05/04/2020
Chúa Nhật Lễ LÁ
năm A.
(phần I)
Kiệu Lá:
Bài Phúc Âm: Mt 21, 1-11
"Chúc tụng Ðấng nhân danh
Chúa mà đến".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi các ngài đến gần Giêrusalem,
vào địa hạt Bếtphaghê, giáp núi Cây Dầu, Chúa Giêsu sai hai môn đệ đi và bảo rằng:
"Các con hãy đến làng trước mặt kia, sẽ gặp ngay một con lừa mẹ cột ở đó với
con lừa con. Các con hãy mở dây, dẫn về đây cho Thầy; và nếu có ai bảo các con
điều gì, thì hãy nói: Chúa cần đến chúng, và Ngài sẽ gởi trả lại ngay". Mọi
việc này xảy ra để ứng nghiệm lời tiên tri đã phán:
"Các ngươi hãy bảo thiếu nữ
Sion rằng: Kìa vua ngươi nhân ái đến cùng ngươi, ngồi trên lừa mẹ và lừa con,
là con của con vật chở đồ".
Các môn đệ ra đi và làm theo lời
Chúa Giêsu dạy bảo. Hai môn đệ dẫn lừa mẹ và lừa con về, trải áo lên mình chúng
và đặt Chúa ngồi lên trên. Phần đông dân chúng trải áo xuống đường, kẻ khác thì
chặt nhành cây trải lối đi. Dân chúng kẻ thì đi trước, người theo sau tung hô rằng:
"Hoan hô con vua Ðavit! Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô trên
các tầng trời!"
Khi Ngài vào thành Giêrusalem,
thì cả thành phố náo động và nói rằng: "Người đó là ai vậy?" Dân
chúng trả lời rằng: "Người ấy là Tiên tri Giêsu, xuất thân từ Nadarét, xứ
Galilêa".
Ðó là lời Chúa.
Thánh Lễ:
Bài Ðọc I: Is 50, 4-7
"Tôi đã không giấu mặt mũi
tránh những lời nhạo cười, nhưng tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn".
(Bài ca thứ ba về Người Tôi Tớ
Chúa)
Trích sách Tiên tri Isaia.
Chúa đã ban cho tôi miệng lưỡi
đã được huấn luyện, để tôi biết dùng lời nói nâng đỡ kẻ nhọc nhằn. Mỗi sáng Người
đánh thức tôi, Người thức tỉnh tai tôi, để nghe lời Người giáo huấn. Thiên Chúa
đã mở tai tôi, mà tôi không cưỡng lại và cũng chẳng thối lui. Tôi đã đưa lưng
cho kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu; tôi đã không che giấu mặt mũi,
tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi. Vì Chúa nâng đỡ tôi, nên
tôi không phải hổ thẹn; nên tôi trơ mặt chai như đá, tôi biết tôi sẽ không phải
hổ thẹn.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 21, 8-9. 17-18a. 19-20.
23-24
Ðáp: Ôi Thiên Chúa! Ôi Thiên Chúa! sao Chúa đã bỏ con? (c. 2a)
Xướng: 1) Bao người thấy con đều
mỉa mai con, họ bĩu môi, họ lắc đầu: "Hắn tin cậy Chúa, xin Ngài cứu hắn,
xin Ngài giải gỡ hắn, nếu Ngài yêu thương". - Ðáp.
2) Ðứng quanh con là đàn ưng
khuyển, một lũ côn đồ bao bọc lấy con. Chân tay con chúng đều chọc thủng, con
có thể đếm được mọi đốt xương con. - Ðáp.
3) Phần chúng thì nhìn xem con
và vui vẻ, đem y phục của con chia sẻ với nhau, còn tấm áo dài, thì chúng rút
thăm... Phần Ngài, lạy Chúa, xin chớ đứng xa con, ôi Ðấng phù trợ con, xin kíp
ra tay nâng đỡ. - Ðáp.
4) Con sẽ tường thuật danh Chúa
cho các anh em, giữa nơi công hội, con sẽ ngợi khen Người. "Chư quân là
người tôn sợ Chúa, xin hãy ca khen Chúa, toàn thể miêu duệ nhà Giacóp, hãy chúc
tụng Người, hãy tôn sợ Người, hết thảy dòng giống Israel!" - Ðáp.
Bài Ðọc II: Pl 2, 6-11
"Người đã tự hạ mình; vì thế
Thiên Chúa đã tôn vinh Người".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi
tín hữu Philipphê.
Chúa Giêsu Kitô, tuy là thân phận
Thiên Chúa, đã không nghĩ phải giành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại,
Người huỷ bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như
loài người, với cách thức bề ngoài như một người phàm. Người đã tự hạ mình mà
vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh
Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu, để khi nghe tên
Giêsu, mọi loài trên trời dưới đất và trong địa ngục phải quỳ gối xuống, và mọi
miệng lưỡi phải tuyên xưng Ðức Giêsu Kitô là Chúa để Thiên Chúa Cha được vinh
quang.
Ðó là lời Chúa.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Pl 2, 8-9
Chúa Kitô vì chúng ta, đã vâng lời
cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và
ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu.
Bài Thương Khó: Mt 26, 14 - 27, 66 (bài dài)
"Sự Thương Khó Ðức Giêsu
Kitô, Chúa chúng ta".
C: Người đọc Chung, Thánh Sử; S: Người đối
thoại khác, hoặc Cộng đoàn. J: Chúa Giêsu
C. Bài Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh
Matthêu.
Khi ấy, một trong nhóm Mười Hai,
tên là Giuđa Iscariô, đi gặp các thượng tế và nói với họ:
S. "Các ông cho tôi bao nhiêu, tôi nộp Người cho các
ông?"
C. Họ liền ấn định cho ba mươi đồng bạc. Và từ đó, hắn tìm dịp
thuận tiện để nộp Người. Ngày thứ nhất tuần lễ ăn bánh không men, các môn đệ đến
thưa Chúa Giêsu rằng:
J. "Thầy muốn chúng con sửa soạn cho Thầy ăn Lễ Vượt Qua
ở đâu?"
C. Chúa Giêsu đáp:
J. "Các con hãy vào thành, đến với một người kia nói rằng:
Thầy bảo, giờ Ta đã gần, Ta sẽ mừng Lễ Vượt Qua với các môn đệ tại nhà
ông".
C. Các môn đệ làm như Chúa Giêsu truyền và sửa soạn Lễ Vượt
Qua. Chiều đến, Người ngồi bàn ăn với mười hai môn đệ.
Và khi các ông đang ăn, Người
nói:
J. "Thầy nói thật với các con: có một người trong các
con sẽ nộp Thầy".
C. Môn đệ rất buồn rầu và từng người bắt đầu hỏi Người:
S. "Thưa Thầy, có phải con không?"
C. Người trả lời rằng:
J. "Kẻ giơ tay cùng chấm vào đĩa với Thầy, đó chính là kẻ
nộp Thầy. Thực ra, Con Người sẽ ra đi như đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ sẽ
nộp Con Người! Thà người đó đừng sinh ra thì hơn!"
C. Giuđa, kẻ phản bội, cũng thưa Người rằng:
S. "Thưa Thầy, có phải con chăng?"
C. Chúa đáp:
J. "Ðúng như con nói".
C. Vậy khi mọi người còn đang ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc
lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ mà phán:
J. "Các con hãy cầm lấy mà ăn, vì này là Mình Ta".
C. Ðoạn Người cầm lấy chén, tạ ơn, rồi trao cho các môn đệ mà
phán:
J. "Tất cả các con hãy uống chén này, vì này là Máu Ta,
Máu Tân Ước, sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội. Thầy bảo các con: Từ nay,
Thầy sẽ không còn uống chất nho này nữa cho đến ngày Thầy sẽ uống rượu mới cùng
các con trong nước Cha Thầy".
C. Sau khi hát thánh vịnh, Thầy trò liền lên núi Ôliu. Bấy giờ
Chúa Giêsu bảo các ông:
J. "Tất cả các con sẽ vấp phạm vì Thầy trong chính đêm
nay, vì có lời chép rằng: "Ta sẽ đánh chủ chăn, và các chiên trong đoàn sẽ
tan tác". Nhưng sau khi Thầy sống lại, Thầy sẽ đến xứ Galilêa trước các
con".
C. Phêrô liền thưa:
S. "Dù tất cả vấp phạm vì Thầy, riêng con, con sẽ không
bao giờ vấp phạm".
C. Chúa Giêsu đáp:
J. "Thầy bảo thật con, chính đêm nay, trước khi gà gáy,
con sẽ chối Thầy ba lần".
C. Phêrô lại thưa:
S. "Dù có phải chết cùng Thầy, con sẽ không chối Thầy".
C. Và tất cả các môn đệ cùng nói như vậy.
Rồi Chúa Giêsu cùng đi với các
ông đến một chỗ gọi là Ghếtsêmani, và Người bảo các môn đệ:
J. "Các con hãy ngồi đây để Thầy đến đàng kia cầu nguyện".
C. Ðoạn Chúa đưa Phêrô và hai người con ông Giêbêđê cùng đi,
Người bắt đầu cảm thấy buồn bực và sầu não. Lúc ấy, Người bảo các ông:
J. "Linh hồn Thầy buồn sầu đến nỗi chết được; các con
hãy ở lại đây và thức với Thầy".
C. Tiến xa hơn một chút, Người sấp mặt xuống, cầu nguyện và
nói:
J. "Lạy Cha, nếu được, xin cho Con khỏi chén này! Nhưng
đừng như ý Con muốn, một theo ý Cha muốn".
C. Người trở lại cùng các môn đệ và thấy các ông đang ngủ, liền
nói với Phêrô:
J. "Chẳng lẽ các con không thức cùng Thầy được lấy một
giờ ư? Hãy tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi lâm cơn cám dỗ: vì tinh thần thì
lanh lẹ, nhưng xác thịt thì yếu đuối".
C. Rồi Người lại đi cầu nguyện lần thứ hai mà rằng:
J. "Lạy Cha, nếu chén này không thể qua đi được mà Con
phải uống, thì xin theo ý Cha".
C. Ðoạn Người trở lại và thấy các ông còn ngủ, vì mắt các ông
nặng trĩu. Người để mặc các ông và đi cầu nguyện lần thứ ba, vẫn lại những lời
như trước. Sau đó Người trở lại với các môn đệ và bảo:
J. "Bây giờ các con hãy ngủ và nghỉ ngơi đi! Này sắp đến
giờ Con Người sẽ bị nộp trong tay những kẻ tội lỗi. Các con hãy chỗi dậy. Chúng
ta hãy đi: này kẻ nộp Thầy đã tới gần".
C. Người còn đang nói, thì đây, Giuđa, một trong nhóm mười
hai, và cùng với y có lũ đông mang gươm giáo gậy gộc, do các thượng tế và kỳ
lão trong dân sai đến. Vậy tên nội công đã dặn họ ám hiệu này:
S. "Hễ tôi hôn người nào, thì đó chính là Người, các ông
hãy bắt lấy".
C. Tức khắc Giuđa tới gần Chúa Giêsu và nói:
S. "Chào Thầy".
C. Và nó hôn Người. Nhưng Chúa Giêsu bảo:
J. "Hỡi bạn, bạn đến đây làm chi?"
C. Lúc đó chúng xông tới, tra tay bắt Chúa Giêsu. Ngay sau
đó, một trong những người vẫn theo Chúa Giêsu, giơ tay rút gươm và chém tên đầy
tớ thầy thượng tế đứt một tai. Chúa Giêsu liền bảo:
J. "Con hãy xỏ ngay gươm vào bao: vì tất cả những kẻ
dùng gươm sẽ chết vì gươm. Nào con tưởng rằng Thầy không thể xin Cha Thầy và
Ngài sẽ tức khắc gởi đến hơn mười hai cơ binh thiên thần sao? Mà như thế thì
làm sao ứng nghiệm lời Kinh Thánh bảo: Sự thế phải như vậy?"
C. Lúc đó Chúa Giêsu nói cùng đám đông rằng:
J. "Các ngươi cầm gươm giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt
tên cướp ư? Hằng ngày Ta ngồi trong đền thờ, giữa các ngươi, mà các ngươi không
bắt Ta. Nhưng tất cả sự đó xảy ra là để ứng nghiệm lời các tiên tri đã
chép".
C. Bấy giờ các môn đệ bỏ Người và chạy trốn hết.
Những kẻ đã bắt Chúa Giêsu điệu
Người đến thầy thượng tế Caipha. Nơi đây các luật sĩ và kỳ lão đã hội họp.
Phêrô theo Người xa xa cho tới dinh thầy thượng tế. Rồi ông vào trong dinh ngồi
cùng bọn đầy tớ, xem việc xảy ra thế nào. Vậy các thượng tế và tất cả công nghị
tìm chứng gian cáo Chúa Giêsu để lên án xử tử Người. Và họ đã không tìm được, mặc
dù đã có một số đông chứng nhân ra mắt. Sau cùng, hai người làm chứng gian đến
khai rằng:
S. "Người này đã nói: Ta có thể phá đền thờ Thiên Chúa
và xây cất lại trong ba ngày".
C. Bấy giờ thầy thượng tế đứng lên nói:
S. "Ông không trả lời gì về các điều những người này đã
cáo ông ư?"
C. Nhưng Chúa Giêsu làm thinh, nên thầy thượng tế bảo Người:
S. "Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, ta truyền cho ông
hãy nói cho chúng ta biết: Ông có phải là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa
không?"
C. Chúa Giêsu trả lời:
J. "Ông đã nói đúng. Nhưng Ta nói thật với các ông: rồi
đây các ông sẽ xem thấy Con Người ngự bên hữu Ðấng Toàn Năng, và sẽ đến trên
đám mây".
C. Bấy giờ thầy thượng tế xé áo mình ra và nói:
S. "Nó đã nói lộng ngôn! Chúng ta còn cần gì đến nhân chứng
nữa? Ðây các ngài vừa nghe lời lộng ngôn. Các ngài nghĩ sao?"
C. Họ đáp lại:
S. "Nó đáng chết!"
C. Bấy giờ chúng nhổ vào mặt Người, đấm đánh Người, lại có kẻ
tát vả Người mà nói rằng:
S. "Hỡi Kitô, hãy bói xem, ai đánh ông đó?"
C. Còn Phêrô ngồi ở ngoài sân. Một đầy tớ gái lại gần và nói:
S. "Ông nữa, ông cũng đã theo Giêsu người xứ
Galilêa".
C. Nhưng ông chối trước mặt mọi người mà rằng:
S. "Tôi không hiểu chị muốn nói gì?"
C. Khi ông lui ra đến cổng, một đầy tớ gái khác thấy ông, liền
nói với những người ở đó:
S. "Ông này cũng theo Giêsu người Nadarét".
C. Ông thề mà chối rằng:
S. "Tôi không biết người ấy".
C. Một lúc sau, mấy người đứng đó lại gần mà nói với Phêrô rằng:
S. "Ðúng rồi, ngươi cũng thuộc bọn ấy. Vì chính giọng
nói của ngươi tiết lộ tông tích ngươi".
C. Bấy giờ ông rủa mà thề rằng: ông không hề biết người ấy. Tức
thì gà gáy. Phêrô nhớ lại lời Chúa Giêsu đã nói: "Trước khi gà gáy, con sẽ
chối Ta ba lần", và ông ra ngoài khóc lóc thảm thiết.
Trời vừa sáng, các thượng tế và
kỳ lão trong dân hội họp bày mưu giết Chúa Giêsu. Họ trói Người và điệu đi nộp
cho tổng trấn Phongxiô Philatô. Bấy giờ Giuđa, kẻ nộp Người, thấy Người bị kết
án thì hối hận, đem ba mươi đồng bạc trả lại cho các thượng tế và kỳ lão mà nói
rằng:
S. "Tôi đã phạm tội vì nộp máu người công chính".
C. Nhưng họ trả lời:
S. "Can chi đến chúng tôi! Mặc kệ anh!"
C. Anh ta ném những đồng bạc đó vào trong đền thờ và ra đi thắt
cổ. Các thượng tế lượm lấy bạc đó và nói:
S. "Không nên để bạc này vào kho vì là giá máu".
C. Sau khi bàn bạc, họ lấy tiền đó mua thửa ruộng của người
thợ gốm làm nơi chôn cất những người ngoại kiều. Bởi thế, ruộng ấy cho đến ngày
nay được gọi là Haselđama, nghĩa là ruộng máu. Như vậy là ứng nghiệm lời tiên
tri Giêrêmia nói: "Chúng đã lấy ba mươi đồng bạc là giá do con cái Israel
đã mặc cả mà bán Ðấng cao trọng. Và họ mang tiền đó mua ruộng của người thợ gốm
như lời Chúa đã truyền cho tôi".
Vậy Chúa Giêsu đứng trước quan tổng
trấn, và quan hỏi Người rằng:
S. "Ông có phải là Vua dân Do-thái không?"
C. Chúa Giêsu đáp:
J. "Ông nói đúng!"
C. Nhưng khi các thượng tế và kỳ lão tố cáo Người thì Người không
trả lời chi cả. Bấy giờ Philatô bảo Người:
S. "Ông không nghe thấy tất cả những điều họ tố cáo ông
sao?"
C. Chúa Giêsu cũng không đáp lại về một điều nào, khiến quan
tổng trấn hết sức ngạc nhiên.
Vào mỗi dịp lễ trọng, quan tổng
trấn có thói quen phóng thích cho dân một người tù tuỳ ý họ xin. Lúc ấy có một
phạm nhân nổi tiếng tên là Baraba. Vậy Philatô nói với dân chúng đã tụ tập lại
đó rằng:
S. "Các ngươi muốn ta phóng thích ai, Baraba hay Giêsu
mà người ta vẫn gọi là Kitô?"
C. Quan biết rõ chỉ vì ghen ghét mà chúng đã nộp Người. Vậy
trong khi quan ngồi xét xử, bà vợ sai người nói cùng quan rằng:
S. "Xin ông đừng can thiệp gì đến vụ người công chính ấy,
vì hôm nay trong một giấc chiêm bao, tôi đã phải đau khổ rất nhiều vì người ấy".
C. Nhưng các thượng tế và kỳ lão xúi giục dân xin tha Baraba
và giết Chúa Giêsu. Quan lại lên tiếng hỏi họ:
S. "Trong hai người đó các ngươi muốn ta phóng thích
ai?"
C. Họ thưa:
S. "Baraba!"
C. Philatô hỏi:
S. "Vậy đối với Giêsu gọi là Kitô, ta phải làm gì?"
C. Họ đồng thanh đáp:
S. "Ðóng đinh nó đi!"
C. Quan lại hỏi:
S. "Nhưng người này đã làm gì nên tội?"
C. Chúng càng la to:
S. "Ðóng đinh nó đi!"
C. Bấy giờ Philatô thấy mất công, lại thêm náo động, nên ông
lấy nước rửa tay trước mặt dân chúng và nói:
S. "Ta vô can về máu người công chính này, mặc kệ các
ngươi".
C. Toàn dân đáp:
S. "Hãy để cho máu nó đổ trên chúng tôi và trên con cái
chúng tôi".
C. Bấy giờ quan phóng thích Baraba cho họ, còn Chúa Giêsu thì
trao cho họ đánh đòn, rồi đem đi đóng đinh vào thập giá.
Bấy giờ lính tổng trấn liền điệu
Chúa Giêsu vào trong công đường và tập họp cả cơ đội lại chung quanh Người. Họ
lột áo Người ra, khoác cho Người một áo choàng đỏ, rồi quấn một vòng gai đặt
trên đầu Người và trao vào tay mặt Người một cây sậy, họ quỳ gối trước mặt Người
mà nhạo báng rằng:
S. "Tâu vua dân Do-thái!"
C. Ðoạn họ khạc nhổ vào Người và lấy cây sậy đập trên đầu Người.
Khi đã chế nhạo Người xong, họ lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục cũ lại cho Người
và điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Lúc đi ra, họ gặp một người thành
Xyrênê tên là Simon, liền bắt ông vác đỡ thánh giá cho Người.
Họ đi đến một nơi gọi là
Golgotha, nghĩa là Núi Sọ. Họ cho Người uống rượu hoà với mật đắng, Người chỉ nếm
qua nhưng không muốn uống. Khi đã đóng đinh Người trên thập giá rồi, họ rút thăm
chia nhau áo Người, để ứng nghiệm lời tiên tri rằng: "Chúng đã chia nhau
áo Ta, còn áo ngoài của Ta, chúng đã bắt thăm". Rồi họ ngồi lại canh Người.
Họ cũng đặt trên đầu Người bản án viết như sau: Người này là Giêsu, vua dân
Do-thái. Lúc ấy, cùng với Người, họ đóng đinh hai tên trộm cướp, một tên bên hữu,
một tên bên tả.
Những người đi ngang qua, lắc đầu
chế diễu Người và nói:
S. "Kìa, ngươi là kẻ phá đền thờ và xây cất lại trong ba
ngày, hãy tự cứu mình đi, nếu là Con Thiên Chúa, thì hãy xuống khỏi thập giá
đi!"
C. Các thượng tế cùng luật sĩ và kỳ lão cũng chế nhạo Người rằng:
S. "Nó đã cứu được kẻ khác mà không cứu nổi chính mình!
Nếu nó là vua dân Do-thái, thì bây giờ hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta sẽ
tin nó. Nó đã trông cậy Thiên Chúa, nếu Ngài thương nó thì bây giờ Ngài hãy cứu
nó, vì nó nói: "Ta là Con Thiên Chúa!"
C. Cả những tên cướp bị đóng đinh trên thập giá với Người
cũng nhục mạ Người như thế. Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, khắp cả xứ đều tối
tăm mù mịt. Vào khoảng giờ thứ chín thì Chúa Giêsu kêu lớn tiếng:
J. "Eli, Eli, lema sabachtani!"
C. Nghĩa là:
J. "Lạy Chúa con, lạy Chúa con! sao Chúa bỏ con!"
C. Có mấy người đứng đó nghe vậy nói rằng:
S. "Nó gọi tiên tri Elia".
C. Lập tức một người trong bọn chạy đi lấy một miếng bọt biển,
nhúng đầy dấm và cuốn vào đầu cây sậy và đưa lên cho Người uống. Nhưng có kẻ lại
bảo:
S. "Hãy chờ xem Elia có đến cứu nó không?"
C. Ðoạn Chúa Giêsu lại kêu lên lớn tiếng và trút hơi thở.
(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy
trong giây lát)
Bỗng nhiên màn đền thờ xé ra làm
đôi từ trên xuống dưới, đất chuyển động, đá nứt ra. Các mồ mả mở tung và xác của
nhiều vị thánh đã qua đời được sống lại. Và sau khi Chúa sống lại, họ ra khỏi mồ,
vào thành thánh và hiện ra cùng nhiều người. Còn viên sĩ quan và những kẻ cùng
ông canh giữ Chúa Giêsu, thấy đất chuyển động và các sự xảy ra, thì thất kinh sợ
hãi và nói:
S. "Ðúng người này là Con Thiên Chúa".
C. Ở đó cũng có nhiều phụ nữ đứng xa xa; họ là những người đã
theo giúp Chúa Giêsu từ xứ Galilêa. Trong số đó có Maria Mađalêna, Maria mẹ của
Giacôbê và Giuse, và mẹ các người con của Giêbêđê.
Tới chiều có một người giàu sang
quê ở Arimathia tên là Giuse, cũng đã làm môn đệ Chúa Giêsu, ông đi gặp Philatô
và xin xác Chúa Giêsu. Bấy giờ Philatô truyền giao xác cho ông. Vậy ông Giuse lấy
xác, liệm trong một khăn sạch, và đặt trong mồ mà ông đã cho đục trong đá, rồi
ông lăn một tảng đá lớn lấp cửa mồ lại và ra về. Còn Maria Mađalêna và bà Maria
kia cùng ngồi đó nhìn vào mộ.
Hôm sau, tức là sau ngày chuẩn bị
mừng lễ, các thượng tế và biệt phái đến dinh Philatô trình rằng:
S. "Thưa ngài, chúng tôi nhớ, lúc sinh thời tên bịp bợm ấy
có nói: "Sau ba ngày, Ta sẽ sống lại". Vậy xin ngài truyền lệnh cho
canh mộ đến ngày thứ ba, kẻo môn đệ nó lấy trộm xác rồi phao đồn với dân chúng
rằng: Người đã từ cõi chết sống lại! Và như thế, sự gian dối này lại còn tai hại
hơn trước".
C. Philatô trả lời:
S. Các ông đã có lính canh thì cứ đi mà canh như ý.
C. Họ liền đi và đóng ấn niêm phong tảng đá và cắt lính canh
giữ mồ.
Hoặc đọc bài vắn này: Mt 27, 11-54
C. Bài Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh
Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu đứng trước tổng
trấn Phi-latô, và quan hỏi Người rằng:
S. "Ông có phải là Vua dân Do-thái không?"
C. Chúa Giêsu đáp:
J. "Ông nói đúng!"
C. Nhưng khi các thượng tế và kỳ lão tố cáo Người thì Người
không trả lời chi cả. Bấy giờ Philatô bảo Người:
S. "Ông không nghe thấy tất cả những điều họ tố cáo ông
sao?"
C. Chúa Giêsu cũng không đáp lại về một điều nào, khiến quan
tổng trấn hết sức ngạc nhiên.
Vào mỗi dịp lễ trọng, quan tổng
trấn có thói quen phóng thích cho dân một người tù tuỳ ý họ xin. Lúc ấy có một
phạm nhân nổi tiếng tên là Baraba. Vậy Philatô nói với dân chúng đã tụ tập lại
đó rằng:
S. "Các ngươi muốn ta phóng thích ai, Baraba hay Giêsu
mà người ta vẫn gọi là Kitô?"
C. Quan biết rõ chỉ vì ghen ghét mà chúng đã nộp Người. Vậy
trong khi quan ngồi xét xử, bà vợ sai người nói cùng quan rằng:
S. "Xin ông đừng can thiệp gì đến vụ người công chính ấy,
vì hôm nay trong một giấc chiêm bao, tôi đã phải đau khổ rất nhiều vì người ấy".
C. Nhưng các thượng tế và kỳ lão xúi giục dân xin tha Baraba
và giết Chúa Giêsu. Quan lại lên tiếng hỏi họ:
S. "Trong hai người đó các ngươi muốn ta phóng thích
ai?"
C. Họ thưa:
S. "Baraba!"
C. Quan lại lên tiếng hỏi họ:
S. "Vậy đối với Giêsu gọi là Kitô, ta phải làm gì?"
C. Họ đồng thanh đáp:
S. "Ðóng đinh nó đi!"
C. Quan lại hỏi:
S. "Nhưng người này đã làm gì nên tội?"
C. Chúng càng la to:
S. "Ðóng đinh nó đi!"
C. Bấy giờ Philatô thấy mất công, lại thêm náo động, nên ông
lấy nước rửa tay trước mặt dân chúng và nói:
S. "Ta vô can về máu người công chính này, mặc kệ các
ngươi".
C. Toàn dân đáp:
S. "Hãy để cho máu nó đổ trên chúng tôi và trên con cái
chúng tôi".
C. Bấy giờ quan phóng thích Baraba cho họ, còn Chúa Giêsu thì
trao cho họ đánh đòn, rồi đem đi đóng đinh vào thập giá.
Bấy giờ lính tổng trấn liền điệu
Chúa Giêsu vào trong công đường và tập họp cả cơ đội lại chung quanh Người. Họ
lột áo Người ra, khoác cho Người một áo choàng đỏ, rồi quấn một vòng gai đặt
trên đầu Người và trao vào tay mặt Người một cây sậy, họ quỳ gối trước mặt Người
mà nhạo báng rằng:
S. "Tâu vua dân Do-thái!"
C. Ðoạn họ khạc nhổ vào Người và lấy cây sậy đập trên đầu Người.
Khi đã chế nhạo Người xong, họ lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục cũ lại cho Người
và điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Lúc đi ra, họ gặp một người thành
Xyrênê tên là Simon, liền bắt ông vác đỡ thánh giá cho Người.
Họ đi đến một nơi gọi là
Golgotha, nghĩa là Núi Sọ. Họ cho Người uống rượu hoà với mật đắng, Người chỉ nếm
qua nhưng không muốn uống. Khi đã đóng đinh Người trên thập giá rồi, họ rút
thăm chia nhau áo Người, để ứng nghiệm lời tiên tri rằng: "Chúng đã chia
nhau áo Ta, còn áo ngoài của Ta, chúng đã bắt thăm". Rồi họ ngồi lại canh
Người. Họ cũng đặt trên đầu Người bản án viết như sau: Người này là Giêsu, vua
dân Do-thái. Lúc ấy, cùng với Người, họ đóng đinh hai tên trộm cướp, một tên
bên hữu, một tên bên tả.
Những người đi ngang qua, lắc đầu
chế diễu Người và nói:
S. "Kìa, ngươi là kẻ phá đền thờ và xây cất lại trong ba
ngày, hãy tự cứu mình đi, nếu là Con Thiên Chúa, thì hãy xuống khỏi thập giá
đi!"
C. Các thượng tế cùng luật sĩ và kỳ lão cũng chế nhạo Người rằng:
S. "Nó đã cứu được kẻ khác mà không cứu nổi chính mình!
Nếu nó là vua dân Do-thái, thì bây giờ hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta sẽ
tin nó. Nó đã trông cậy Thiên Chúa, nếu Ngài thương nó thì bây giờ Ngài hãy cứu
nó, vì nó nói: "Ta là Con Thiên Chúa!"
C. Cả những tên cướp bị đóng đinh trên thập giá với Người
cũng nhục mạ Người như thế. Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, khắp cả xứ đều tối
tăm mù mịt. Vào khoảng giờ thứ chín thì Chúa Giêsu kêu lớn tiếng:
J. "Eli, Eli, lema sabachtani!"
C. Nghĩa là:
J. "Lạy Chúa con, lạy Chúa con! sao Chúa bỏ con!"
C. Có mấy người đứng đó nghe vậy nói rằng:
S. "Nó gọi tiên tri Elia".
C. Lập tức một người trong bọn chạy đi lấy một miếng bọt biển,
nhúng đầy dấm và cuốn vào đầu cây sậy và đưa lên cho Người uống. Nhưng có kẻ lại
bảo:
S. "Hãy chờ xem Elia có đến cứu nó không?"
C. Ðoạn Chúa Giêsu lại kêu lên lớn tiếng và trút hơi thở.
(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong
giây lát)
Bỗng nhiên màn đền thờ xé ra làm
đôi từ trên xuống dưới, đất chuyển động, đá nứt ra. Các mồ mả mở tung và xác của
nhiều vị thánh đã qua đời được sống lại. Và sau khi Chúa sống lại, họ ra khỏi mồ,
vào thành thánh và hiện ra cùng nhiều người. Còn viên sĩ quan và những kẻ cùng
ông canh giữ Chúa Giêsu, thấy đất chuyển động và các sự xảy ra, thì thất kinh sợ
hãi và nói:
S. "Ðúng người này là Con Thiên Chúa".
Suy Niệm:
Chúa Nhật Lễ Lá Năm A
Kiệu Lá: Mt 21,1-11
Không tuần lễ nào nhiều lễ nghi bằng
tuần Thương khó này. Giáo hội cử hành mầu nhiệm trọng nhất, nên tuần lễ này
đáng gọi là Tuần Lễ Thánh. Và để chúng ta dễ tham dự các mầu nhiệm cử hành, Phụng
vụ tuần này đầy những biểu thị cụ thể, lọt vào mắt và rót vào tai. Chúng ta sẽ
cố gắng tham dự hết.
Mở đầu, Phụng vụ mời gọi chúng
ta cử hành việc Chúa long trọng vào thành Yêrusalem. Phụng vụ muốn chúng ta như
diễn lại chính sự kiện ấy. Thế nên chúng ta làm phép lá ở chỗ này, để rồi rước
vào nhà thờ, như Ðức Kitô ngày trước đã đến đứng ở Núi Cây Dầu rồi mới khởi
hành vào Yêrusalem.
Như chúng ta ngày nay chọn chỗ
này là chỗ thuận tiện nhất trong hoàn cảnh hiện đại để khởi sự cuộc kiệu, thì
ngày trước Ðức Kitô cũng đã chọn nơi ý nghĩa nhất để đi vào thành. Yacaria ngày
trước đã loan báo (14,4), khi đến cứu Dân, Chúa sẽ dừng chân trên Núi Cây Dầu,
Núi ở trước mặt Yêrusalem về phía Ðông. Người Dothái tin ở lời tiên tri ấy. Khi
một nhân vật nọ muốn xưng mình là Cứu Thế, ông đã hô hào dân chúng cùng ông lên
Núi Cây Dầu để xem ông ta hóa phép giải cứu Yêrusalem như thế nào. Ông ta chỉ
ngụy biện thôi, chứ có làm được gì. Tuy nhiên đối với dân chúng, lời tiên tri
Yacaria không vì vậy mà mất giá trị. Hôm nay mô tả Ðức Kitô khởi hành vào
Yêrusalem từ Núi Cây Dầu, các tác giả thánh muốn tuyên xưng Người là Cứu Thế và
Người vào thành để cứu độ chúng ta.
Matthêô còn thêm chi tiết hai
con lừa. Ông trích dẫn Yacaria (9,9) để làm chứng thêm Ðấng vào Yêrusalem hôm
nay là Vị Cứu tinh hiền hòa. Chỉ có điều ông đọc lời tiên tri hơi méo mó một
tí. Ông cắt bớt mấy câu trước quá hân hoan khải hoàn để cuộc vào thành của Ðức
Kitô có vẻ khiêm tốn hơn. Và nhất là thay vì đọc "một lừa con, con của lừa
mẹ" ông muốn có cả hai lừa mẹ cùng lừa con. Ông vẫn có thói quen tính gấp
đôi như thế trong tác phẩm. Ông là người "khôn ngoan trong Nước Trời biết
rút tự trong kho điều mới và điều cũ" (13,52). Yacaria chỉ nói đến "lừa
con, con của lừa mẹ", là cốt nhấn mạnh tính cách mới mẻ, chưa ai động tới,
chưa ai cỡi của con vật để Ðấng Cứu Thế dùng. Matthêô không bỏ điều ấy, nhưng
cũng không muốn thấy Ðức Kitô cỡi nguyên trên một lừa con yếu ớt. Ông muốn có cả
lừa mẹ, để nhấn mạnh thêm tính cách chắc chắn của việc Chúa sắp làm; và như vậy
cả mới cả cũ, cả con lẫn mẹ đều được sử dụng. Tuy nhiên ý tưởng chính vẫn là việc
Ðức Kitô cỡi lừa vào thành hôm nay thể hiện rõ rệt lời sách Yacaria và làm chứng
Người là Cứu Thế vào thành để cứu độ trong thái độ dịu hiền, khiêm tốn.
Người được đón tiếp như một
Hoàng đế theo kiểu Ðông phương: dân chúng tấp nập, kẻ trước người sau, trải áo
trên đường, rắc lá cho sang, reo hò inh ỏi. Những tiếng "Hosanna, Con Vua
Ðavít Ðấng đến nhân danh Thiên Chúa" nói lên niềm tin Ðức Yêsu là Thiên
Sai, Cứu Thế.
Nhưng đó chỉ là ý kiến của quần
chúng, của những kẻ đơn sơ khó nghèo. Vào tới thành, chỗ ở của những người giàu
sang, Ðấng Thiên Sai hiền từ khiêm nhu không được đón tiếp như vậy nữa. Và nếu
chúng ta còn nhớ: thánh Matthêô hay có những suy nghĩ về Giáo hội khi viết tác
phẩm của người; và Nagiarét xứ Galilê đối với người là biểu tượng về dân ngoại,
thì câu kết bài Tin Mừng vừa nghe đọc có nghĩa là: Ðức Yêsu, vị Tiên Tri thành
Nagiarét xứ Galilê, Vị Thủ Lãnh của Giáo hội gồm đa số các tín hữu từ dân ngoại,
đang ở giữa Yêrusalem cũ, đối nghịch và không muốn chấp nhận Tin Mừng.
Như vậy, khi thuật lại việc Chúa
vào thành hôm nay, Matthêô không những chỉ muốn giới thiệu Người là Ðấng Thiên
sai cứu thế hiền từ và khiêm nhu, đến để chịu nạn; nhưng tác giả còn muốn nhắc
nhở chúng ta về thân phận của Hội Thánh, của mọi cộng đoàn Dân Chúa, của mọi
tín hữu hết thảy đã đến từ dân ngoại: tất cả chỉ là hiện thân của Vị Tiên tri
thành Nagiarét xứ Galilê đang đi vào đời và ở trong đời với lý tưởng cứu thế mà
vẫn bị hất hủi. Thế thì chúng ta phải xin Người cho chúng ta được những tâm
tình của Người để làm công việc vào Ðền Thờ hôm nay, để rồi vào đời cứu thế như
Người. Chúng ta hết thảy hãy tiến lên với những tâm tình ấy.
Thánh Lễ Chúa Nhật Lễ Lá:
Ys 50,4-7; Ph 2,6-11; Mt
26,14-27,66 hoặc 27,11-54
Bản văn đã dài. Chúng ta không
muốn nghe ai nói gì khác nữa. Có lẽ chúng ta còn muốn được yên lặng để tưởng niệm
mầu nhiệm Chúa chịu chết. Nhưng việc tưởng niệm này sẽ ít có kết quả nếu không
được hướng dẫn. Và nếu thiếu hướng dẫn, bản văn dài mà chúng ta vừa nghe đọc có
lẽ cũng sẽ không để lại nhiều âm vang sâu sắc. Chúng ta phải nói với nhau về bài
tường thuật việc Chúa chịu chết; chúng ta phải nhận ra ơn Chúa muốn cứu độ
chúng ta trong Thánh lễ Chúa nhật Thương khó hôm nay.
A. Bài Tường Thuật Việc Chúa Chịu
Chết
Cả bốn sách Tin Mừng đều dụng
công thuật lại việc Chúa chịu chết. Ðó là điều hơi lạ. Trước hết việc ấy
"ai đã đến Yêrusalem" mà không biết? (Lc 24,18). Rồi các Tông đồ phải
là "những chứng nhân về việc Chúa sống lại", thế mà lại dài dòng tỉ mỉ
về việc Chúa chịu chết; và dài dòng tỉ mỉ hơn cả khi các ông giảng về việc Chúa
phục sinh nữa. Sự kiện ấy khiến chúng ta phải khẳng định: không thể coi việc
Chúa chịu chết như là chuyện đã biết rồi, không cần nói tới nữa. Trái lại đó là
sự kiện phải suy nghĩ mãi mãi. Mà như thế là vì việc Chúa chịu chết đã không
thuộc về dĩ vãng, nhưng luôn luôn được hiện đại hóa vì Chúa chỉ cứu độ chúng ta
ngày hôm nay trong sự chết và sống lại của Con Người mà thôi. Tử nạn và Phục
sinh không phải chỉ là hai sự kiện kế tiếp nhau: tử nạn qua rồi và hiện nay
chúng ta chỉ cần biết Chúa phục sinh. Không, Chúa Phục sinh hiện mang các dấu
thánh. Người nhắc nhở chúng ta nhớ đến việc tử nạn, không phải như một giai đoạn
bi đát phải trải qua, nhưng như chính con đường loé sáng việc phục sinh. Và như
việc phục sinh đã chói sáng trong việc Chúa chịu nạn, thì ơn cứu độ cũng rực lên
trong chính cuộc đời đầy phấn đấu của ta. Như thế, suy nghĩ về việc Chúa chịu
chết là nhận ra ơn cứu độ ngay trong đời sống nhiều thử thách của mình. Ðạo của
chúng ta là đạo nhập thể, đạo dạy chúng ta biết sống, nên giáo lý của đạo phải
nhấn mạnh đến việc Chúa chịu chết.
Cả bốn sách Tin Mừng đều dụng
công thuật lại việc này. Và điều lạ thứ hai: cả bốn sách đều giống nhau khi làm
công việc này hơn khi viết về những việc khác. Do đó người ta có thể quả quyết:
khi thuật lại việc Chúa chịu chết, các tác giả đã trình bày suy nghĩ chung của
Hội Thánh hơn là viết ra những ý nghĩ cá nhân của mình. Nhiều người nhìn thấy sự
giống nhau ấy đã vội tưởng không có gì phải để ý trong cách thức tường thuật của
mỗi sách Tin Mừng. Và họ nghĩ: biết một bài tường thuật là đủ; hơn nữa có thể
chọn bất cứ bài nào làm cơ sở rồi thêm những chi tiết của ba bài khác vào.
Nhưng làm như vậy là không hiểu gì hết! Chúng ta cứ thử để mỗi tác giả đưa
chúng ta đi theo con đường tử nạn của Chúa. Tâm tình của mỗi vị sẽ giúp ta thấy
mầu nhiệm Chúa chịu chết thật phong phú vô cùng.
Hôm nay chúng ta theo thánh
Matthêô. Người mở đầu bài tường thuật bằng việc Yuđa mặc cả với Hội đồng Dothái
về số tiền thưởng y muốn được để nộp Ðức Kitô cho họ. Tác giả rõ ràng đã hàm ý
vụ án sắp diễn ra là một chuyện mua bán, tội lỗi, và bẩn thỉu. Và bẩn thỉu thật,
cái hôn nộp thầy của tên môn đồ phản phúc!
Còn thái độ của những người khác
thế nào? Các Tông đồ muốn chống cự, lấy sức mạnh chống lại sức mạnh. Nhưng Ðức
Yêsu gạt bỏ lập trường ấy vì là đường lối lẩn quẩn không có lối thoát: kẻ dùng
gươm sẽ chết vì gươm. Người cũng phủ nhận ý kiến của những kẻ muốn xin Thiên
Chúa một sự can thiệp lạ lùng, vì là đường lối không cứu được kẻ có tội và do
đó không cứu thế. Người nhấn mạnh nhiều lần: hãy để cho lời Kinh Thánh nên trọn;
hãy chấp nhận kế hoạch của Thiên Chúa, vì chết chưa phải là hết...
Hai chủ đề trên tiếp tục được
Matthêô khai triển trong suốt bài tường thuật. Tội lỗi bẩn thỉu của bọn Yuđa và
Dothái lại được phơi ra trong câu chuyện Yuđa đem trả 30 đồng bạc. Người Dothái
không muốn nhận nhưng rồi cũng phải lấy và đem mua thửa ruộng máu. Rõ ràng bọn
chúng đã nhận tội; và một lần nữa rõ ràng việc Ðức Yêsu chịu chết đã được viết
trong Kinh Thánh, mà Người chấp nhận làm cho nên trọn.
Nhưng như trên đã nói, Matthêô
luôn suy nghĩ về Giáo hội trong khi viết Tin Mừng. Ở đây cũng vậy, trong bài tường
thuật việc Chúa chịu nạn, tác giả đã có nhiều đoạn ám chỉ Giáo hội đặc biệt khi
viết lại vụ án trước tòa Philatô. Ông quan ngoại đạo này muốn tha Ðức Yêsu. Vợ
ông cũng can ông đừng nhúng tay vào vụ người công chính này. Ðang khi đó các tư
tế lại xúi dân Dothái xin đóng đinh Người họ quen biết và xin tha bổng cho
Baraba, một tên tử tội. Ðó là hình ảnh về Giáo hội gồm đa số dân ngoại và về cộng
đồng Dothái tội lỗi. Hình ảnh ấy còn được Matthêô vẽ lại một lần nữa khi kể
chuyện: ở dưới chân Thánh giá, các thượng tế cùng ký lục và hàng niên trưởng chế
diễu Chúa (27,41), trong khi viên bách quân và tùy viên của ông là dân ngoại lại
kinh hãi mà nói: "Ðích thực, Ông này là Con Thiên Chúa" (27,54).
Tuy nhiên, nói cho đúng, dân ngoại
chỉ được ơn đức tin sau khi Chúa đã chịu chết. Lúc ấy màn phân nơi cực thánh xé
ra, cho phép mọi người kể cả lương dân được vào. Người Dothái không còn đặc quyền
và độc quyền Lời Hứa nữa. Chức tư tế của đạo cũ cũng bị hủy luôn. Thế giới cũ đổ
vỡ khi đất động và đá vỡ tung. Ðức Yêsu đã cứu thế rồi khi nhiều mộ mở ra và
nhiều xác thánh sống lại. Sự chết của Người đã ban đức tin cho viên bách quân,
đã tập họp môn đệ và các phụ nữ đạo đức lại, hướng họ về niềm tin phục sinh,
đang khi khiến người Dothái lúng túng đặt lính gác mồ một cách vô ích.
Như vậy Matthêô đã có cả một lối
suy nghĩ độc đáo về việc Chúa chịu chết. Như mọi người đã đến Yêrusalem vào dịp
lễ Vượt qua năm đó, ông đã thấy các sự kiện diễn ra. Chính lúc ấy ông chỉ biết
ghi nhận. Nhưng khi Ðức Yêsu đã phục sinh và đã tập họp các Tông đồ lại, đức
tin của ông được củng cố đến đâu thì các việc đã ghi nhận kia cũng tập họp lại
đến đó và dính vào nhau làm thành một bài tường thuật dưới ánh sáng của mầu nhiệm
Phục sinh. Việc Chúa chịu chết không phải là chuyện tình cờ. Bề ngoài nó có do
việc mua bán bẩn thỉu và tính toán gian dối cũng như sai lầm của kỳ mục Dothái.
Nhưng bên trong đó là diễn tiến của kế hoạch cứu độ đã được viết trước trong
Kinh Thánh để đưa dân ngoại vào Lời Hứa và người Dothái phải trở lại; và để như
Lời Ðức Yêsu nói trước tòa Dothái, từ nay các ngươi sẽ thấy Con Người, ngự bên
hữu Quyền Năng và đến trên mây trời; tức là từ lúc Ðức Kitô bị xét xử, người ta
sẽ thấy Quyền Năng Thiên Chúa ở với Người và Người cứu độ chúng ta trong vinh
quang Thập giá. Chính tội lỗi của loài người làm nổi bật sự vô tội của Người,
và chính cái chết trong sự vô tội có giá trị cứu chuộc chúng ta. Do đó sự sống
công chính của chúng ta không những đã chảy ra từ các thương tích của Người, mà
còn phải được minh chứng và tăng lên qua mọi thử thách đớn đau.
B. Bài Học Chúa Ðể Lại Cho Chúng Ta
Thánh Phaolô không bao giờ viết
một bài tường thuật dài về việc Chúa chịu chết. Nhưng bài thư Philip hôm nay có
thể thay thế. Thể văn của bài thư cho phép chúng ta có thể nghĩ đây là một ca
vãn dùng trong phụng vụ thời thánh Phaolô, nói về mầu nhiệm Chúa Kitô. Và như vậy,
đây là bản tuyên xưng đức tin của Giáo hội. Nó không thể khác với bài tường thuật
của thánh Matthêô vì chúng ta cũng đã nói, các bài tường thuật về việc Chúa chịu
chết trong bốn sách Tin Mừng đều khá giống nhau, nên cũng chỉ diễn tả giáo lý
chung của Hội Thánh mà thôi. Ðọc các bài tường thuật này, chúng ta phải chia sẻ
đức tin của Giáo hội. Thánh giá Ðức Kitô nói lên sự vô tội thánh thiện của Người
ở giữa những người mà Người đã gọi là anh em nhưng lại thật là độc dữ. Chính
cái chết vô tội thánh thiện của Người khiến chúng ta nhận ra Người là Người Tôi
Tớ Thiên Chúa gánh tội thiên hạ để cứu chuộc chúng ta. Chúng ta chỉ tuyên xưng
Người chân thật như thế khi tham dự vào mầu nhiệm Thập giá của Người để chấp nhận
cuộc đời phấn đấu như là đường lối nên thánh và cứu thế.
Isaia ngày trước đã được linh ứng
để viết về thân phận Người Tôi Tớ Thiên Chúa, tức là về thân phận Ðức Kitô và
thân phận mọi Kitô hữu. Mọi người tôi tớ Thiên Chúa phải "sáng sáng, mở
tai nghe Lời Chúa như môn sinh; phải có lưỡi trung thành của môn sinh để lấy Lời
Chúa chống đỡ kẻ kiệt sức; và cuối cùng phải giơ lưng cho người ta đánh đập,
chìa má cho kẻ nhổ râu, trơ trơ như đá trước mọi nhục nhằn khạc nhổ, biết rằng
chung cuộc mình sẽ không phải thẹn thuồng...". Isaia thật đã vẽ trước
khuôn mặt và đời sống của Ðức Kitô. Mọi lời của ông được bài tường thuật của
Matthêô làm cho sáng tỏ. Phaolô trong bài thư Philip đã suy nghĩ và thấu hiểu
đường lối Thiên Chúa trong cuộc đời của Ðức Kitô. Phụng vụ hôm nay dùng cả ba
bài đọc này đưa chúng ta vào mầu nhiệm Thánh giá cử hành trên bàn thờ để chúng
ta nhận lấy Ðức Kitô chịu chết và sống lại, đem theo mình vào đời mà chiếu tỏa
ánh sáng phục sinh ngay trong mọi phấn đấu của đời sống, tiếp tục con đường nên
thánh và cứu thế của Ðức Kitô, xứng đáng với danh hiệu Con Thiên Chúa.
(Trích dẫn từ tập sách Giải
Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô
Nguyễn Sơn Lâm)
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Chủ Nhật Lễ Lá A, Năm A
Bài đọc: (Làm phép lá: Lk
19:28-40); Isa 50:4-7; Phi 2:5-11; Mt 26:14-27:66.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Qua đau khổ tới vinh quang
Con người không thích kỷ luật,
kiêng cữ, luyện tập; nhưng các lực sĩ không thể thắng huy chương nếu không qua
tiến trình này. Trên bước đường thiêng liêng cũng thế, con người cũng phải trải
qua một tiến trình tương tự, nhất là phải được thử thách bằng gian nan đau khổ,
để minh chứng đức tin vững mạnh của họ vào Thiên Chúa. Thánh Phêrô và tục ngữ
Việt-nam đã từng nói: “lửa thử vàng, gian nan khốn khó thử nhân đức.” Người có
nhân đức là người đã trải qua một tiến trình luyện tập, và đã thắng vượt mọi
gian nan đau khổ.
Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta
thấy những lý do khác nhau của việc chịu đau khổ của Đấng Thiên Sai. Trong Bài
Đọc I, tiên-tri Isaiah tường thuật sự đau khổ của Người Tôi Trung của Thiên
Chúa trong Bài Ca Thứ Ba. Mục đích là để Ngài có thể an ủi những ai cũng phải
ngang qua con đường đau khổ đó. Trong Bài Đọc II, Chúa Giêsu phải ngang qua con
đường đau khổ để đạt tới tuyệt đỉnh của vinh quang, và Thiên Chúa đã siêu tôn
và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu. Trong Phúc Âm, Matthew
tường thuật Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu. Mục đích là để Ngài gánh tội cho
nhân loại, và trở nên nguồn ơn cứu độ cho nhiều người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Bài ca thứ ba về Người Tôi Trung của Thiên Chúa chịu đau khổ.
1.1/ Người Tôi Trung chịu đau khổ
vì tin vào Thiên Chúa: Là con người ai, cũng sợ đau khổ; nhưng sở dĩ họ có can
đảm để chịu đau khổ, vì họ có một niềm tin vững chắc vào hậu quả sẽ đạt tới; chẳng
hạn, huy chương cho các lực sĩ, sự giải thóat của Thiên Chúa cho các con của
Ngài.
Người Tôi Trung của Thiên Chúa
cũng thế, Ngài tuyên xưng: “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho
người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ. Có Đức Chúa
là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt
ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng.” Với một niềm xác tín vào
Thiên Chúa như thế, Người Tôi Trung có can đảm đương đầu với mọi đau khổ, vì biết
mình sẽ chiến thắng.
1.2/ Người Tôi Trung biết nâng đỡ
những ai chịu đau khổ: Không những chỉ lãnh nhận huy chương sau cuộc đua, người
lực sĩ còn có những phần thưởng khác kèm theo như: sức khỏe dẻo dai, ý chí kiên
cường, các nhân đức… Người Tôi Trung của Thiên Chúa cũng thế, ngoài việc được
tuyên dương bởi Chúa Cha, Ngài còn biết nâng đỡ những ai đang phải chịu đau khổ.
Ngài nói: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã cho tôi nói năng như một người môn đệ, để
tôi biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức. Sáng sáng Người đánh thức, Người
đánh thức tôi để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ.”
2/ Bài đọc II: Đức Giêsu Kitô trải qua đau khổ để đạt tới vinh quang.
2.1/ Đức Kitô khiêm nhường chịu
đau khổ: Thánh Phaolô dùng gương của Chúa Giêsu chịu đau khổ để khuyên bảo các
tín hữu Philipphê: “Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như
chính Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải
nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ
vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế.
Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây
Thập Tự.”
Ngài là Thiên Chúa, nhưng đã hạ
mình chấp nhận một thân thể như con người. Điều này làm người Hy-lạp không thể
hiểu nổi, vì trong khi họ đang tìm cách thóat ra khỏi thân xác mà họ coi là ngục
tù của linh hồn; thì Chúa Giêsu lại muốn bị giam hãm trong một thân xác để nên
giống con người. Hơn nữa, Chúa Giêsu còn có uy quyền tuyệt đối của Thiên Chúa để
dẹp tan các đau khổ; nhưng Ngài tự nguyện theo con đường của Chúa Cha, chấp nhận
chết trên Thập Giá để chuộc tội cho con người. Kiêu ngạo tiêu hủy cả người kiêu
ngạo lẫn tha nhân; nhưng khiêm nhường xây dựng người khiêm nhường và mang lại lợi
ích cho tha nhân.
2.2/ Thiên Chúa đã siêu tôn Đức
Kitô: Vì không ai khiêm nhường, vâng lời, hy sinh chịu đau khổ như Chúa Giêsu;
nên như một hậu quả, không ai được hưởng vinh quang như Ngài. Thánh Phaolô xác
tín: “Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt
trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời
dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa
Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: "Đức Giêsu Kitô là
Chúa."”
Chúa Giêsu và thánh Phaolô cũng
dùng gương sáng này để dạy các môn đệ và các tín hữu: “Ai trong các con muốn
làm lớn nhất, hãy trở nên rốt hết và phục vụ mọi người” (Lk 22:26). “Một khi
cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người.”
(Rom 8:17b).
3/ Phúc Âm: Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu theo thánh Matthew
Vì bài Thương Khó rất dài, những
ai muốn đọc chú giải có thể theo Cuộc Thương Khó theo Marcô, năm B, vì trình
thuật về Cuộc Thương Khó của Matthew theo rất sát với trình thuật của Marcô. Chỉ
có hai phần đặc biệt tập trung trong con người của Judas Iscariot, chúng ta sẽ
chú giải chi tiết hai phần này trong sự phản bội của Judah. Thay vào đó, chúng
ta sẽ chú trọng đặc biệt đến phản ứng của Chúa Giêsu khi Ngài đối diện với Cuộc
Thương Khó, và các phản ứng của con người, đại diện bằng bốn thành phần: Simon
Phêrô, Judas Iscarriot, Philatô, và những người trong Thượng Hội Đồng.
3.1/ Thái độ của Chúa Giêsu: Bốn
thái độ của Chúa Giêsu chúng ta học được qua Cuộc Thương Khó.
(1) Ngài rất can đảm và sẵn sàng
chấp nhận đau khổ: vì Ngài biết đau khổ chỉ tạm thời, và phải qua đau khổ mới đạt
tới vinh quang. Trước khi bước vào Cuộc Thương Khó, Ngài biết đau khổ chỉ kéo
dài trong 3 ngày (Thứ Năm, Sáu, và Bảy Tuần Thánh), sau đó là vinh quang Phục
Sinh như lời Ngài đã báo trước cho các tông-đồ. Chính niềm tin vững mạnh nơi
Chúa Cha sẽ cho Ngài chiến thắng khải hoàn đã giúp Ngài vượt qua tất cả đau khổ.
Chúng ta có thể dẫn chứng thái độ tự tin này bằng những biến cố xảy ra trong Cuộc
Thương Khó.
- Đang khi dùng bữa, Người nói:
"Thầy bảo thật anh em, có người trong anh em sẽ nộp Thầy, mà lại là người
đang cùng ăn với Thầy." Chúa Giêsu có thể chỉ rõ Judah là người toan tính
phản bội, hắn sẽ không thóat khỏi bàn tay của các tông-đồ khác, và Ngài sẽ
thóat khỏi kế họach của hắn. Nhưng Chúa Giêsu không tố cáo Judah, Ngài cho hắn
cơ hội để trở lại; nhưng Judah có tự do và đã chọn để làm ngơ trước lời cảnh
cáo của Ngài: “Đã hẳn, Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người. Nhưng khốn
cho kẻ nào nộp Con Người: thà kẻ đó đừng sinh ra thì hơn!”
- Sau bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu
cùng hát thánh vịnh tạ ơn Thiên Chúa với các môn đệ để ca tụng sự quan phòng
khôn ngoan của Thiên Chúa, cho dẫu Ngài sắp phải đương đầu với quyền lực của thế
gian. Điều này chứng tỏ Chúa Giêsu rất tin tưởng vào kế hoạch của Thiên Chúa và
không sợ hãi hay buồn sầu.
(2) Ngài luôn vâng lời làm theo
thánh ý Chúa Cha: Hai biến cố chứng tỏ sự vâng phục, luôn tìm làm theo thánh ý
Chúa Cha của Ngài.
- Thứ nhất, Chúa Giêsu cầu nguyện
trong vườn Ghetsemane. Người nói với các ông: "Anh em ngồi lại đây, trong
khi Thầy cầu nguyện." Rồi Người đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi
theo. Người bắt đầu cảm thấy hãi hùng xao xuyến. Người nói với các ông:
"Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức."
Trong giờ hấp hối trước Cuộc Thương Khó sắp tới, Chúa Giêsu muốn có sự liên hệ
mật thiết với Cha Ngài và với các môn đệ; nhưng Ngài không nhận được sự đáp trả
của bên nào: Cha dường như ẩn mặt; các tông đồ có mặt cũng như không! Loay
hoay, chạy đi chạy lại trong vườn, Chúa Giêsu cảm thấy hầu như tất cả đều bỏ
mình. Tuy vậy, Ngài vẫn can đảm cầu nguyện: "Abba, Cha ơi, Cha làm được mọi
sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha
muốn." Chúa Giêsu, trong thân xác con người, sợ hãi những gì sắp xảy ra
cho Ngài; nên Ngài cầu xin Cha cất chén đắng, vì Ngài tin Thiên Chúa có thể làm
mọi sự. Dẫu vậy, Ngài vẫn một lòng tuân phục thánh ý của Thiên Chúa hơn ý riêng
mình. Sau khi cầu nguyện lần thứ ba, Người trở lại và bảo các ông: "Lúc
này mà còn ngủ, còn nghỉ sao? Thôi, đủ rồi. Giờ đã điểm. Này Con Người bị nộp
vào tay phường tội lỗi. Đứng dậy, ta đi nào! Kìa kẻ nộp Thầy đã tới!"
- Thứ hai, là giờ hấp hối của
Chúa Giêsu trên Thập Giá: “Vào giờ thứ sáu, bóng tối bao phủ khắp mặt đất mãi đến
giờ thứ chín. Vào giờ thứ chín, Đức Giêsu kêu lớn tiếng: "Eli, Eli, lema
sabacthani," nghĩa là "Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao
Ngài bỏ rơi con?" Nghe vậy, một vài người đứng đó liền nói: "Kìa hắn
kêu cứu ông Elijah." Rồi có kẻ chạy đi lấy một miếng bọt biển, thấm đầy giấm,
cắm vào một cây sậy, đưa lên cho Người uống mà nói: "Để xem ông Elijah có
đến đem hắn xuống không." Còn những người khác lại bảo: "Khoan đã, để
xem ông Elijah có đến cứu hắn không!" Đức Giêsu lại kêu một tiếng lớn, rồi
trút linh hồn. Ngay lúc đó, bức màn trướng trong Đền Thờ xé ra làm hai từ trên
xuống dưới. Đất rung đá vỡ. Mồ mả bật tung, và xác của nhiều vị thánh đã an nghỉ
được trỗi dậy.
Những người đứng đó chỉ nghe hai
chữ đầu, nên họ tưởng Chúa Giêsu đang gọi ngôn sứ Elijah. Sự kiện bức màn phân
biệt chỗ cực thánh trong Đền Thờ khỏi tầm mắt của dân chúng được các học giả
phân tích là kể từ nay, con người không cần đợi đến Ngày Xá Tội để được thầy
Thượng Tế xin tha tội, nhưng con người có thể đến trực tiếp với Thiên Chúa để
xin tha thứ. Sự kiện này cũng báo trước sự xụp đổ của Đền Thờ Jerusalem (70
AD), con người không cần phải vào đó để dâng lễ vật để được tha tội nữa.
(3) Ngài luôn thành tín (nói sự
thật) khi đương đầu với đau khổ và phản bội.
- Thứ nhất, Chúa Giêsu đối xử với
Judah rất tốt đẹp. Ngài biết rõ Judah phản bội, nhưng vẫn không chửi mắng và
cũng không tố cáo tội của ông cho các môn đệ khác biết; vì nếu họ biết, Judah sẽ
khó giữ được tính mạng của mình. Nhưng Ngài phải nói cho Judah biết, với hy vọng
nhờ cách đối xử nhẹ nhàng, Judah sẽ ăn năn trở lại. Chúa Giêsu muốn phân biệt
hai điều ở đây: theo kế hoạch của Thiên Chúa, Chúa Giêsu phải chết; tuy nhiên,
con người vẫn có tự do cộng tác hay phá hủy kế hoạch của Thiên Chúa. Nếu Judah
không phản bội, vẫn có những Judah khác sẽ phản bội. Hơn nữa, sau khi phản bội,
con người phải biết ăn năn.
- Thứ hai, Chúa Giêsu không sợ
nói sự thật, dẫu biết khi nói sự thật, có thể mang lại cho Ngài án tử thình:
Ông Philatô hỏi Người: "Ông là vua dân Do-thái sao?" Người trả lời:
"Đúng như ngài nói đó." Các thượng tế tố cáo Người nhiều tội, nên ông
Philatô lại hỏi Người: "Ông không trả lời gì sao? Nghe kìa, họ tố cáo ông
biết bao nhiêu tội!" Nhưng Chúa Giêsu không trả lời gì nữa, khiến ông
Philatô phải ngạc nhiên. Câu trả lời của Chúa Giêsu không hoàn toàn tích cực
“Đúng vậy;” nhưng "Đúng như ngài nói đó." Chúa Giêsu muốn nói với
Philatô: không phải là vua theo nghĩa chính trị như người Do-thái tố cáo; nhưng
là vua theo nghĩa tôn giáo mà thôi. Trong trình thuật của Gioan, Chúa Giêsu nói
rõ hơn: “Nước tôi không thuộc về thế gian này ... ” (Jn 18:36). Ngài không trả
lời cho các thượng tế và người Do-thái, vì có trả lời cho họ, cũng chẳng có ích
chi!
(4) Ngài luôn yêu thương và tha
thứ: Đang khi sắp phải đương đầu với cuộc Thương Khó sắp tới, Chúa Giêsu vẫn nhớ
tới những người còn ở lại, nhất là các thế hệ tương lai. Đó là lý do Ngài thiết
lập bí-tích Thánh Thể để tiếp tục ở lại và nuôi dưỡng linh hồn con người.
- Chúa Giêsu thành lập Bí-tích
Thánh Thể, Lễ Vượt Qua mới: Đang bữa ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc
tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông và nói: "Anh em hãy cầm lấy, đây là mình
Thầy." Và Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông, và tất
cả đều uống chén này. Người bảo các ông: "Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ
ra vì muôn người. Thầy bảo thật anh em: chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm của
cây nho nữa, cho đến ngày Thầy uống thứ rượu mới trong Nước Thiên Chúa." Mỗi
khi cử hành bí-tích Thánh Thể, con người được nhắc nhở hướng về tương lai, sẽ
có ngày họ sẽ cùng được uống thứ rượu mới trong Nước Chúa với Đức Kitô.
- Trong bối cảnh của Lễ Vượt Qua
cũ, Chúa Giêsu muốn các môn đệ của Ngài hiểu những gì sắp xảy ra trong Lễ Vượt
Qua mới. Giống như tấm bánh không men bị bẻ ra cho mọi người ăn, Mình Ta cũng bị
bẻ ra như vậy cho các con. Giống như ly rượu tạ ơn (ly thứ ba), Máu Ta cũng sẽ
bị đổ ra như vậy để nhiều người nhận được ơn tha tội. Giao ước cũ Thiên Chúa
thiết lập với dân là Giao-ước Sinai (Exo 24:3-8). Theo Giao-ước này, Thiên Chúa
sẽ săn sóc và bảo vệ dân như dân của Ngài, phía người Do-thái, họ phải giữ cẩn
thận Thập Giới. Vì người Do-thái đã vi phạm Giao-ước cũ bằng việc không giữ các
Lề Luật, nên Chúa Giêsu phải thiết lập với dân một Giao-ước mới. Theo Giao-ước
mới này, Máu của Chúa Giêsu phải đổ ra để chuộc tội cho con người. Họ không còn
tùy thuộc vào Lề Luật để được sự săn sóc của Thiên Chúa; nhưng hòan tòan tùy
thuộc vào tình yêu của Ngài, đặt căn bản trên Máu của Chúa Giêsu sắp đổ ra.
- Khi nói những lời này, Chúa
Giêsu xác tín hai điều: (1) Ngài biết Ngài sắp chết, nhưng Ngài cũng biết Nước
Thiên Chúa sắp tới. Ngài biết sẽ phải vác Thập Giá, nhưng vinh quang sẽ theo
Ngài sau đó. (2) Tình yêu của Thiên Chúa và của Ngài cho con người sẽ thắng vượt
tất cả các tội lỗi của họ.
- Dù biết trước tất cả tông đồ đều
phản bội, Chúa sẵn sàng tha thứ, hòa giải, và cung cấp hy vọng cho các ông khi
Ngài nói: “Đêm nay tất cả anh em sẽ vấp ngã vì Thầy. Vì có lời đã chép: Ta sẽ
đánh người chăn chiên, và đàn chiên sẽ tan tác. Nhưng sau khi trỗi dậy, Thầy sẽ
đến Galilee trước anh em.”
3.2/ Tính ích kỷ, gian dối, và
phản bội của con người.
(1) Của Simon Phêrô và của các
môn đệ khác: Khi Chúa Giêsu tiên đoán một người trong các ông sẽ phản bội, các
môn đệ buồn rầu, và lần lượt hỏi Người: "Chẳng lẽ con sao?" Các môn đệ
không biết người sẽ phản bội là ai trong trình thuật của Matthew, và cũng không
ngờ người phản bội là Judah. Các ông có lẽ cũng biết sự yếu đuối của mình nên lần
lượt hỏi Chúa như vậy. Chúa Giêsu biết trước và đã chuẩn bị hết những gì có thể
cho các tông đồ: dạy dỗ, biến hình, báo trước ... nhưng những gì xảy ra sẽ phải
xảy ra, đó là sự bỏ chạy của các ông. Ngài tin các ông sẽ nhận ra sự thật và
tin vào Ngài chắc chắn hơn sau Cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Ngài.
- Phêrô không biết sức yếu đuối
của mình, nên ông thưa Ngài: "Dầu tất cả có vấp ngã đi nữa, thì con cũng
nhất định là không." Chúa Giêsu nói với ông: "Thầy bảo thật anh: hôm
nay, nội đêm nay, gà chưa kịp gáy hai lần, thì chính anh, anh đã chối Thầy đến
ba lần." Nhưng ông Phêrô lại nói quả quyết hơn: "Dầu có phải chết với
Thầy, con cũng không chối Thầy." Tất cả các môn đệ cũng đều nói như vậy.
Chỉ có Thiên Chúa biết chắc chắn những gì sẽ xảy ra cho con người, con người
không biết chắc chắn những gì sẽ xảy ra cho mình. Vì thế, con người phải tin những
gì Thiên Chúa nói hơn những gì loài người hay chính mình nói.
- Người rút gươm chém đứt tai tên
đầy tớ của thượng tế là chính Phêrô, như được nói rõ ràng trong trình thuật của
Gioan (Jn 18:10). Phản ứng này rất hợp với tính khí của Phêrô. Ông là người duy
nhất có can đảm để bảo vệ Thầy mình. Đúng như lời Chúa Giêsu tiên đóan: “Ta sẽ
đánh chủ chăn và chiên sẽ tan tác.” Khi các binh lính bắt và trói Chúa Giêsu, bấy
giờ các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết. Họ sợ nếu ở lại, họ sẽ bị liên lụy và
phải chịu thiệt thân.
- Phêrô cũng trải qua cuộc thanh
luyện đồng thời với Chúa Giêsu: Ông Phêrô theo Người xa xa, vào tận bên trong
dinh Thượng Tế, và ngồi sưởi bên đống lửa với đám thuộc hạ. Hai cuộc tra vấn xảy
ra đồng thời: khi Chúa Giêsu bị thẩm vấn cách công khai trong dinh, ông Phêrô bị
thẩm vấn cách âm thầm ngòai dinh. Chối lần thứ nhất: Ông Phêrô đang ở dưới sân,
có một người tớ gái của Thượng Tế đi tới; thấy ông ngồi sưởi, cô ta nhìn ông
chòng chọc mà nói: "Cả bác nữa, bác cũng đã ở với cái ông người Nazareth,
ông Giêsu đó chứ gì!" Ông liền chối: "Tôi chẳng biết, chẳng hiểu cô
muốn nói gì!" Rồi ông bỏ đi ra phía tiền sảnh. Bấy giờ có tiếng gà gáy lần
thứ nhất. Đàn bà lắm chuyện, tuy vậy, cũng làm cho Phêrô phải sợ hãi bỏ đi. Chối
lần thứ hai: Người tớ gái thấy ông, lại bắt đầu nói với những người đứng đó:
"Bác này cũng thuộc bọn chúng đấy." Nhưng ông Phêrô lại chối. Chối lần
thứ ba: Một lát sau, những người đứng đó lại nói với ông: "Đúng là bác thuộc
bọn chúng, vì bác cũng là người Galilee!" Nhưng ông Phêrô liền thốt lên những
lời độc địa và thề rằng: "Tôi thề là không có biết người các ông nói
đó!" Ngay lúc đó, gà gáy lần thứ hai. Ông Phêrô sực nhớ điều Chúa Giêsu đã
nói với mình: "Gà chưa kịp gáy hai lần, thì anh đã chối Thầy đến ba lần."
Thế là ông oà lên khóc.
Dẫu Phêrô chối Chúa ba lần, ông
vẫn can đảm hơn các tông đồ khác, vì các ông kia không dám theo Chúa Giêsu vào
dinh. Khác với Judah, ông nhận ra sự phản bội của mình, và tiếng khóc trong
lòng của ông giúp ông bắt đầu tiến trình giao hòa và làm chứng cho Chúa Giêsu.
Phêrô trở thành nhân chứng cho niềm tin Chúa Giêsu phục sinh trước THĐ.
(2) Của Judah Iscariot: Trước bữa
tiệc Vượt Qua, một người trong Nhóm Mười Hai tên là Judah Iscariot, đi gặp các
thượng tế mà nói: "Tôi nộp ông ấy cho quý vị, thì quý vị muốn cho tôi bao
nhiêu." Họ quyết định cho hắn ba mươi đồng bạc. Từ lúc đó, hắn cố tìm dịp
thuận tiện để nộp Đức Giêsu.
- Hầu hết các môn đệ đều là người
Galilee, chỉ có Judah là người thuộc làng Iscariot, trong xứ Judah. Tất cả các
Tin Mừng đều không nói gì tới việc Chúa Giêsu gọi Judah. Hầu như tất cả các nơi
trong Tin Mừng mà Judah được đề cập tới, đều có bên cạnh tên Judah danh xưng kẻ
phản bội, người bán Chúa hay nộp Chúa.
- Giá cả 30 đồng mà người ta ấn
định cho Judah là một giá rẻ mạt, chỉ bằng tiền chuộc của một nô lệ rẻ tiền. Để
hiểu rõ giá, chúng ta có thể so sánh với giá hiện kim bây giờ: một đồng Mỹ trị
giá khoảng 4 shekels, 30 shekels chỉ tương đương khoảng 8 dollars. Dĩ nhiên,
chúng ta phải so sánh với giá cả của thời đó. Một đồng của Rôma (denarius) thời
đó tương xứng với tiền trả của một ngày làm công, 30 denarii bằng lương tháng của
một người. Chúng ta không thể hiểu nổi tại sao Judah bán Chúa với một giá rẻ
như thế? Lọ dầu cam tùng nguyên chất mà Maria đổ trên đầu và chân Chúa trị giá
300 đồng! Có nhiều nguồn gốc trong Kinh Thánh ám chỉ việc buôn bán này, gần nhất
là Zech (11:11-13), sau đó đến Jer (32:6-15, 18:23, 19:1), và xa nhất là việc
các anh em bán ông Giuse với giá 20 đồng bạc (Gen 37:28).
- Các học giả tranh luận để hiểu
lý do tại sao Judah bán Chúa Giêsu: Có hai lý do chính: (1) Theo Tin Mừng Gioan
(12:6) và một số đông học giả, lý do chính là lòng tham tiền. (2) Có một số học
giả cho Judah biết Chúa Giêsu có uy quyền, nên việc bán Chúa chỉ là nguyên cớ
làm cho Chúa Giêsu phải ra tay uy quyền của Đấng Messiah để tiêu diệt những kẻ
phản nghịch. Sau này, khi Judah thấy sự suy luận của mình không đúng, nên đem
tiền trả lại; và khi các thượng tế không nhận, Judah ném tiền vào Đền Thờ. Có lẽ
ý kiến thứ nhất đúng hơn, vì nói lên được bản chất và phù hợp với chức quản lý
của Judah.
- Có một hiện tượng lạ trong Tin
Mừng Matthew: Các môn đệ khác đều gọi Chúa Giêsu là Thầy (Lord), chỉ riêng có
Judah gọi Chúa là Rabbi (hai lần). Danh xưng Rabbi rất xa lạ, chỉ dùng cho các
Pharisees và scribes, và bị Chúa Giêsu cấm các môn đệ: đừng để ai gọi mình là
Rabbi.
- Judah biết rõ nơi Chúa Giêsu
thường đến để cầu nguyện; và để phân biệt Chúa Giêsu với các môn đệ khác, hắn
cho họ một dấu hiệu và dặn: "Tôi hôn ai thì chính là người đó. Các anh bắt
lấy và điệu đi cho cẩn thận." Judah tiến lại gần Người và nói: "Thưa
Thầy!" rồi hôn Người. Họ liền tra tay bắt Người. Cái hôn thường được con
người dùng để tỏ tình yêu với nhau; người Do-thái có thói quen hôn thầy của họ.
Đàng này, Judah lại dùng cái hôn để phản bội Thầy mình. Có lẽ Judah nghĩ ông có
thể qua mặt Chúa Giêsu. Trong trình thuật của Luca, Chúa Giêsu vạch cho Judah
thấy rõ ràng sự phản bội, khi Ngài nói: “Judah! Anh lấy chiếc hôn để nộp con
người sao?” (Lk 22:48).
- Judah đi thắt cổ: Bấy giờ,
Judah, kẻ đã nộp Người, thấy Người bị kết án thì hối hận. Hắn đem ba mươi đồng
bạc trả lại cho các thượng tế và kỳ mục mà nói: "Tôi đã phạm tội nộp người
vô tội, khiến Người phải chết oan." Nhưng họ đáp: "Can gì đến chúng
tôi. Mặc kệ anh!" Judah ném số bạc vào Đền Thờ và ra đi thắt cổ. Các thượng
tế lượm lấy số bạc ấy mà nói: "Không được phép bỏ vào quỹ Đền Thờ, vì đây
là giá máu." Sau khi bàn định với nhau, họ dùng tiền đó tậu "Thửa Ruộng
Ông Thợ Gốm" để làm nơi chôn cất khách ngoại kiều. Vì vậy mà thửa ruộng ấy
gọi là "Ruộng Máu" (Haceldama) cho đến ngày nay. Thế là ứng nghiệm lời
ngôn sứ Jeremiah: "Họ đã lượm lấy ba mươi đồng bạc, tức là cái giá mà một
số con cái Israel đã đặt khi đánh giá Người. Và họ lấy số bạc đó mà mua
"Thửa Ruộng Ông Thợ Gốm," theo những điều Đức Chúa đã truyền cho
tôi."
- Có ba sự khác biệt giữa trình
thuật của Matthew và Công Vụ Tông Đồ (Cv 1:18-19). Thứ nhất, cách Judah chết:
thắt cổ trong Matthew và té lòi ruột trong CVTĐ. Thứ hai, các thượng tế dùng tiền
để mua thửa ruộng; trong khi chính Judah dùng tiền mua thửa ruộng. Thứ ba, giá
máu là máu của Chúa Giêsu trong Matthew; trong khi máu là của Judah trong CVTĐ.
- Mặc dù Judah chỉ chối Chúa
Giêsu một lần, sau đó biết hối hận mang tiền lại trả cho các thượng tế; nhưng
điều khác biệt với Phêrô là Judah không tin tưởng nơi lòng thương xót của Thiên
Chúa, nên đã ra đi và quên sinh đời mình.
(3) Của những người trong Thượng
Hội Đồng:
- Khi các thượng tế và toàn thể
Thượng Hội Đồng tìm lời chứng buộc tội Chúa Giêsu để lên án tử hình, nhưng họ
tìm không ra, vì tuy có nhiều kẻ đưa chứng gian tố cáo Người, nhưng các chứng ấy
lại không ăn khớp với nhau.
- Tội phá Đền Thờ: Có vài kẻ đứng
lên cáo gian Người rằng: "Chúng tôi có nghe ông ấy nói: Tôi sẽ phá Đền Thờ
này do tay người phàm xây dựng, và nội ba ngày, tôi sẽ xây một Đền Thờ khác,
không phải do tay người phàm!" Nhưng ngay về điểm này, chứng của họ cũng
không ăn khớp với nhau. Đây là một chứng gian, vì Chúa Giêsu bảo “Các ông cứ
phá;” chứ Ngài không bảo “Tôi sẽ phá” (x/c Jn 2:19). Hơn nữa, Chúa Giêsu không
có ý ám chỉ Đền Thờ Jerusalem, nhưng ám chỉ thân thể của Ngài.
- Tội phạm thượng: Vị thượng tế
nói với Người: "Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, tôi truyền cho ông phải
nói cho chúng tôi biết: ông có phải là Đấng Ki-tô Con Thiên Chúa không?"
Đức Giê-su trả lời: "Chính
ngài vừa nói. Hơn nữa, tôi nói cho các ông hay: từ nay, các ông sẽ thấy Con Người
ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến." Bấy giờ vị thượng
tế liền xé áo mình ra và nói: "Hắn nói phạm thượng! Chúng ta cần gì nhân
chứng nữa? Đấy, quý vị vừa nghe hắn nói phạm đến Thiên Chúa, quý vị nghĩ
sao?" Họ liền đáp: "Hắn đáng chết!" Rồi họ khạc nhổ vào mặt và đấm
đánh Người. Có kẻ lại tát Người và nói: "Ông Kitô ơi, hãy nói tiên tri cho
chúng tôi nghe đi: ai đánh ông đó?"
Vị Thượng Tế vi phạm Luật trầm
trọng khi hỏi Chúa Giêsu câu hỏi này, vì Luật không cho phép THĐ hỏi người bị
cáo những câu hỏi mà người bị cáo khi trả lời có thể liên quan chính mình trong
đó. Vị Thượng Tế biết Chúa Giêsu sẽ trả lời khi hỏi đến sự liên hệ giữa Chúa
Giêsu và Thiên Chúa, vì Ngài không thể nói dối. Chúa Giêsu không chút do dự trả
lời Ngài chính là Đấng Thiên Sai, một đàng đó là sự thật, một đàng Ngài nghĩ cần
chấm dứt trò bẩn thỉu của THĐ. Qua câu trả lời, Ngài muốn cho họ thấy Ngài có
dư can đảm để nói sự thật, dẫu sự thật mang lại cho Ngài án tử hình. Nếu Ngài
không trả lời điều đó, họ không có lý do để buộc tội Ngài. Điều khác Ngài muốn
cho họ thấy, tất cả những gì họ sẽ làm cho Ngài chỉ tạm thời. Họ sẽ nhìn thấy
chiến thắng vinh quang của Ngài sau Cuộc Thương Khó.
Cuộc thẩm vấn sơ khởi trước Thượng
Hội Đồng: Họ điệu Chúa Giêsu đến vị Thượng Tế Tối Cao. Thượng Hội Đồng được coi
như tòa án tối cao của người Do-thái, gồm có tất cả 71 người: các thượng tế, kỳ
mục, và các kinh sư. Họ chỉ có quyền trên các vấn đề liên quan đến tôn giáo của
người Do-thái mà thôi; và họ không có quyền giết người. Thượng Hội Đồng phải họp
tại “Tòa Hewn Stone trong khu vực của Đền Thờ.” Họ đã phá rất nhiều luật không
được làm khi xử Chúa Giêsu trong đêm đó. Luật không cho phép: xử người ban đêm,
xử trong ngày Lễ Lớn, xét xử không đúng chỗ, các nhân chứng không được điều tra
tại các nơi khác nhau và bằng chứng phải được đúng từng chi tiết, mỗi thành phần
của Thượng Hội Đồng không cho sự cáo buộc riêng rẽ, bắt đầu từ người trẻ nhất.
Nếu là bản án xử tử, thời gian một đêm cần thiết trước khi bản án được thi
hành. Mục đích là để mọi thành phần của THĐ có cơ hội suy nghĩ cẩn thận, nếu cần
được khoan hồng. Nói tóm, vì họ muốn lọai trừ Chúa Giêsu ngay, nên họ đã xử
Chúa Giêsu một cách bất hợp pháp.
(4) Của Philatô: Vừa tảng sáng,
các thượng tế đã họp bàn với các kỳ mục và kinh sư, tức là toàn thể Thượng Hội
Đồng. Sau đó, họ trói Đức Giêsu lại và giải đi nộp cho ông Philatô. Như đã nói,
THĐ chỉ có quyền trên những vấn đề thuộc tôn giáo và không có quyền ra án tử
hình cho bị cáo. Vì thế, sau khi đã tìm được lý do để buộc tội Chúa Giêsu phạm
thượng, họ phải tìm một lý do chính trị khác để kiếm án tử hình cho Chúa Giêsu;
vì họ biết rằng Philatô sẽ không quan tâm đến những bất đồng ý kiến về tôn
giáo, như trình thuật của Luca ghi lại. Họ tìm được một lý do chính trị để
Philatô có thể kết án Chúa: Chúa Giêsu xưng mình là Vua dân Do-thái. Khi xưng
mình là Vua dân Do-thái là chống lại quyền lực của đế quốc Roma và hòang đế
Caesar.
- Họ coi Chúa Giêsu không bằng một
tên cướp, Barabbas: “Vào mỗi dịp lễ lớn, ông thường phóng thích cho dân một người
tù, tuỳ ý họ xin. Khi ấy có một người tên là Barabbas, đang bị giam với những
tên phiến loạn đã giết người trong một vụ nổi dậy. Đám đông kéo nhau lên yêu cầu
tổng trấn ban ân xá như thường lệ. Đáp lời họ yêu cầu, ông Philatô hỏi:
"Các ông có muốn ta phóng thích cho các ông vua dân Do-thái không?" Bởi
ông thừa biết chỉ vì ghen tị mà các thượng tế nộp Người. Nhưng các thượng tế
sách động đám đông đòi ông Philatô phóng thích tên Barabbas thì hơn.”
- Họ kêu xin đóng đinh Chúa
Giêsu, Vua dân Do-thái: Ông Philatô lại hỏi: "Vậy ta phải xử thế nào với
người mà các ông gọi là vua dân Do-thái?" Họ la lên: "Đóng đinh nó
vào thập giá!" Ông Philatô lại hỏi: "Nhưng ông ấy đã làm điều gì gian
ác?" Họ càng la to: "Đóng đinh nó vào thập giá!" Vì muốn chiều
lòng đám đông, ông Philatô phóng thích tên Barabba, truyền đánh đòn Chúa Giêsu,
rồi trao Người cho họ đóng đinh vào thập giá.
- Chúa Giêsu chịu đội mão gai:
“Lính điệu Đức Giêsu vào bên trong công trường, tức là dinh tổng trấn, và tập
trung cả cơ đội lại. Chúng khoác cho Người một tấm áo điều, và kết một vòng gai
làm vương miện đặt lên đầu Người. Rồi chúng bái chào Người: "Vạn tuế đức
vua dân Do-thái!" Chúng lấy cây sậy đập lên đầu Người, khạc nhổ vào Người,
và quỳ gối bái lạy. Chế giễu chán, chúng lột áo điều ra, và cho Người mặc áo lại
như trước. Sau đó, chúng dẫn Người đi để đóng đinh vào thập giá.”
- Kẻ qua người lại đều nhục mạ
Người, vừa lắc đầu vừa nói: "Ê, mi là kẻ phá Đền Thờ, và nội trong ba ngày
xây lại được, có giỏi thì xuống khỏi thập giá mà cứu mình đi!"
- Viên đại đội trưởng tuyên xưng
Đức Kitô là Con Thiên Chúa: Viên đại đội trưởng đứng đối diện với Đức Giêsu, thấy
Người tắt thở như vậy liền nói: "Quả thật, người này là Con Thiên
Chúa."
- Mai táng Đức Giêsu (Mk
15:42-47; Lk 23:50 -55; Jn 19:38-42): Họ đã vi phạm trầm trọng luật của ngày
Sabbath là không được ra khỏi nhà và vào chỗ ở của Dân Ngoại. Hôm sau, tức là
khi ngày áp lễ đã qua, các thượng tế và những người Pharisees kéo nhau đến ông
Philatô, và nói: "Thưa ngài, chúng tôi nhớ tên bịp bợm ấy khi còn sống có
nói: "Sau ba ngày, Ta sẽ trỗi dậy." Vậy xin quan lớn truyền canh mộ kỹ
càng cho đến ngày thứ ba, kẻo môn đệ hắn đến lấy trộm xác rồi phao trong dân là
hắn đã từ cõi chết trỗi dậy. Và như thế, chuyện bịp cuối cùng này sẽ còn tệ hại
hơn chuyện trước." Ông Philatô bảo họ: "Thì có sẵn lính đó, các ngươi
hãy đi mà canh giữ theo cách các ngươi biết!" Thế là họ ra đi canh giữ mồ,
niêm phong tảng đá và cắt lính canh mồ. Matthew muốn chứng tỏ uy quyền của
Thiên Chúa: Ngài sống lại và ra khỏi mộ giữa bao nhiêu lính canh phòng cẩn mật,
mà không một ai biết.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta hãy học cách hành xử
khôn ngoan, can đảm, và đầy tình thương của Chúa Giêsu trong những giây phút cuối
cùng của cuộc đời Ngài.
- Ngài vui lòng chịu đau khổ là
vì tình thương dành cho con người; nhưng con người đã mù lòa không chịu nhận ra
và đáp trả tình thương của Thiên Chúa.
- Đau khổ chỉ tạm thời, nhưng
vinh quang dành được sau đau khổ không gì có thể so sánh được. Chúng ta hãy bắt
chước cách chịu đựng đau khổ của Chúa Giêsu.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.



Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét