dân ngoại
và vinh quang của Israel dân Người” (Lc 2,30-32)
Còn nữ
tiên tri Anna, “không rời khỏi đền thánh, thờ Chúa đêm ngày trong chay kiêng và
cầu nguyện. Vào giờ ấy, bà đã đến bên tán tạ Thiên Chúa và bà đã nói về Ngài
cho mọi kẻ ngóng đợi phúc cứu chuộc của Gierusalem” (Lc 37-38).
Ngày lễ
Dâng Chúa Giêsu vào đền thánh còn được gọi là lễ Nến. Hôm nay Giáo hội làm phép
những cây nến và phân phát cho giáo dân. Cầm nến sáng trong tay và tiến vào
thánh đường, mọi người lặp lại Thánh Ca mà tiên tri Siméon đã hát khi Đức Mẹ và
thánh Giuse dâng Chúa Giêsu vào đền thánh. Chúa Giêsu quả là ánh sáng muôn dân,
dẫn lối chúng ta vào trong cung điện Người. Những “cây nến phép” này sẽ được cất
giữ trong các gia đình để dùng vào dịp lãnh các bí tích sau hết hay để thắp bên
thi hài người quá cố trong gia đình.
(daminhvn.net)
02
Tháng Hai
Người Mẹ Bồng Con
Một
buổi trưa hè nóng bức. Những người hành khách trên chuyến xe đò lặng lẽ nhìn
con đường độc điệu. Cái nắng chói chang và cuộc sống buồn tẻ như giam hãm mọi
người trong một thứ thinh lặng nặng nề.
Nhưng
ở một trạm dừng nào đó, mọi người bỗng ra khỏi sự thinh lặng của mình để đưa mắt
nhìn về một người thiếu phụ trẻ vừa mới bước lên xe. Chuyến xe từ từ chuyển
bánh trở lại. Người thiếu phụ bắt đầu cười và đùa giỡn với đứa con thơ dại chị
đang bế trên tay. Cử chỉ của người thiếu phụ, tiếng cười hồn nhiên của đứa bé
đã thu hút sự chú ý của mọi hành khách. Trong phút chốc một ngọn gió mát của hiếu
kỳ của liên đới, của tham dự và của chính sức sống đã đem lại một bầu khí tươi
mát cho mọi người. Mọi người như bừng tỉnh từ nỗi thinh lặng của oi bức, của ngái
ngủ. Nơi đây, người ta nghe có tiếng người bắt đầu nói chuyện. Nơi kia có tiếng
người cười. Sự đối thoại như một dòng điện chạy xuyên qua mọi người. Giờ thì
chuyến đi không còn là một cuộc độc hành buồn tẻ nữa.
Trên
chiếc xe già cỗi và buông tẻ của thế giới, một người đàn bà đã bước lên: Tình
Yêu và Sự Sống đã bừng dậy. Người đàn bà đó chính là mẹ Maria. Thế giới bắt đầu
đi vào một giai đoạn lịch
sử mới kể từ giây phút ấy. Mẹ đã bước lên chiếc xe cằn cỗi của thế giới cùng với
Chúa Giêsu để biến nó trở thành một cuộc hành trình vui tươi và đầy ý
nghĩa.
Thiên
Chúa đã không ngừng tạo dựng Mẹ Maria như biểu tượng cao vời nhất của người đàn
bà, của người vợ, của người mẹ, Ngài còn muốn cho chúng ta nhìn thấy nơi Mẹ con
đường lý tưởng, mẫu gương lý tưởng mà mỗi con người phải noi theo để đạt đến
cứu cánh vĩnh cửu.
Mẹ đã
sinh ra như mọi người, Mẹ đã lớn lên như mọi người, Mẹ đã sống cuộc sống con
người như mọi người, nghĩa là Mẹ cũng đã trải qua những tháng năm của buồn vui,
của thử thách, của mất mát, cuộc hành trình đó là bởi vì lúc nào Mẹ cũng sống kết
hiệp với Chúa và tin tưởng ở quyền năng Yêu thương của Ngài. Mang Chúa Giêsu đến
cho trần thế, Mẹ đã biến cuộc hành trình buồn tẻ của thế giới thành một Ðại Lễ
của gặp gỡ, của chia sẻ, của hân hoan và tin tưởng. Từ nay, tuyến đường mà nhân
loại đang đi kết thúc bằng một điểm đến rõ rệt là chính Thiên Chúa.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét