Trang

Chủ Nhật, 5 tháng 10, 2025

06.10.2025: THỨ HAI TUẦN XXVII THƯỜNG NIÊN

 06/10/2025

 Thứ Hai tuần 27 thường niên.

 TẾT TRUNG THU 

 


Bài Ðọc I: (Năm I) Gn 1, 1 – 2, 1. 11

“Ông Giona chỗi dậy lánh xa mặt Chúa”.

Khởi đầu sách Tiên tri Giona.

Có lời phán cùng Giona, con trai ông Amathi, rằng: “Ngươi hãy chỗi dậy đi sang Ninivê, một thành rộng lớn, và giảng tại đó, vì tội ác của nó thấu đến Ta”.

Giona liền chỗi dậy để trốn sang Tharsê lánh xa mặt Chúa; ông đi xuống Gioppê, gặp tàu đi sang Tharsê, ông liền mua vé, xuống tàu đi với hành khách sang Tharsê, lánh xa mặt Chúa.

Nhưng Chúa khiến trận cuồng phong thổi trên biển và cơn bão táp dữ dội nổi lên, khiến tàu lâm nguy sắp chìm. Các thuỷ thủ lo sợ, hành khách cầu khẩn cùng thần minh của mình. Người ta vứt đồ vật trên tàu xuống biển cho nhẹ bớt, lúc đó ông Giona xuống lòng tàu nằm ngủ mê mệt. Thuyền trưởng đến gần ông và hỏi rằng: “Sao ông ngủ mê mệt như vậy? Hãy chỗi dậy cầu khẩn cùng Thiên Chúa của ông, may ra Thiên Chúa đoái đến chúng ta và chúng ta khỏi chết”.

Ai nấy đều bảo đồng bạn mình rằng: “Các anh hãy lại đây, chúng ta bắt thăm coi biết tại sao chúng ta gặp phải tai hoạ này”. Rồi họ bắt thăm, thì trúng phải ông Giona. Họ bảo ông rằng: “Xin ông cho chúng tôi biết vì cớ nào chúng ta gặp phải tai hoạ này: Ông làm nghề gì? Ở nơi nào? Ði đâu? Hoặc thuộc dân nào?” Ông trả lời họ rằng: “Tôi là người Do-thái, tôi kính sợ Thiên Chúa là Chúa Trời, Ðấng tạo thành biển khơi và lục địa”.

Họ khiếp sợ quá sức và hỏi ông rằng: “Sao ông hành động thế này? (Vì theo lời ông thố lộ, các hành khách biết ông trốn lánh mặt Chúa). Họ liền hỏi ông rằng: “Chúng tôi phải đối xử với ông làm sao đây, để biển yên lặng? vì biển càng động mạnh thêm”. Ông bảo họ rằng: “Các ông hãy bắt tôi vứt xuống biển, thì biển sẽ yên lặng, vì tôi biết tại tôi mà các ông gặp phải trận bão lớn lao này”.

Các thuỷ thủ cố chèo thuyền vào đất liền, nhưng không sao được, vì biển càng động dữ dội hơn. Họ kêu cầu cùng Chúa rằng: “Lạy Chúa, chúng tôi xin Chúa vì mạng sống người này cho chúng tôi khỏi chết. Xin chớ đổ máu vô tội trên chúng tôi, vì, lạy Chúa, Chúa hành động theo như Chúa muốn”. Rồi họ bắt vứt ông Giona xuống biển, và biển liền hết nổi sóng. Mọi người rất kính sợ Chúa, họ tế lễ dâng lên Chúa và làm lời khấn hứa.

Chúa chuẩn bị sẵn một con cá lớn để nuốt ông Giona, và ông Giona ở trong bụng cá ba ngày ba đêm. Sau đó, Chúa truyền lệnh cho cá nhả ông Giona vào bờ.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Gn 2, 2. 3. 4. 5. 8

Ðáp: Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, từ vực sâu thẳm, Chúa đã cứu sống mạng con

Xướng: Nằm trong bụng cá, ông Giona thưa cùng Chúa là Thiên Chúa của mình rằng:

Xướng: Trong cảnh gian truân, con đã kêu cầu tới Chúa, và Ngài đã nhậm lời con; tự lòng vực sâu âm phủ, con đã kêu lên, và Ngài đã nghe rõ tiếng con.

Xướng: Ngài đã ném con xuống vực sâu, trong lòng biển, các dòng nước đã lôi cuốn thân con, bao sóng cả ba đào đều lướt chảy trên mình con.

Xướng: Bấy giờ con tự nhủ: Con đã bị loại xa khỏi thiên nhan Chúa, nhưng con sẽ còn được xem thấy thánh điện Ngài.

Xướng: Khi mà trong người con, linh hồn tuyệt vọng, bấy giờ con đã nhớ (tới) Chúa. Lời cầu nguyện của con đã thấu đến tai Ngài, trong nơi thánh điện của Ngài.

 

Alleluia: 1 Sm 3, 9; Ga 6, 69

Alleluia, alleluia! – Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. – Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 10, 25-37

“Ai là anh em của tôi?”

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, có một người thông luật đúng dậy hỏi thử Chúa Giêsu rằng: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?” Người nói với ông: “Trong Lề luật đã chép như thế nào? Ông đọc thấy gì trong đó?” Ông trả lời: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi, và hãy thương mến anh em như chính mình”. Chúa Giêsu nói: “Ông trả lời đúng, hãy làm như vậy và ông sẽ được sống”. Nhưng người đó muốn bào chữa mình, nên thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Nhưng ai là anh em của tôi?”

Chúa Giêsu nói tiếp: “Một người đi từ Giêrusalem xuống Giêricô, và rơi vào tay bọn cướp; chúng bóc lột người ấy, đánh nhừ tử rồi bỏ đi, để người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ một tư tế cũng đi qua đường đó, trông thấy nạn nhân, ông liền đi qua. Cũng vậy, một trợ tế khi đi đến đó, trông thấy nạn nhân, cũng đi qua. Nhưng một người xứ Samaria đi đường đến gần người ấy, trông thấy và động lòng thương. Người đó lại gần, băng bó những vết thương, xức dầu và rượu, rồi đỡ nạn nhân lên lừa của mình, đưa về quán trọ săn sóc. Hôm sau, lấy ra hai quan tiền, ông trao cho ông chủ quán mà bảo rằng: “Ông hãy săn sóc người ấy, và ngoài ra còn tốn phí hơn bao nhiêu, khi trở về tôi sẽ trả lại ông”.

“Theo ông nghĩ, ai trong ba người đó là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp?” Người thông luật trả lời: “Kẻ đã tỏ lòng thương xót với người ấy”. Và Chúa Giêsu bảo ông: “Ông cũng hãy đi và làm như vậy”.

Ðó là lời Chúa.

 


Chú giải về sách Giô-na 1,1—2,1.11

Sách Giô-na là một trong những sách thú vị nhất trong toàn bộ Kinh Thánh. Có lẽ đây là cuốn sách duy nhất mà tác giả viết với giọng điệu mỉa mai. Mặc dù Kinh Thánh có những điều kỳ diệu, nhưng tính hài hước thường không phải là một trong những đặc điểm của nó. Có rất nhiều sự hài hước, theo kiểu châm biếm, trong sách này. Và, điều hiếm thấy hơn nữa, tiếng cười chủ yếu hướng về nhân vật chính.

Mặc dù được viết theo phong cách tự sự, nhưng nó không phải là lịch sử. Nó là một câu chuyện mang tính giáo huấn với một bài học đạo đức—và một bài học đạo đức rất quan trọng. Việc nó là một cuốn sách có thể gây cười không có nghĩa là thông điệp của nó có thể bị xem nhẹ. Trên thực tế, nó là một trong những tác phẩm cấp tiến nhất của Cựu Ước và được mô tả là đang ở ngưỡng cửa của phúc âm. Chúng ta sẽ thấy lý do tại sao khi đọc tiếp.

Bài đọc hôm nay mở ra bối cảnh cho sự phát triển của câu chuyện. Khi câu chuyện mở đầu, lời của Đức Chúa được nói với một người đàn ông tên là Giô-na, con trai của A-mít-tai. Thực tế, có đề cập đến một nhà tiên tri Giô-na trong Sách Các Vua Quyển II, người sống vào thời Jeroboam II (786-746 TCN). Câu chuyện này, được viết khoảng 300 năm sau thời điểm đó, không phải về ông, mà chỉ sử dụng tên của ông.

Là một nhà tiên tri, Giô-na được lệnh đến thành phố lớn Ni-ni-vê và cảnh báo họ rằng Chúa không hài lòng với sự gian ác khủng khiếp của họ. Theo sách Sáng thế , Ni-ni-vê được xây dựng đầu tiên bởi Nimrod (có lẽ cùng với Rehoboth Ir, Calah và Resen) và theo truyền thống được gọi là "thành phố lớn". Khoảng năm 700 TCN, Sennacherib đã biến nơi này thành thủ đô của Assyria, và nó vẫn giữ nguyên như vậy cho đến khi sụp đổ vào năm 612 TCN. Vào thời điểm sách này được viết, nó đã bị phá hủy từ lâu. Nó cách Gath Hepher, quê hương của Giô-na, khoảng 800 km, một chặng đường dài để nhà tiên tri đi qua.

Ngoại trừ hành vi bạo lực được đề cập sau đó trong câu chuyện, "sự gian ác" của Ni-ni-vê không được mô tả. Tiên tri Nahum sau đó nói rằng tội lỗi của Nineveh bao gồm âm mưu làm điều ác chống lại Chúa, tàn ác và cướp bóc trong chiến tranh, mại dâm, phù thủy và bóc lột thương mại. Dù sao đi nữa, Giô-na, là một người Do Thái sùng đạo, sẽ coi sự vô luân lan tràn và việc bị Đức Chúa từ chối là điều hiển nhiên trong một thành phố ngoại giáo lớn như vậy.

Không chỉ sự vô luân của thành phố được coi là điều hiển nhiên, mà đối với Giô-na, người dân của thành phố này nên chịu chung số phận với tất cả những kẻ ngoại đạo gian ác. Giô-na kinh hoàng trước ý tưởng cố gắng cải đạo họ và không muốn đến đó. Dường như ông không có ý định dính líu gì đến những kẻ ngoại giáo gian ác như vậy. Họ xứng đáng với tất cả những gì Chúa có thể giáng xuống họ.

Vậy là Giô-na khởi hành về hướng tây, theo hướng ngược lại, và lên tàu tại Gia-phô (thành phố Jaffa ngày nay của Israel) đi Tác-sít để tránh xa cả Ni-ni-vê và Đức Chúa càng xa càng tốt—một điều hoàn toàn vô ích. Như Thánh Vịnh 139 đã nói:

Con sẽ đi đâu khỏi thần linh Ngài?

Hoặc con sẽ trốn đâu khỏi sự hiện diện của Ngài?

Nếu con lên trời, Ngài ở đó;

Nếu con nằm dưới Âm phủ, Ngài cũng ở đó.

Nếu con dang cánh bay về phía bình minh

và định cư ở tận cùng biển cả,

ngay tại đó, tay Ngài cũng sẽ dẫn dắt con,

và tay hữu Ngài sẽ nắm giữ con. (Thánh Vịnh 139,7-10)

Giô-na sẽ sớm nhận ra những lời này đúng đến mức nào.

Đối với người Do Thái, ‘Tác-sít’ tượng trưng cho ngày tận thế. Từ này có thể là một biến thể của Tartessus, một thuộc địa khai thác mỏ của người Phê-ni-xi gần Gibraltar ở miền nam Tây Ban Nha. Có lẽ từ tương đương hiện đại sẽ là Timbuctoo! Con tàu vừa mới khởi hành thì Đức Chúa giáng một cơn gió mạnh, một cơn bão dữ dội ập đến khiến con tàu có nguy cơ vỡ tan. Đây chỉ là một trong số nhiều lần Đức Chúa can thiệp vào câu chuyện. Sự bất tuân của Giô-na không chỉ khiến mạng sống của ông gặp nguy hiểm mà còn đe dọa đến tính mạng của một thủy thủ đoàn hoàn toàn vô tội.

Trong nỗ lực cứu mạng, các thủy thủ ném hàng hóa xuống biển để làm nhẹ con tàu, rồi mỗi người cầu nguyện với vị thần của mình—biết đâu một trong số họ sẽ mang đến sự giúp đỡ họ cần. Tuy nhiên, có một người không hề cầu nguyện. Giô-na đang ngủ say dưới boong tàu. Anh ta không chỉ thờ ơ với số phận của mình mà còn với cả những người bạn đồng hành. Có lẽ anh ta nghĩ rằng Đức Chúa "của mình" sẽ chăm sóc cho vị tiên tri của mình, dù là một vị tiên tri bất tuân.

Tuy nhiên, những người ngoại đạo này được cho là sùng đạo hơn Giô-na nghĩ. Chắc chắn hành vi của anh ta hoàn toàn trái ngược với vị thuyền trưởng, người đang sử dụng mọi phương pháp có thể, bao gồm cả việc cầu nguyện với mọi vị thần được biết đến, để cứu những người trên tàu. Và anh ta đánh thức Giô-na  và thúc giục anh ta cầu xin thần của mình, người có thể làm được điều mà các vị thần khác dường như không thể làm được. Mối quan tâm của vị thuyền trưởng "ngoại giáo" đối với sự an nguy của mọi người trên tàu trái ngược với việc vị tiên tri "có đức tin" (?) từ chối mang lòng thương xót và lòng trắc ẩn của Chúa đến với người dân Ni-ni-vê.

Cuối cùng, các thủy thủ đi đến kết luận chính xác rằng có ai đó trên tàu đang mang đến cho họ tất cả những bất hạnh này. Họ bắt thăm để tìm ra người đó là ai và—thật bất ngờ—thăm trúng Giô-na. Trong bối cảnh của câu chuyện, đây không phải là một sự tình cờ.

Bắt thăm là một phong tục phổ biến ở vùng Cận Đông cổ đại. Phương pháp chính xác vẫn chưa rõ ràng, mặc dù dường như, phần lớn, các que củi hoặc viên sỏi được đánh dấu được rút ra từ một vật chứa mà chúng đã được ném vào. Những trò chơi như thế này vẫn còn được tìm thấy ở nhiều nơi trên thế giới.

Ngay lập tức, các thủy thủ bắt đầu tra hỏi Giô-na để tìm hiểu xem ông đến từ đâu. Ông trả lời:

Tôi là người Do Thái… Tôi thờ phượng Chúa, Đức Chúa Trời của thiên đàng, Đấng đã tạo ra biển cả và đất liền.

Các thủy thủ hẳn đã hiểu lời Giô-na là lời mô tả về đấng thiêng liêng tối cao. Những trải nghiệm hiện tại của họ đã xác nhận chân lý này, bởi vì, trong các tôn giáo của vùng Cận Đông cổ đại nói chung, vị thần tối cao là chủ nhân của biển cả.

Đây là lời tuyên xưng đức tin đầu tiên của Giô-na, và, giống như những lời tiếp theo, nó hoàn toàn chính thống. Mặc dù chính thống trong niềm tin của mình, Giô-na từ chối thực hiện sứ mệnh thiêng liêng của mình đến Ni-ni-vê. Điều quan trọng đối với chúng ta cũng là nhận ra rằng sự chính thống về thần học là không đủ để đáp ứng những yêu cầu quan trọng nhất của việc trở thành môn đệ Ki-tô. Những người Pha-ri-sêu cũng chính thống một cách hoàn hảo.

Các thủy thủ kinh hãi trước sự tự mặc khải của Giô-na. Giờ đây, họ đã biết nguyên nhân của mối nguy hiểm của mình. Một người tin vào vị thần cai quản biển cả đã không vâng lời thần của mình và khiến ông tức giận. Và tất cả họ đều là nạn nhân của sự bất tuân của ông. "Ông đã làm gì thế này!", họ nói với ông - một câu hỏi tu từ không cần câu trả lời. Rồi, khi biển động dữ dội hơn, họ hỏi Giô-na phải làm gì với ông để biển lặng trở lại. Dường như họ đang tìm cách cứu mạng mình mà không làm hại Giô-na. Một lần nữa, sự quan tâm của người ngoại đạo dành cho người Do Thái lại vượt xa sự quan tâm của người Do Thái dành cho họ. Đây chính là một phần bài học cốt lõi của câu chuyện.

Cuối cùng, Giô-na bắt đầu nhận trách nhiệm về tình huống này:

Hãy nhấc tôi lên và ném tôi xuống biển; rồi biển sẽ lặng yên cho các người, vì tôi biết chính vì tôi mà cơn bão lớn này đã ập đến với các người.

Đồng thời, việc Giô-na sẵn sàng chết để cứu những thủy thủ đang kinh hãi trái ngược với hành động sau này của ông khi ông rời Ni-ni-vê với hy vọng chứng kiến ​​sự hủy diệt của Đức Chúa ở một khoảng cách an toàn—điều mà tất nhiên, khiến ông vô cùng đau khổ và thất vọng, đã không xảy ra.

Ngay cả bây giờ, các thủy thủ vẫn còn ngần ngại làm theo lời Giô-na, ngay cả khi phải cứu mạng sống của chính mình. Thay vào đó, họ cố gắng chèo thật mạnh để vào được bờ (có lẽ không quá xa; tàu thuyền thời đó thường neo gần bờ hơn là mạo hiểm bị mắc cạn giữa biển khơi). Trong tiếng Do Thái, ngôn ngữ này sử dụng từ ngữ giàu hình ảnh, có nghĩa là "đào" (bằng mái chèo) để chỉ những nỗ lực không ngừng nghỉ của họ. Một lần nữa, sự ngần ngại của các thủy thủ trong việc ném Giô-na xuống biển hoàn toàn trái ngược với sự ngần ngại của Giô-na trong việc mang lời cảnh báo của Chúa đến Ni-ni-vê về sự phán xét sắp xảy ra.

Cuối cùng, vẫn còn đầy nghi ngại, các thủy thủ cầu nguyện với Đức Chúa Trời của Giô-na là Đức Chúa, xin Ngài đừng bắt họ phải chịu trách nhiệm về cái chết của một người vô tội:

Lạy Chúa, chúng con cầu xin, xin đừng để chúng con phải chết vì mạng sống của người này. Xin đừng đổ máu vô tội lên chúng con, vì chính Ngài, lạy Chúa, đã làm điều Ngài muốn.

Sau đó, họ ném Giô-na xuống biển động dữ dội, nhưng ngay lập tức biển lặng. Họ đã làm điều đúng đắn. Đồng thời, sự tĩnh lặng đột ngột khiến họ vô cùng sợ hãi.

Đức Chúa Trời của Giô-na thực sự là Chúa của biển cả, và họ dâng lên Ngài một lễ vật và thề nguyện. Họ biết rằng chỉ có những vị thần quyền năng nhất mới có thể điều khiển biển cả và gió. Cũng hãy nhớ lại phản ứng của các môn đệ sau khi Chúa Giê-su làm dịu cơn bão trên hồ:

Người này là ai mà cả gió và biển cũng vâng lệnh Ngài? (Mát-thêu 8,27)

Họ vừa kinh ngạc vừa lo sợ rằng Giô-na lại có thể bất tuân Đức Chúa Trời đến thế, và họ cố gắng chuộc lỗi cho hành vi tồi tệ của ông. Tác giả cũng nhấn mạnh lòng sùng đạo của những thủy thủ ngoại giáo. Họ phẫn nộ vì Giô-na lại bất tuân Đức Chúa, và bản thân họ cũng sợ xúc phạm Đức Chúa bằng cách hiến tế Giô-na, rồi sau đó lại thờ phượng Đức Chúa Trời của Giô-na, Đấng mà họ công nhận là có quyền năng.

Và đó chính là sự quan phòng của Đức Chúa Trời. Ngài biến ngay cả sự bất tuân của Giô-na thành một ân điển cho những thủy thủ đó, một ân điển mà họ sẽ không được trải nghiệm nếu Giô-na đến Ni-ni-vê ngay từ đầu—những dòng chữ thẳng tắp của Đức Chúa Trời với những đường nét cong queo.

Tất nhiên, không có bằng chứng nào cho thấy những thủy thủ đã từ bỏ tất cả các vị thần khác của họ sau trải nghiệm này. Những người ngoại giáo thời xưa đã sẵn sàng thừa nhận sự tồn tại và quyền năng của nhiều vị thần. Tuy nhiên, ít nhất, các thủy thủ cũng thừa nhận rằng Đức Chúa Trời của Israel đang kiểm soát mọi sự kiện hiện tại, rằng Ngài là Đấng vừa khuấy động vừa làm dịu cơn bão, và rằng ngay lúc này, Ngài là Đấng cần được công nhận và tôn thờ.

Một lần nữa, Đức Chúa lại can thiệp và sắp đặt để một con cá lớn nuốt chửng Giô-na, người đã ở trong bụng cá suốt ba ngày ba đêm. "Con cá lớn" này khó có thể là một con cá voi, vì nó không được tìm thấy ở Địa Trung Hải. Cũng không nên nhầm lẫn nó với "Leviathan", "con rắn" hung dữ của biển cả (xem A-mốt 9,3) hay "con rồng" (xem Gióp 7,12 và các đoạn văn khác).

"Ba ngày ba đêm" có thể, như trong trường hợp chôn cất Chúa Giê-su (từ tối thứ Sáu đến sáng Chủ nhật), ám chỉ một khoảng thời gian bao gồm một ngày trọn vẹn và một phần của hai ngày khác. Dù sao đi nữa, Tân Ước rõ ràng sử dụng trải nghiệm của Giô-na như một điềm báo trước về sự chôn cất và phục sinh của Chúa Giê-su, người đã được chôn trong lòng đất “ba ngày ba đêm” (Mát-thêu 12,40).

Trong bụng cá, Giô-na đã cầu nguyện dài, cầu xin Đức Chúa, điều này không được đề cập trong các bài đọc của chúng ta. Và, vào ngày thứ ba, một lần nữa theo lệnh của Đức Chúa, con cá đã “nôn” Giô-na lên đất liền.

Ông trở lại nơi ông đã bắt đầu. Và, không có gì ngạc nhiên, điều này cho Giô-na một chút thời gian để suy ngẫm về hoàn cảnh của mình. Khi tiếng gọi tiếp theo đến, ông sẽ phản ứng khác đi—đến một mức độ nào đó.

 


Chú giải về Luca 10,25-37

Khi chúng ta đồng hành cùng Chúa Giêsu trên đường lên Giêrusalem, chúng ta bắt gặp câu chuyện tuyệt đẹp này, chỉ có thể tìm thấy trong sách Luca. Hãy tưởng tượng chúng ta sẽ mất mát biết bao nếu Phúc Âm này không được truyền lại cho chúng ta. Thực tế, chúng ta đã đánh mất những kho báu nào khác của Chúa Giêsu qua nhiều thế kỷ?

Chúng ta được biết rằng một kinh sư đã đến gặp Chúa Giêsu với ý định đặt Ngài vào thế phòng thủ và có lẽ khiến Ngài phản bác lại lời dạy của Luật. Không rõ đây chỉ là một cuộc tấn công đơn lẻ hay là một phần của một âm mưu. Câu hỏi nghe có vẻ đơn giản, kiểu mà bất kỳ ai cũng có thể hỏi một giáo viên tôn giáo:

Tôi phải làm gì để được hưởng sự sống đời đời?

Như thường lệ, Chúa Giêsu đặt lại câu hỏi cho người thẩm vấn. Thực tế, là một kinh sư, người này hẳn đã biết câu trả lời và Chúa Giêsu hỏi ý kiến ​​của ông ta. Ông trả lời như một người chép kinh, không phải bằng lời của chính mình, mà trích dẫn hai đoạn trong Ngũ Kinh, từ sách Đệ Nhị Luật và sách Lê-vi, nói rằng chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và yêu thương người lân cận như chính mình. Chúa Giê-su đáp lại:

Ngươi đã trả lời đúng; hãy làm điều này, và ngươi sẽ được sống.

Tuy nhiên, người ấy vẫn chưa thỏa mãn:

…muốn minh oan cho mình, ông hỏi Chúa Giê-su: “Ai là người lân cận của tôi”?

Đối với ông, “người lân cận” dĩ nhiên chỉ những người Do Thái khác giống như ông, nhưng liệu nó có bao gồm tất cả người Do Thái, ngay cả những người không tuân theo Luật pháp? Liệu ông có được cho là cũng phải yêu thương họ không?

Câu trả lời của Chúa Giê-su hẳn đã gây bất ngờ, nếu không muốn nói là sốc. Và nó đến dưới dạng một câu chuyện ngụ ngôn. Đó là câu chuyện mà chúng ta biết đến với tên gọi là câu chuyện ngụ ngôn về Người Sa-ma-ri nhân hậu. Trong mắt hầu hết người Do Thái thời đó, một thuật ngữ như vậy sẽ là một sự mâu thuẫn vì nó nói về một người Sa-ma-ri. Giống như nói ai đó là một "kẻ khủng bố giỏi".

Rất có thể (để câu chuyện có ý nghĩa) người đàn ông bị bọn cướp tấn công và bỏ mặc nửa sống nửa chết trên đường từ Jerusalem đến Jericho là một người Do Thái. Con đường từ Jerusalem đến Jericho dài khoảng 30 km và có độ dốc từ khoảng 800 mét so với mực nước biển xuống khoảng 150 mét dưới mực nước biển. Con đường chạy qua vùng đất đá và sa mạc, tạo cơ hội cho bọn cướp ẩn núp rình rập những du khách không hay biết.

Trong câu chuyện, ba người đã nhìn thấy người đàn ông bị thương ở đó. Hai người trong số họ là những người sùng đạo, những người được kỳ vọng là người yêu Chúa và yêu người lân cận. Tuy nhiên, cả hai đều cẩn thận đi qua phía bên kia. Rất có thể họ đang đi theo hướng ngược lại, tức là họ đang trên đường từ Jericho đến Jerusalem và Đền thờ. Người đàn ông bị thương chắc hẳn đã bê bết máu. Không ai có ý định đến Đền thờ cầu nguyện mà dám bị ô uế và bị làm ô uế về mặt nghi lễ khi tiếp xúc với máu. Nói cách khác, họ đã phớt lờ người đàn ông vì lý do tôn giáo.

Nhưng rồi một người Sa-ma-ri đi ngang qua. Trong mắt người Do Thái, ông là một người xa lạ và dị giáo. Giữa hai dân tộc láng giềng có sự thù địch sâu sắc về mặt lịch sử, địa lý, chủng tộc và tôn giáo. Người Sa-ma-ri bị coi là "con lai" cả về thể chất lẫn tinh thần. Họ có quan hệ họ hàng về mặt dân tộc và chia sẻ một số tín ngưỡng Do Thái, nhưng lại bị coi là dị giáo, "nửa Do Thái". Chúng ta còn nhớ người phụ nữ Sa-ma-ri bên giếng Gia-cốp đã ngạc nhiên như thế nào khi được Chúa Giê-su nói chuyện, người mà lẽ ra phải phớt lờ bà.

Người ngoài cuộc bị khinh miệt này, bị cho là không có chút tinh thần thương xót và trắc ẩn nào của Chúa, đã dành cho người Do Thái nằm trên mặt đất sự quan tâm mà hai người đàn ông sùng đạo kia từ chối. Thực tế, người Sa-ma-ri đã nỗ lực hết sức để chăm sóc người đàn ông bị thương, không tiếc tiền. Hai đồng bạc có vẻ không nhiều, nhưng nó tương đương với hai ngày công và đủ để một người ở trọ trong quán trọ ven đường đến hai tháng.

Ngày nay, thật khó để chúng ta hiểu được tác động của một câu chuyện như vậy đối với người Do Thái truyền thống, chứ đừng nói đến các kinh sư. Trong thế giới ngày nay, nó sẽ giống như một chiến binh Palestine đến giúp đỡ một người lính Israel, hoặc ngược lại. Có lẽ bạn có thể nghĩ đến những ví dụ gần gũi hơn.

Câu hỏi của Chúa Giê-su thật thú vị:

Theo bạn, ai trong ba người này là người lân cận của người đàn ông đã rơi vào tay bọn cướp?

Câu trả lời của kinh sư cũng thú vị không kém:

Người đã tỏ lòng thương xót anh ta.

Vậy thì câu trả lời cho câu hỏi: "Ai là người lân cận của tôi?" không phải là "Tất cả mọi người", như chúng ta đã học trong sách giáo lý, mặc dù điều đó đúng. Câu trả lời của Chúa Giê-su là: Người lân cận là người thể hiện lòng trắc ẩn với người khác đang gặp khó khăn—bất kể người giúp đỡ hay người đang gặp khó khăn là ai. Vấn đề không phải là nhìn nhận mọi người khác như người lân cận của mình, mà quan trọng hơn nhiều, là tôi chủ động trở thành người lân cận của người khác, không phải dựa trên chủng tộc, quốc tịch, nghề nghiệp, giới tính, màu da hay tín ngưỡng của họ, mà dựa trên nhu cầu. Và ai lại không cần tình yêu thương và lòng trắc ẩn?

Cuối cùng, để trả lời cho một câu hỏi mang tính học thuật và thần học: "Ai là người lân cận của tôi?", Chúa Giê-su không nói với người kinh sư rằng người lân cận của ông là gì hay ai, mà là:

Hãy đi và làm như vậy.

Nói cách khác, hãy đi và trở thành người lân cận.

Câu chuyện này có một bài học thứ yếu cho chúng ta về sự rập khuôn. Đối với người Do Thái, có một khuôn mẫu tiêu cực về người Sa-ma-ri (và có lẽ điều này cũng được đáp lại). Thế giới ngày nay của chúng ta đầy rẫy những khuôn mẫu. Chúng ta có những khuôn mẫu về hầu hết mọi chủng tộc, sắc tộc, màu da, mọi giới tính và khuynh hướng chính trị, và chúng có thể ảnh hưởng sâu sắc đến thái độ của chúng ta, và thường là vô thức.

Về mặt chủng tộc, chắc chắn mỗi chủng tộc đều có những đặc điểm dễ nhận biết - người Do Thái, người Ý, người Ireland, người Đức, người Pháp, người Trung Quốc, người Ấn Độ, người Nhật Bản, người Châu Phi - xuất phát từ ngôn ngữ và truyền thống, nhưng việc gán cho mỗi thành viên của một nhóm những đặc điểm chung là một sự vội vàng phi lý. Chúng ta không bao giờ có thể nói rằng "người Ireland là...", hay "người Trung Quốc là...", hay "người Châu Phi là...". Có quá nhiều ngoại lệ.

Mỗi cá nhân cần được tiếp cận riêng lẻ và có những người tốt, người xấu và người thờ ơ trong mỗi nhóm, kể cả nhóm của chúng ta. Nhưng tất cả họ đều có một điểm chung: họ nên tin tưởng rằng sẽ được những người hàng xóm tốt bụng giúp đỡ khi cần.

 

https://livingspace.sacredspace.ie/o1272g/

 

 






Suy niệm: Biến Ðổi Tâm Hồn

Chủ đề chính của đoạn Phúc Âm trên đây là tình yêu thương đối với người lân cận và chủ đề được nhắc đến do bởi hai câu hỏi của luật sĩ: "Tôi phải làm sao để được sống đời đời?" và "Ai là người anh em tôi?"

Chúa Giêsu đã để cho chính luật sĩ phải trả lời cho câu hỏi thứ nhất: "Tôi phải làm gì để được sống đời đời?", và vị luật sĩ đã trả lời đúng trăm phần trăm, dựa trên chính lời Kinh Thánh mà ông đã biết nằm lòng. Và nếu đã biết rõ như vậy rồi thì đâu còn lý do gì để hỏi Chúa Giêsu nữa. Không cần phải luật sĩ mới trả lời cho câu hỏi này, mọi thành phần dân Chúa đều có thể trả lời. Vấn đề là nơi câu hỏi thứ hai: "Ai là người anh em tôi?" Sự hiểu biết thông thái của luật sĩ làm ông ta lúng túng vì hẳn thật vào thời Chúa Giêsu có nhiều trường phái luật sĩ khác nhau đã cố gắng trả lời cho câu hỏi này, nhưng chưa có câu trả lời nào thỏa đáng cả. Có trường phái cho rằng người lân cận mà luật Môisen buộc phải yêu thương là cha mẹ, bạn bè, người đồng hương. Như thế, nhà luật sĩ có lý do để hỏi Chúa Giêsu: "Ai là anh em tôi?", ông muốn biết những giới hạn của tình thương đối với anh chị em để rồi từ đó xác định những bổn phận cần phải tuân giữ. Chúa Giêsu trả lời bằng dụ ngôn người Samari nhân hậu để giúp cho luật sĩ biết là không có giới hạn nào cho tình thương đối với anh chị em và bất cứ ai cần trợ giúp thì người đó là anh chị em của mình. Kết thúc dụ ngôn, Chúa Giêsu đã đặt lại vấn đề như sau: "Ai trong số những kẻ qua đường là người anh em của kẻ bị cướp?", và dĩ nhiên luật sĩ cũng đã trả lời đúng: "Thưa là kẻ có lòng thương xót người ấy".

Giải quyết vấn đề trên bình diện tri thức hiểu biết xem ra rất dễ, chỉ cần một chút hướng dẫn như Chúa Giêsu đã làm trong dụ ngôn thì ta có thể biết được câu trả lời cho vấn đề, nhưng để vào nước Chúa không phải chỉ có biết mà thôi, cũng không phải chỉ nói Lạy Chúa, Lạy Chúa mà thôi, nhưng còn phải thực hành, phải làm nữa, phải thực hiện lời dạy của Chúa và phải làm ngay không được chần chờ.

"Hãy đi và làm như vậy!" xem ra Chúa Giêsu không muốn vị luật sĩ ở lại để tranh luận lý thuyết với Chúa mãi mãi mà hãy dấn thân hành động, vì thế liền sau câu trả lời thứ hai của vị luật sĩ, Chúa Giêsu khuyến khích ngay: "Hãy đi và làm như vậy!"

Khi phải hành động giúp đỡ anh chị em, chúng ta thường hay có thái độ chần chờ, tìm sự chân thành lý do để tránh né để khỏi phải cho đi, để khỏi phải làm ngay công việc bác ái phải làm. Vì thế, vấn đề là luôn luôn phải sẵn sàng phục vụ, vấn đề bắt đầu từ tâm hồn của chúng ta trước, vì phải có tâm hồn yêu thương, cần canh tân chính mình trước. Chúng ta đã thấy Chúa Giêsu đã đổi lại viễn tượng, đã đổi lại câu hỏi của luật sĩ, câu hỏi không còn là: "Ai là anh em ta?" nhưng là: "Ai là anh em của người bị nạn?"

Khi tâm hồn chúng ta đã được biến đổi rồi, đã có đầy tình yêu Chúa rồi thì chúng ta sẽ dễ dàng chu toàn mệnh lệnh yêu thương của Chúa hơn, sẽ yêu thương như Chúa, yêu thương không giới hạn, không tính toán, yêu thương cả đến hy sinh mạng sống mình. Không có tình yêu này to lớn hơn tình yêu của kẻ hiến mạng sống mình cho người mình thương. Vấn đề không phải là biết: "Ai là anh em của tôi?" nhưng vấn đề là biến đổi tâm hồn chúng ta để chúng ta trở thành người lân cận, người anh em của tất cả những anh chị em chung quanh chúng ta.

Lạy Chúa, xin giúp con canh tân chính tâm hồn mình trước và giúp con trở thành người lân cận của tất cả mọi người, mọi nơi và mọi lúc.

(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét