04/04/2020
Thứ bảy tuần 5 mùa
Chay
Bài Ðọc I: Ed 37, 21-28
"Ta sẽ làm cho chúng trở nên dân tộc duy nhất".
Trích sách Tiên tri Êdêkiel.
Ðây Chúa là Thiên Chúa phán: "Này Ta sẽ đem con cái Israel ra khỏi
các dân tộc mà chúng đang cư ngụ; từ khắp nơi, Ta sẽ quy tụ chúng lại và đưa
chúng về quê hương. Ta sẽ làm cho chúng trở nên dân tộc duy nhất sống trong đất
của chúng, ở trên núi Israel; chỉ có một vua cai trị chúng; chúng sẽ không còn
là hai dân tộc, cũng chẳng còn chia làm hai nước nữa.
Chúng sẽ không còn dơ nhớp vì thần tượng, vì các điều ghê tởm và mọi tội
lỗi của chúng. Ta sẽ cứu thoát chúng khỏi mọi nơi tội lỗi. Ta sẽ thanh tẩy
chúng; chúng sẽ là dân Ta, và Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng. Ðavit tôi tớ Ta sẽ
là vua của chúng, chúng sẽ chỉ có một chủ chăn mà thôi. Chúng sẽ tuân giữ và thực
thi các giới răn của Ta. Chúng sẽ cư ngụ trong đất mà Ta đã ban cho Giacóp tôi
tớ Ta, và là đất tổ phụ chúng đã cư ngụ; chúng và con cái cùng cháu chắt của
chúng sẽ cư ngụ ở đó đến muôn đời. Và Ðavit, tôi tớ Ta, sẽ là vua của chúng đến
muôn đời. Ta sẽ ký kết với chúng một giao ước hoà bình: Ðó sẽ là một giao ước
vĩnh cửu đối với chúng. Ta sẽ gầy dựng chúng, sẽ cho chúng sinh sản ra nhiều và
sẽ thiết lập nơi thánh Ta giữa chúng cho đến muôn đời. Nhà Tạm Ta sẽ ở giữa
chúng. Ta sẽ là Chúa của chúng, và chúng sẽ là dân Ta. Các dân tộc sẽ biết rằng
Ta là Chúa, Ðấng thánh hoá Israel, khi đã lập nơi thánh Ta ở giữa chúng đến
muôn đời".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Gr 31, 10.
11-12ab. 13
Ðáp: Chúa sẽ gìn giữ chúng ta
như mục tử chăn dắt đoàn chiên mình (c. 10d).
Xướng: 1) Hỡi các dân tộc, hãy nghe lời Chúa, hãy công bố lời Chúa trên
các đảo xa xăm; hãy nói rằng: "Ðấng đã phân tán Israel, sẽ quy tụ nó lại,
và sẽ gìn giữ nó, như mục tử chăn dắt đoàn chiên mình". - Ðáp.
2) Vì Chúa đã giải phóng Giacóp, giờ đây với cánh tay mạnh mẽ hơn, Người
cứu thoát nó. Chúng sẽ đến và ca hát trên núi Sion, chúng sẽ đổ xô về phía hạnh
phúc của Người. - Ðáp.
3) Bấy giờ người thiếu nữ sẽ hân hoan nhảy mừng, các thanh niên và các cụ
già cũng làm y như thế; Ta sẽ biến đổi tang chế của chúng ra niềm hân hoan, sẽ
an ủi chúng và cho chúng hết đau khổ. - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc
Âm: Ed 33, 11
Chúa phán: "Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn
sám hối và được sống".
Phúc Âm: Ga 11, 45-56
"Ðể quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mát về một mối".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, trong những người đến thăm Maria và đã chứng kiến việc Ngài làm,
có nhiều kẻ đã tin vào Chúa Giê-su. Nhưng trong nhóm có kẻ đi gặp người biệt
phái và thuật lại các việc Chúa Giêsu đã làm. Do đó, các thượng tế và biệt phái
họp công nghị, và nói: "Chúng ta phải xử trí sao đây? Vì người này làm nhiều
phép lạ. Nếu chúng ta để mặc người ấy làm như thế, thì mọi người sẽ tin theo và
quân Rôma sẽ kéo đến phá huỷ nơi này và dân tộc ta". Một người trong nhóm
là Caipha làm thượng tế năm đó, nói với họ rằng: "Quý vị không hiểu gì cả!
Quý vị không nghĩ rằng thà một người chết thay cho dân, còn hơn là toàn dân bị
tiêu diệt". Không phải tự ông nói điều đó, nhưng với danh nghĩa là thượng
tế năm ấy, ông đã nói tiên tri rằng Chúa Giêsu phải chết thay cho dân, và không
phải cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mát về một
mối.
Bởi vậy, từ ngày đó, họ quyết định giết Người. Vì thế Chúa Giêsu không
còn công khai đi lại giữa người Do-thái nữa. Người đi về miền gần hoang địa, đến
thành phố tên là Ephrem, và ở lại đó với các môn đệ. Khi đó đã gần đến Lễ Vượt
Qua của người Do-thái. Có nhiều người từ các miền lên Giêrusalem trước lễ, để
được thanh tẩy. Họ tìm Chúa Giêsu; họ đứng trong đền thờ và bàn tán với nhau:
"Anh em nghĩ sao? Người có đến hay không?" Còn các thượng tế và biệt
phái đã ra lệnh rằng nếu ai biết Người ở đâu, thì phải tố cáo để họ bắt Người.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Người công
chính
Tác giả thánh vịnh 58 đã có lời cầu nguyện như sau:
Lạy Thiên Chúa của con
Xin cứu con khỏi kẻ địch thù
Bênh đỡ con chống lại kẻ tấn
công
Cứu vớt con khỏi vòng gian ác,
Giải thoát con khỏi bọn giết
người.
Kìa mạng con, chúng rình hãm hại,
Lũ cường quyền xúm lại chống
con.
Ðây là tâm trạng của một người công chính bị kẻ gian ác hùa nhau mưu hại.
Tâm trạng này phù hợp với tâm trạng của Chúa Giêsu trong những ngày cuối cùng của
Người ở trần gian. Sau ba năm vất vả để rao giảng Tin Mừng Cứu Ðộ và thi ân
giáng phúc, Chúa Giêsu phải đối diện với một thực trạng đáng buồn. Những cố gắng
của Người chỉ được những kẻ thành tâm thiện chí đón nhận, mà đa số thuộc thành
phần nghèo khổ, bất hạnh. Còn những kẻ có vai vế, những kẻ tự xưng là đạo đức,
là có học vấn thì lại chống đối Người. Nếu chỉ xét về bên ngoài thì công lao của
Chúa ví như muối bỏ biển. Nhìn từ góc độ con người thì góc độ cứu độ của Chúa
Cha dường như chẳng mang lại kết quả bao nhiêu.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa bị những người Do Thái tìm cách khử trừ, vì Chúa
không những không đáp ứng nguyện vọng của họ mà lại còn tạo nên xáo trộn bất lợi
cho cuộc sống của họ nữa. Họ mong chờ một vị cứu tinh, nhưng vị cứu tinh này phải
phù hợp với sở thích của họ, phải mang lại cho họ thấy được những quyền lợi trước
mắt, phải làm cho cuộc sống trần thế của họ trở nên thoải mái hơn. Chúa làm cho
họ thất vọng thế là họ loại trừ Chúa ra khỏi cuộc sống. Ngày hôm nay, hai mươi
thế kỷ sau ngày Chúa chịu chết và sống lại, Chúa vẫn tiếp tục bị tẩy chay, bị
loại trừ và điều đáng buồn nhất là Chúa bị loại trừ bởi chính những người mang
danh hiệu là người Kitô, trong số đó có con. Con loại trừ Chúa khi con không sống
theo tinh thần Tám mối phúc thật; con loại trừ Chúa khi con chạy theo những thú
vui vật chất, khi con tôn vinh những gì thỏa mãn ước mơ trần thế của con. Con
xưng mình là người có đạo, nhưng con lại đi tìm một cứu Chúa không phải là Chúa
Giêsu Kitô.
Lạy Chúa Giêsu, xin thương cứu con khỏi những ràng buộc hư ảo ấy. Xin cho
con luôn luôn tôn thờ và tin yêu Chúa là Cứu Chúa duy nhất chân thật của con.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Bảy Tuần V MC
Bài đọc: Eze 37:21-28; Jn 11:45-57.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên
Chúa sẽ ban cho Dân Người một Đấng Cứu Độ.
Nhìn lại lịch sử nhân lọai và lịch sử Cứu Độ, chúng ta thấy có một sự
khác biệt rất lớn giữa con người và Thiên Chúa: Con người gây thiệt hại tàn
phá, Thiên Chúa xây dựng và tái tạo. Con người gây hận thù chia rẽ, Thiên Chúa
tạo đoàn kết yêu thương. Con người gây chiến tranh chết chóc, Thiên Chúa ban
hòa bình an lạc.
Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta thấy hai thái độ tương phản giữa Thiên
Chúa và con người. Trong Bài Đọc I, tiên-tri Ezekiel tuy còn đang sống trong
nơi lưu đày, nhưng đã nhìn thấy trước ngày mà Thiên Chúa sẽ làm hai việc cho
dân Israel: (1) “Ta sẽ cứu chúng thoát khỏi mọi nơi chúng đã ở, đã phạm tội, và
sẽ thanh tẩy chúng;” và (2) “Ta sẽ quy tụ chúng lại từ bốn phương và đưa chúng
về đất của chúng.” Trong Phúc Âm, những người Pharisees triệu tập Thượng Hội Đồng
để bàn tính kế họach giết Chúa Giêsu. Thượng Tế Caiaphas đã “vô tình” nói lên
hai mục đích về cái chết của Chúa Giêsu: (1) Ngài phải chết thay cho tòan dân;
và (2) cái chết của Ngài sẽ quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về
một mối.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa sẽ quy tụ dân
thành một đoàn chiên, được chăn dắt bởi một Chúa Chiên.
1.1/ Thiên Chúa sẽ quy tụ dân Người về một mối: Ba điều tiên-tri Ezekiel
tuyên sấm:
(1) Dân Do-thái sẽ được hồi hương: Vì không vâng lời Thiên Chúa dạy, dân
tộc Do-thái bị mất quê hương và bị lưu đày: miền Bắc bị thất thủ và lưu đày
sang Assyria năm 721 BC; miền Nam bị thất thủ và lưu đày sang Babylon năm 587
BC. Sống cực khổ nơi lưu đày, tiên-tri Ezekiel được Thiên Chúa cho thấy và
tuyên phán: “Đức Chúa là Chúa Thượng phán như sau: Này chính Ta sẽ lấy con cái
Israel từ giữa các dân tộc chúng đã đi tới. Ta sẽ quy tụ chúng lại từ bốn
phương và đưa chúng về đất của chúng.”
(2) Dân Do-thái sẽ thống nhất: Dân tộc Do-thái bị chia đôi thành hai
vương quốc Bắc và Nam trước Thời Lưu Đày. Tiên-tri Ezekiel cũng nhìn thấy cảnh
đòan tụ hai miền Nam Bắc: “Ta sẽ làm cho chúng thành một dân tộc duy nhất trong
xứ, trên các núi Israel; tất cả chúng chỉ có một vua duy nhất; chúng sẽ không
còn là hai dân tộc, không còn chia thành hai vương quốc.”
(3) Dân Do-thái sẽ được thanh tẩy: Dân chúng bị lưu đày là vì họ đã quay
lưng lại với Thiên Chúa và thờ phượng các thần ngọai, và các tội bất công xã hội.
Thời gian lưu đày là để thanh luyện các tội của dân, và để Thiên Chúa tha thứ
cho dân khi họ thật lòng quay trở về với Ngài: “Chúng sẽ không còn ra ô uế vì
những ngẫu tượng, những đồ gớm ghiếc và mọi tội ác của chúng nữa. Ta sẽ cứu
chúng thoát khỏi mọi nơi chúng đã ở và đã phạm tội; Ta sẽ thanh tẩy chúng.
Chúng sẽ là dân của Ta; còn Ta, Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng.”
1.2/ Thiên Chúa sẽ cho David, lãnh đạo dân chúng đến muôn đời.
(1) Vua David lãnh đạo dân: Vua David được coi như một vị vua nổi tiếng
nhất trong các vua của Do-thái. Thời của Vua, tất cả 12 chi tộc sống bình an và
lãnh thổ được thái bình thịnh trị. Vị Vua sẽ lãnh đạo dân cũng thuộc giòng dõi
và nổi tiếng như Vua David. Vị Vua này “sẽ làm vua cai trị chúng; sẽ chỉ có một
mục tử duy nhất cho chúng hết thảy. Chúng sẽ sống theo các phán quyết của Ta, sẽ
tuân giữ các thánh chỉ của Ta và đem ra thực hành. Chúng sẽ định cư trên đất Ta
đã ban cho tôi tớ Ta là Jacob, phần đất mà tổ tiên các ngươi đã cư ngụ. Chính
chúng và con cháu chúng sẽ định cư mãi mãi trên đó. David, tôi tớ Ta, sẽ là ông
hoàng lãnh đạo chúng cho đến muôn đời.”
(2) Thiên Chúa sẽ thiết lập giao ước mới với nhà Israel: “Ta sẽ lập với
chúng một giao ước bình an; đó sẽ là giao ước vĩnh cửu đối với chúng, Ta sẽ định
cư chúng, cho chúng sinh sôi nảy nở ra nhiều và đặt thánh điện của Ta ở giữa
chúng cho đến muôn đời. Nhà của Ta sẽ ở giữa chúng; Ta sẽ là Thiên Chúa của
chúng và chúng sẽ là dân của Ta.”
(3) Dân Chúa sẽ mở rộng đến các dân tộc: “Bấy giờ, các dân tộc sẽ nhận biết
chính Ta là Đức Chúa, Đấng thánh hoá Israel, khi Ta đặt thánh điện của Ta ở giữa
chúng cho đến muôn đời.”
2/ Phúc Âm: Thà một người chết thay cho
dân, còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt.
2.1/ Thiên Chúa dùng Chúa Giêsu để quy tụ dân Người về một mối: Việc Chúa
Giêsu truyền cho Lazarus đã chết ba ngày sống lại làm cho nhiều người tin vào
Ngài. Đây là lý do chính để những người Pharisees lập kế giết Ngài. Họ nói:
"Chúng ta phải làm gì đây? Người này làm nhiều dấu lạ. Nếu chúng ta cứ để
ông ấy tiếp tục, mọi người sẽ tin vào ông ấy, rồi người Rôma sẽ đến phá huỷ cả
nơi thánh của ta lẫn dân tộc ta." Những gì họ lo nghĩ đã thành hiện thực
vào năm 70 AD, nhưng Chúa Giêsu không phải là lý do người Roma phá hủy nước
Do-thái. Thượng Hội Đồng (Sandherin) bao gồm những người Pharisees, giữ cẩn thận
Lề Luật, và những người Sadducees, quan tâm đến chính trị và xã hội.
(1) Chúa Giêsu chết thay cho tòan dân: Một người trong Thượng Hội Đồng
tên là Caiaphas, làm thượng tế năm ấy, nói rằng: "Các ông không hiểu gì cả,
các ông cũng chẳng nghĩ đến điều lợi cho các ông là: thà một người chết thay
cho dân còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt." Có một sự trùng hợp giữa những
gì Caiaphas nói và Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa: Chúa Giêsu phải chết để tòan
dân được hưởng ơn cứu độ.
(2) Chúa Giêsu chết để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về
một mối: Có một sự trùng hợp khác nữa giữa thánh ý của Thiên Chúa và những gì
Caiaphas nói. Thiên Chúa dùng ông để mặc khải ý định của Ngài: “Điều đó, ông
không tự mình nói ra, nhưng vì ông là thượng tế năm ấy, nên đã nói tiên tri là
Đức Giêsu sắp phải chết thay cho dân, và không chỉ thay cho dân mà thôi, nhưng
còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối.” Như lời
tiên-tri Ezekiel báo trước trong Bài Đọc I, Chúa Giêsu đến để quy tụ dân thành
một đòan chiên, và Ngài chính là Mục Tử Tốt Lành duy nhất chăn giữ đòan chiên
này.
2.2/ Chúa Giêsu chuẩn bị chết thay cho toàn dân: Chúa Giêsu biết ý định của
họ và biết ngày của mình trên dương gian sắp hòan tất, nên Ngài không đi lại
công khai giữa người Do-thái nữa; nhưng từ nơi ấy, Người đến một vùng gần hoang
địa, tới một thành gọi là Ephraim (gần Bethel). Người ở lại đó với các môn đệ.
Khi ấy sắp đến lễ Vượt Qua của người Do-thái. Từ miền quê, nhiều người
lên Jerusalem để cử hành các nghi thức thanh tẩy dọn mình mừng lễ. Họ tìm Đức
Giêsu và đứng trong Đền Thờ bàn tán với nhau: "Có thể ông ấy sẽ không lên
dự lễ, các ông có nghĩ thế không?" Họ nghĩ Chúa Giêsu không có can đảm để
đối đầu với các thế lực chính trị và tôn giáo. Họ đã lầm, vì Chúa Giêsu không
những dám vào, mà còn long trọng vào Thành Jerusalem với dân từ Bethany, trong
Chủ Nhật Lễ Lá mà chúng ta sẽ cử hành để nhớ lại biến cố này ngày mai.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC
SỐNG:
- Chúng ta hãy học để làm như Thiên Chúa: xây dựng thay vì phá hoại, tạo
đòan kết thay vì gây chia rẽ, yêu thương thay cho hận thù.
- Chúa Giêsu đã chết thay cho tất cả chúng ta. Ngài chết để đưa tất cả
nhân lọai về cho Thiên Chúa. Đây là Tin Mừng mà chúng ta cần tin tưởng và loan
báo cho mọi người.
- Thiên Chúa điều khiển mọi người và mọi sự. Tất cả những gì Ngài muốn sẽ
hiện thực. Con người không thể làm bất cứ gì để vô hiệu hóa dù chỉ một kế họach
của Thiên Chúa.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
04/04/20 THỨ BẢY ĐẦU THÁNG TUẦN 5 MC
Th. I-si-đo-rô, giám mục, tiến sĩ HT
Ga 11,45-57
Th. I-si-đo-rô, giám mục, tiến sĩ HT
Ga 11,45-57
VƯỢT QUA NỖI SỢ
“Nếu chúng ta cứ để
ông ấy tiếp tục, mọi người sẽ tin vào ông ấy, rồi người Rô-ma sẽ đến phá huỷ cả
nơi thánh của ta lẫn dân tộc ta.” (Ga
11,48)
Suy niệm: Tội lỗi là nguyên nhân làm con người sợ hãi; nhưng thay vì chừa bỏ
tội lỗi, người ta thường có xu hướng viện đủ mọi lý lẽ biện bác để che dấu, để
đổ lỗi, để chối tội. Sách Sáng Thế cho biết ông bà nguyên tổ sau khi phạm tội
đã sợ hãi vì thấy mình trần truồng nên lấy lá vả che thân, trốn chạy Thiên Chúa
và đổ lỗi cho nhau (St 3,7-13). Các thượng tế và người Pha-ri-sêu bị một nỗi sợ
đen tối như thế vây bủa. Thấy nhiều người tin vào Đức Giê-su khi sau khi chứng
kiến Ngài làm phép lạ cứu sống La-da-rô, họ hốt hoảng sợ hãi, tìm cách khử trừ
Chúa Giê-su, thậm chí còn muốn giết cả anh La-da-rô. Thế nhưng, thượng tế
Cai-pha, đại diện cho Thượng Hội Đồng Do Thái, che dấu nỗi sợ của họ bằng giọng
điệu giả nhân giả nghĩa: “Thà một người chết thay cho dân, còn hơn là toàn
dân bị tiêu diệt.” Họ núp bóng giá trị linh thánh và lòng yêu nước để che đậy
cho sự sợ hãi và dã tâm của mình.
Mời Bạn: Cơn đại dịch Corona toàn cầu đang đẩy con người vào giữa những nỗi
sợ: Sợ mất sự an toàn bản thân, mất những giá trị kinh tế, chính trị, quyền lực,
v.v… Đi tìm nguyên nhân của cơn đại dịch, người ta đổ lỗi cho cá nhân này, quốc
gia kia, cho loài dơi, loài tê tê, nhưng lại sợ không dám nhìn vào chính tội lỗi
của mình đã tàn phá môi trường sống là thiên nhiên do lòng tham lam hưởng thụ không
đáy của mình. Bạn sẽ sống những giá trị Tin Mừng như thế nào để phản ứng lại lối
sống tai hại đó?
Sống Lời Chúa: Tập lối sống tiết độ và ý thức bảo vệ môi trường.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin giúp con khiêm tốn cậy trông vào Chúa. Amen.
(5 phút Lời Chúa)
SUY NIỆM : Chết thay
cho dân
Suy niệm:
Đức Giêsu đã từng nhiều lần bị tìm bắt, bị ném đá, bị đe dọa.
Nhưng đây là lần đầu tiên các thượng tế, các người Pharisêu
và Thượng Hội Đồng của Do thái giáo quyết định giết Ngài (c. 53).
Theo Tin Mừng Gioan, lý do gần nhất đưa đến quyết định đó
là việc Đức Giêsu làm cho anh Lazarô chết bốn ngày sống lại (Ga 11).
Sự sống lại của anh đã khiến cho nhiều kẻ tin vào Đức Giêsu.
Các nhà lãnh đạo tôn giáo sợ rằng phong trào theo Giêsu sẽ tiếp tục bành
trướng,
mọi người sẽ tin, và quân Rôma sẽ đến phá hủy đất nước và nơi thờ tự (c.
48).
Caipha là vị thượng tế đương nhiệm năm ấy.
Đứng trước sự lúng túng và lo âu của các thành viên trong Thượng Hội Đồng,
đột nhiên ông phát biểu như không cần suy nghĩ thêm gì nữa :
“Thà một người chết thay cho dân còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt” (c.
50).
Lời phát biểu bộc phát như thế,
nào ngờ lại là một lời tiên tri thốt ra từ miệng một vị thượng tế.
Caipha chỉ muốn loại trừ Đức Giêsu để bảo đảm an ninh cho đất nước và Đền
Thờ,
nhưng ông lại vô tình nói tiên tri về tính cứu độ của cái chết Đức Giêsu.
Cái chết ấy sẽ cứu cả dân tộc Do thái khỏi bị tiêu diệt,
Đức Giêsu chết thay cho dân của Ngài.
Nhưng Caipha không ngờ ảnh hưởng của cái chết ấy còn vượt xa hơn nhiều.
Ngài chết “không chỉ thay cho dân (Do thái) mà thôi,
nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối.”
Cái chết ấy có khả năng quy tụ mọi kẻ tin vào Đức Giêsu
về một đoàn chiên duy nhất, kể cả dân ngoại (Ga 10, 16).
Cái chết ấy có khả năng kéo mọi người lên chẳng trừ ai (Ga 12, 32).
Đức Giêsu đã bị kết án ngay khi chưa có phiên tòa chính thức.
Ngài bị kết án tử vì đã trao ban sự sống cho một con người.
Cái chết của Ngài không ngăn cản được sự sụp đổ của thành Giêrusalem
và sự tan hoang của cả đất nước Do thái vào năm 70.
Nhưng cái chết ấy đã đem lại ơn cứu độ cho mọi người tin.
Hiệu quả của cái chết ấy vẫn còn mãi đến tận thế.
Đức Giêsu đã hiến mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người (Mc 10, 45).
Năm 2008 người ta xác định được 20 nhà truyền giáo bị giết trên thế giới.
Họ đã can đảm sống trong những hoàn cảnh khó khăn, nguy hiểm,
và đón nhận cái chết như cái giá phải trả cho tình yêu muốn phục vụ.
Có bao tín hữu vô danh khác vẫn âm thầm nếm cái chết hàng ngày,
chỉ vì muốn theo gương Thầy Giêsu đem sự sống cho anh em.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa,
Chúa đã làm người như chúng con,
nên Chúa hiểu gánh nặng của phận người.
Cuộc đời đầy cạm bẫy mời mọc
mà con người lại yếu đuối mong manh.
Hạnh phúc thường được trộn bằng nước mắt,
và giữa ánh sáng,
cũng có những bóng mờ đe dọa.
Lạy Chúa Giêsu,
nếu có lúc con mệt mỏi và xao xuyến,
xin nhắc con nhớ rằng trong Vườn Dầu
Chúa đã buồn muốn chết được.
Nếu có lúc con thấy bóng tối bủa vây,
xin nhắc con nhớ rằng trên thập giá
Chúa đã thốt lên : Sao Cha bỏ con ?
Xin nâng đỡ con, để con đừng bỏ cuộc.
Xin đồng hành với con, để con không cô đơn.
Xin cho con yêu đời luôn
dù đời chẳng luôn đáng yêu.
Xin cho con can đảm
đối diện với những thách đố
vì biết rằng cuối cùng
chiến thắng thuộc về người
có niềm hy vọng lớn hơn. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
4 THÁNG TƯ
Được Mai Táng Với Đức Kitô - Được
Phục Sinh Với Người
Giáo Hội tuyên xưng trong Kinh
Tin Kính: “Người đã chịu nạn, chịu chết, và chịu táng xác. Nhưng ngày thứ ba
Người đã sống lại.”
Trước khi sống lại từ cõi chết,
Đức Kitô – với cái chết cứu độ của Người – đã chạm đến tội lỗi của con người
qua mọi thế hệ. Người đã ghé thăm các linh hồn trong cõi âm ty với quyền năng cứu
chuộc do cái chết của Người, với quyền năng trao ban sự sống do cái chết của
Người. Hỡi sự chết, Ta sẽ là chính sự chết của ngươi!
Cũng vậy, chúng ta – những người
còn đang sống – đã được dìm trong cái chết của Người (cf. Rm 6,3). Cái chết của
Đức Kitô, cái chết cứu chuộc, cái chết trao ban sự sống, đã tiêu diệt di lụy của
tội lỗi vốn có mặt nơi mỗi người chúng ta. Thật vậy, “chúng ta … được thanh tẩy
để tháp nhập vào với Đức Giê-su Kitô” (Rm 6,3). Và Thánh Phao-lô nói tiếp: “Qua
phép Rửa, chúng ta thật sự được mai táng với Người, để – cũng như Đức Kitô được
phục sinh từ cõi chết nhờ vinh quang của Chúa Cha – chúng ta cũng sẽ sống trong
sự sống mới” (Rm 6,4).
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan
Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John
Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 08 – 4
Ed 37, 21-28; Ga
11, 45-56.
LỜI SUY NIỆM: “Trong số những người Do-thái đến thăm cô Maria và được chứng kiến việc
Đức Giêsu làm, có nhiều kẻ đã tin vào Người.”
Sau khi Chúa Giêsu làm phép lạ cho anh Ladarô chết chôn bốn ngày sống lại,
thay vì vui mừng và tin Người là Đấng được Thiên Chúa sai đến, các thủ lãnh
Do-thái lại càng ganh tỵ sợ làm ảnh hưởng đến quyền lợi và chức vụ của mình, họ
họp nhau tìm cách giết hại Chúa Giêsu: “Chúng ta phải làm gì đây.” (c.47) và cuối
cùng họ đã đi tới một quyét định: “Thà một người chết thay cho dân còn hơn toàn
dân bị tiêu diệt.” (c.50)
Lạy Chúa Giêsu. Chúa đã tự hiến tế mình trên thập giá để cho tất cả chúng
con được sống. Và hằng ngày Chúa còn hiến tế trên mọi Bàn Thờ. Để cứu độ chúng
con. Xin cho chúng con siêng năng tham dự thánh lễ mỗi ngày, để nhận được ơn
tha thứ, được kết hợp với Chúa khi sống với tha nhân.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 04-04
Thánh ISIDORO
Giám Mục Tiến Sĩ Hội Thánh
(+636)
Thánh Isidorô được coi như vị
thánh tiến sĩ lừng danh nhất của Giáo hội Tây Ban Nha. Ngài chào đời tại
Carthagena trong một gia đình thật đặc sắc, có cha mẹ đạo đức và và cả bốn anh
em đều được tôn phong lên hàng hiển thánh . Các anh Ngài là hai thánh giám mục
Leanger và Fulgentio. Chị Ngài là thánh nữ Florentina. Như vậy thánh Isidôrô thật
có phúc vì được sinh ra sống giữa các vị thánh.
Cha mẹ mất sớm, người anh cả lãnh
nhiệm vụ hướng dẫn đứa em út Isidorô. Một bức thư của thánh Leander viết cho em
gái là thánh Florentina làm chứng điều đó: - "Anh xin em hãy nhớ đến anh
trong kinh nguyện và đừng quên chú út Isidorô. Cha mẹ đã ký thác em cho chúng
ta và đã trở về với Chúa mà không phải e sợ gì, bởi vì các Ngài đã trao cho em
một người chị và hai người anh săn sóc".
Dù rất thương em. Nhưng Leander
đã phải dùng biện pháp mạnh là cây roi để sửa trị tính nhu nhược của đứa em biếng
nhác. Một lần kia vì sợ đòn và chán học, Isidorô đã bỏ nhà trốn đi. Cậu chạy nước
rút mau hết sức cho tới khi ngã quỵ bên một bờ giếng. Mơ màng trong lúc lấy
hơi, cậu nhìn thấy vách đá bên thành giếng có một đường rãnh. Một phụ nữ đến
kín nước giải thích cho cậu biết rằng, đá cứng đến đâu đi nữa nhưng sợ giây thừng
cọ sát liên tục cũng soi mòn được. Hiện tượng này khiến cậu phải suy nghĩ:
"Với thời gian sợi giây thừng và những giọt nước đẽo được cả đá, còn tôi lại
không thể học hành để gọt giũa tâm hơn sao ?"
Thật là một bài học lạ lùng đối
với Isidorô. Ngài lấy lại can đảm bắt tay và làm việc không còn biết mệt mỏi. Nỗ
lực không ngừng đã biến Ngài thành nhà thông thái nhất thời đó. Còn thanh xuân,
Ngài đã thông hiểu triết học, đã nghiên cứu các tác phẩm về luật. Nhà chép sử
Arevalo đã phải thán phục ghi nhận nói Ngài một sự cao siêu như Platon, sự
thông hiểu của Aristote, tài hùng biện của Cicéron, sự uyên bác của Origenê, sự
thận trọng của thánh Hiêronimô, giáo thuyết của thánh Augustinô và sự thánh thiện
của thánh Gregoriô. Người ta còn nói rằng khi đọc một bức thư của Isidorô,
thánh Grêgoriô đã thốt lên lời đầy tính chất tiên tri: - "Đây là một tiên
tri Daniel, một người còn trổi vượt hơn cả Salomon".
Isidorô thụ phong linh mục và
theo anh là Leander đang làm giám mục Seville, tham dự các công đồng. Dầu có cuộc
bách hại của nhà vua theo phái Ariô và đã trục xuất hai anh của Ngài, thánh
nhân vẫn công khai chống lại lạc giáo. Ngài đã thay anh cai quản giáo phận lúc
người anh bị lưu đày. Năm 600, khi Đức Cha Leander từ trần, Ngài đã được cử lên
kế vị. Đức giáo hoàng Grêgoriô cả còn đặt Ngài làm vị tổng đại diện cho mình ở
Tây Ban Nha.
Dầu không bao giờ là tu sĩ,
thánh Isidorô đã viết một bộ luật dòng tu. Ngài giải thích, khai triển và hệ thống
hoá phung vụ Mozarabic. Ngài nỗ lực tiêu diệt tàn tích của phái Ariô, và đánh bại
lạc thuyết của Acephali, một ngành của lạc giáo Nhất tính thuyết ở Tây Ban Nha.
Hơn nữa thánh nhân còn lập nhiều trường học để giáo dục con dân của Ngài. Có ảnh
hưởng lớn tại triều đình, Ngài cũng giữ phần sáng chói trong cộng đồng Toleđô
năm 610, chủ tọa công đồng Seville II năm 618 hay 619 và công đồng Tôleđo IV
năm 633.
Nhưng trách vụ của Đức giám mục
không ngăn cản công việc trước tác phong phú của thánh Isidorô. Ngài đã viết một
từ điển các tiếng đồng âm, một khảo luận về thiên văn địa lý, tiểu sử của các
vĩ nhân và các nhân vật trong thánh kinh, một cuốn lịch sử xứ Goth. Tác phẩm ảnh
hưởng nhất của Ngài là Bộ bách Khoa từ điển ETYMOLOGIES tóm lược những hiểu biết
của thời đại Ngài.
Sau 36 năm nhọc mệt trong chức
giám mục, thánh Isidorô phải chịu đựng mọi yếu đau của tuổi già. Bệnh tật có thể
nghiền nát thân xác, nhưng lại không thể làm giảm thiểu được nhiệt tâm của
Ngài. Trong sáu tháng cuối đời, Ngài tăng thêm việc bác ái đến nỗi một đoàn dân
nghèo đến với Ngài tấp nập từ sáng đến chiều và cuối cùng chính Ngài cũng lâm cảnh
nghèo túng. Biết rằng sắp kết thúc được đời Ngài mời hai giám mục phụ tá đến
thăm, Ngài theo họ tới nhà thờ. Ơ đó một vị giám mục mặc áo nhặm cho Ngài, một
vị giám mục bỏ tro lên đầu Ngài. Giơ tay lên trời Ngài lớn tiếng xin Chúa thứ
tha tội lỗi, rước lễ. Xin mọi người cầu nguyện cho, khuyên nhủ dân chúng sống
bác ái, phân phát hết tiền của còn lại. Trở về nhà, Ngài qua đời trong an bình
của Chúa ngày 04 tháng 04 năm 636.
Theo lời yêu cầu của thánh nhân,
thi hài Ngài được mai táng với thánh Leander và Florentina. Nhưng về sau Vua
Ferdinand di chuyển hài cốt về Leon. Đức Giáo hoàng Benedictô XV tôn phong
thánh Isidorô lên hàng Tiến sĩ Hội Thánh.
(daminhvn.net)
04 Tháng Tư
Ðánh Nhau Bằng Gậy Gộc
Họa sĩ Goya, người Tây Ban Nha
vào đầu thế kỉ 19, đã để lại một loạt những bức tranh mô tả thân phận con người
thật ý nghĩa. Một trong họa phẩm mà ông đã thực hiện trong thời nội chiến của
người Tây Ban Nha vào cuối thế kỷ 18 mang tựa đề: "Ðánh nhau bằng gậy gộc".
Trong bức tranh, Goya vẽ hai người
nông dân xô xát nhau. Mỗi người cầm trong tay một chiếc dùi cui sần sùi. Một
người đang giơ chiếc dùi cui để bảo vệ mặt mình. Nền trời không để lộ một nét nổi
bật nào. Người ta không đoán được trời sắp giông bão hay sắp sáng rỡ.
Thoạt nhìn qua cũng nghĩ đây chỉ
là một bức tranh tầm thường như những bức tranh khác. Thế nhưng có một chi tiết
nói lên tất cả ý nghĩa của bức tranh: đó là hai người nông dân đang hầm hầm sát
khí để loại trừ nhau này lại mắc cạn trong cồn cát. Từng cơn gió thổi, cát bụi
đang kéo tới phủ lấp hai người đến quá đầu gối.
Goya muốn cho chúng ta thấy rằng
cả hai người nông dân này sắp chết. Họ sẽ không chết vì những cú dùi cui giáng
trên nhau cho bằng chính cát bụi đang từ từ chôn vùi họ.Thế nhưng thay vì giúp
nhau để ra khỏi cái chết, họ lại cư xử chẳng khác nào thú dữ: họ cắn xé nhau. Họa
phẩm "Ðánh nhau bằng gậy gộc" trên đây của danh họa Goya nói lên phần
nào tình cảnh mà nhân loại chúng ta đang trải qua.Thay vì giúp nhau để ra khỏi
không biết bao nhiêu tai họa, con người lại giành giật chém giết lẫn nhau.
Bức tranh ấy có lẽ không chỉ diễn
ra ở quy mô thế giới, một nơi nào đó ngoài cuộc sống của chúng ta, mà không chừng
đang diễn ra hằng ngày trong các mối tương quan của chúng ta với những người
xung quanh. Cơn cám dỗ muốn thanh toán và loại trừ người khác có lẽ vẫn còn
đang gặm nhấm tâm hồn chúng ta.
Bức tranh của họa sĩ Goya cũng
chính là bức tranh của thân phận con người chúng ta. Ngay chính trong cơn quẫn
bách và đe dọa tứ phía, thay vì liên đới để bảo vệ nhau, người ta vẫn có thể
đâm chém lẫn nhau.
Một nhạc sĩ nào đó đã có lý để
tra vấn chúng ta: giết người đi thì ta ở với ai? Một trong những phương thế tốt
đẹp nhất để tiêu diệt một kẻ thù chính là biến kẻ thù ấy trở thành một người bạn.
Chúa Giêsu đã để lại cho chúng
ta khuôn vàng thước ngọc: nếu có ai vả má bên phải của ngươi, hãy chìa luôn cả
má còn lại... Trong những giờ phút cuối đời, khi đứng giữa những người đang đằng
đằng sát khí muốn hủy diệt mình, Chúa Giêsu đã xin Chúa Cha tha thứ cho họ.
(Lẽ Sống)
Lectio
Divina: Gioan 11:45-46
Thứ Bảy,
4 Tháng 4, 2020
Thứ Bảy
Tuần V Mùa Chay
1. Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa
là Thiên Chúa, Đấng tạo dựng muôn vật và là Cha của muôn loài,
Các con
cái của Chúa
Vẫn còn
tản mác khắp nơi và còn chia rẽ: Kitô hữu
và người ngoài Kitô giáo,
Các Giáo
Hội và giáo phái khác nhau
Tự nhận
mình độc quyền là con cái của Chúa,
Và mỗi
người trong số họ đầy rẫy các phe phái.
Xin Chúa
hãy cho chúng con được mơ giấc mơ một lần nữa
Chỉ có
Chúa mới có thể làm được:
Rằng tất
cả chúng con có thể nên một
Nếu
chúng con tin và đi theo Người
Đấng đã
chịu chết để hiệp nhất tất cả những ai đang tản mác,
Nhờ Đức
Giêsu Kitô, Chúa chúng con đến muôn đời.
2. Phúc Âm – Gioan 11:45-56
Khi ấy,
trong những người đến thăm Maria và được chứng kiến việc Chúa Giêsu làm, có nhiều
kẻ đã tin vào Người. Nhưng trong nhóm có
kẻ đi gặp Người Biệt Phái và thuật lại các việc Chúa Giêsu đã làm.
Do đó.
Các thượng tế và Biệt Phái họp công nghị, và nói: “Chúng ta phải xử trí sao đây? Vì người này làm nhiều phép lạ. Nếu chúng ta để mặc người ấy làm như thế, thì
mọi người sẽ tin theo và quân Rôma sẽ kéo đến phá hủy nơi này và dân tộc ta”.
Một người
trong nhóm là Caipha làm thượng tế năm đó, nói với họ rằng: “Quý vị không hiểu gì cả! Quý vị không nghĩ rằng thà một người chết
thay cho dân, còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt”. Không phải tự ông nói điều đó, nhưng với danh
nghĩa là thượng tế năm ấy, ông đã nói tiên tri rằng Chúa Giêsu phải chết thay
cho dân, và không phải cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa
đang tản mác về một mối.
Bởi vậy,
từ ngày đó, họ quyết định giết Người. Vì
thế Chúa Giêsu không còn công khai đi lại giữa người Do Thái nữa. Người đi về miền gần hoang địa, đến thành phố
tên là Ephrem, và ở lại đó với các môn đệ.
Khi đó đã đến gần Lễ Vượt Qua của người Do Thái. Có nhiều người từ các miền lên Giêrusalem trước
lễ, để được thanh tẩy. Họ tìm Chúa
Giêsu; họ đứng trong Đền Thờ và bàn tán với nhau: “Anh em nghĩ sao? Người có đến hay không?” Còn các thượng tế và Biệt Phái đã ra lệnh rằng
nếu ai biết Người ở đâu, thì phải tố cáo để họ bắt Người.
3. Suy Niệm
- Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta phần cuối của
câu chuyện dài về sự sống lại của Lagiarô tại làng Bêtania, trong ngôi nhà của
các bà Máctha và Maria (Ga 11:1-56). Việc
sống lại của ông Lagiarô là dấu chỉ (phép lạ) thứ bảy của Chúa Giêsu trong sách
Tin Mừng Gioan và cũng là tột đỉnh và điểm quyết định của sự mặc khải mà Người
đã làm về Thiên Chúa và về chính mình.
- Cộng đoàn nhỏ bé tại Bêtania, nơi Chúa Giêsu
thường lui tới, phản ánh tình trạng và phong cách sống của cộng đoàn nhỏ bé của
người Môn Đệ Chúa Yêu vào cuối thế kỷ thứ nhất tại miền Tiểu Á. Bêtania có nghĩa là “Ngôi nhà của Người
Nghèo”. Chúng là những cộng đoàn nghèo
khó, bần cùng, Máctha có nghĩa là “Bà Quản” (điều hợp viên): người phụ nữ điều phối việc cộng đoàn. Lagiarô có nghĩa là “Thiên Chúa là Đấng phù
trợ tôi”: cộng đoàn nghèo khó nên tất cả
đều trông đợi từ Thiên Chúa. Maria có
nghĩa là “người được Đức Giavê yêu mến”:
bà là người môn đệ Chúa yêu, hình ảnh của cộng đoàn. Câu chuyện Lagiarô sống lại thông tri điều chắc
chắn này: Chúa Giêsu là nguồn mạch sự sống
cho tất cả những ai tin vào Ngài.
- Ga 11:45-46:
Dư âm của Dấu Lạ Thứ Bảy trong dân chúng. Sau việc sống lại của Lagiarô (Ga 11:1-44),
có lời mô tả về dư âm của dấu lạ này trong dân chúng. Người ta bị chia rẽ: “trong số những người Do Thái đến thăm cô
Maria, và được chứng kiến việc Đức Giêsu làm, có nhiều kẻ đã tin vào Người”. Nhưng lại có một số trong bọn họ đã đi gặp
người Biệt Phái và thuật lại các việc Chúa Giêsu đã làm.
Nhóm thứ
hai đã đi tố cáo Chúa. Để có thể hiểu được
phản ứng này của một phần dân chúng, chúng ta là cần phải biết rằng một nửa dân
thành Giêrusalem hoàn toàn phụ thuộc vào Đền Thờ để có thể sống còn. Bởi vì điều này, sẽ rất khó cho họ hỗ trợ một
tiên tri vô danh tiểu tốt từ xứ Galilêa là kẻ đã chỉ trích Đền Thờ và giới chức
thẩm quyền. Điều này cũng giải thích tại
sao có một số người thậm chí đã sẵn sàng để đi tố cáo với các giới chức thẩm
quyền.
- Ga 11:47-53:
Dư âm của Dấu Lạ Thứ Bảy trong số những giới chức thẩm quyền. Tin tức về sự sống lại của Lagiarô đã làm gia
tăng thanh thế của Chúa Giêsu. Đây là lý
do mà các nhà lãnh đạo tôn giáo đã triệu tập một cuộc họp thượng công nghị
(Synedrium), cơ quan tối cao, để xử trí việc loại trừ Người; bởi vì: “Người này đã làm nhiều dấu lạ. Nếu chúng ta để mặc người ấy làm như thế, thì
mọi người sẽ tin theo và quân La Mã sẽ kéo đến phá hủy Thánh Địa và dân tộc
ta”. Họ sợ quân La Mã. Và bởi vì trong quá khứ đã cho thấy điều này
nhiều lần bởi các cuộc xâm lăng của người La Mã vào khoảng thời gian từ năm 64
trước Công Nguyên cho đến thời Chúa Giêsu, người La Mã đã đàn áp thô bạo với bất
kỳ nỗ lực nổi dậy nào của công chúng (Xem Cv 5:35-37). Trong trường hợp của Chúa Giêsu, phản ứng của
người La Mã có thể dẫn đến việc mất mát tất cả mọi thứ, thậm chí cả Đền Thờ và
địa vị đặc quyền của các tư tế. Bởi vì
điều này, Caipha, vị Thượng Tế, quyết định:
“thà một người chết thay cho dân, còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt”. Và Thánh Sử còn chú thích: “Không phải tự ông nói điều đó, nhưng với
danh nghĩa là thượng tế năm ấy, ông đã nói tiên tri rằng Chúa Giêsu phải chết
thay cho dân, và không phải cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên
Chúa đang tản mác về một mối.” Vì vậy, bắt
đầu từ lúc đó, các thượng tế lo âu bởi vì ảnh hưởng của Chúa Giêsu tăng dần và
họ bị thúc đẩy bởi nỗi sợ hãi người La Mã, nên đã quyết định giết Chúa Giêsu.
- Ga 11:54-56:
Dư âm của dấu lạ thứ bảy trong cuộc đời của Chúa Giêsu. Kết quả cuối cùng là Chúa Giêsu đã phải sống ẩn
mình. “Vì thế Chúa Giêsu không còn công
khai đi lại giữa người Do Thái nữa. Người
đi về miền gần hoang địa, đến thành phố tên là Ephrem, và ở lại đó với các môn
đệ.” Lễ Vượt Qua của người Do Tái đã gần
kề. Vào thời điểm này trong năm, dân số
thành Giêrusalem tăng gấp ba bởi vì số lượng lớn khách hành hương. Tất cả những cuộc bàn tán đã xoay quanh về
Chúa Giêsu: “Anh em nghĩ sao? Người có đến hay không?” Trong cùng một cách, tại thời điểm mà sách
Tin Mừng này được viết vào cuối thế kỷ thứ nhất, thời kỳ đàn áp của Hoàng Đế
Đômitian (năm 81-96), các cộng đoàn Kitô hữu là những người sống vào công quả của
người khác đã bị buộc phải sống lẩn tránh như thế.
- Chìa khóa để hiểu được dấu chỉ thứ bảy sự sống
lại của Lagiarô. Lagiarô bị ốm. Các chị của ông là Máctha và Maria đã cử người
đến mời Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, người Thầy
thương mến đang bị đau nặng!” (Ga 11:3-5).
Chúa Giêsu đáp lại lời yêu cầu và giải thích cho các môn đệ: ‘Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp
để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn
vinh” (Ga 11:4). Trong Tin Mừng Gioan, sự
tôn vinh của Chúa Giêsu đi qua cái chết của Người (Ga 12:23; 17:1). Một trong những nguyên nhân của việc bị lên
án tử của Chúa là sự sống lại của Lagiarô (Ga 11:50; 12:10). Nhiều người Do Thái đang ở trong nhà của
Máctha và Maria để an ủi họ vì sự mất mát của người em các bà. Người Do Thái, đại diện cho Cựu Ước, chỉ có
biết an ủi. Họ không cho cuộc sống mới… Chúa Giêsu là Đấng mang lại sự sống mới! Như thế, một mặt, mối đe dọa án tử cho Chúa
Giêsu. Mặt khác, Chúa Giêsu chiến thắng
sự chết! Trong bối cảnh này của sự mâu
thuẫn giữa sự sống và cái chết là dấu lạ thứ bảy sự sống lại của Lagiarô xảy
ra. Máctha nói rằng bà tin vào sự sống lại. Những người Biệt Phái và đa số người dân nói
rằng họ tin vào sự Phục Sinh (Cv 23:6-10; Mc 12:18). Họ tin, nhưng họ không mặc khải điều ấy. Đó
chỉ là đức tin vào sự sống lại vào ngày tận thế mà không tin vào sự sống lại hiện
diện trong lịch sử, ngay bây giờ và tại đây.
Đức tin cổ xưa này đã không đổi mới sự sống. Nó chưa đủ để tin vào sự sống lại sẽ đến vào
ngày tận thế, mà nó còn cần thiết tin vào sự Phục Sinh đã hiện diện ở đây và
bây giờ trong con người của Chúa Giêsu và trong những ai tin vào Chúa
Giêsu. Trên những người này, sự chết
không còn có bất cứ một năng lực nào, bởi vì Đức Giêsu là “sự sống lại và là sự
sống”. Ngay cả khi không nhìn thấy dấu
chỉ cụ thể sự sống lại của Lagiarô, bà Máctha đã tuyên xưng đức tin của
mình: “Con tin rằng Thầy là Đức Kitô,
Con Thiên Chúa hằng sống, Đấng phải đến thế gian” (Ga 11:27).
Chúa Giêsu
ra lệnh lăn tảng đá sang một bên. Bà
Máctha phản ứng: “Thưa Thầy, nặng mùi rồi,
vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày!” (Ga 11:40). Người ta lăn tảng đá sang bên. Trước ngôi mộ mở và trước những kẻ không tin,
Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha. Trong
lời cầu nguyện của Người, trước hết, Người dâng lời tạ ơn: “Lạy Cha, Con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời
con. Phần Con, Con biết Cha hằng nhậm lời
Con!” (Ga 11:41-42). Đức Giêsu biết Chúa
Cha và tin tưởng vào Ngài. Nhưng giờ đây
Người cầu xin một dấu lạ bởi vì dân
chúng đứng chung quanh Người, để họ có thể tin rằng Người, Đức Giêsu, đã được
Chúa Cha sai đến. Nói xong, Người kêu lớn
tiếng: “Lagiarô, hãy ra khỏi mồ!” Lagiarô liền đi ra (Ga 11:43-44). Đây là chiến thắng của sự sống trước cái chết,
của đức tin trước sự vô tín. Một nông
phu đã nhận xét: “Tự chúng ta phải lăn bỏ
tảng đá. Và tùy thuộc vào Thiên Chúa để
phục sinh cộng đoàn. Có những người
không biết cách để loại bỏ tảng đá, và vì thế cộng đoàn của họ không có sự sống!
4. Một vài câu hỏi gợi ý cho việc suy gẫm cá
nhân
- Đối với tôi, tin vào sự sống lại có ý nghĩa cụ
thể gì?
- Một phần dân chúng đã chấp nhận Chúa Giêsu,
và một phần đã không chấp nhận. Ngày
nay, một phần nhân loại chấp nhận sự canh tân của Giáo Hội và một phần thì
không. Còn bạn thì sao?
5. Lời nguyện kết
Lạy
CHÚA, chính Ngài là Đấng con trông đợi,
Lạy ĐỨC
CHÚA, chính Ngài là Đấng con tin tưởng
Ngay từ
độ thanh xuân.
Từ thuở
sơ sinh, con nương tựa vào Ngài,
Ngài đã
kéo con ra khỏi lòng mẹ,
Con ca tụng
Ngài chẳng khi ngơi.
(Tv
71:5-6)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét