THỨ BA 15/10/2013
Thứ Ba sau Chúa Nhật
28 Quanh Năm
Thánh Têrêxa Giêsu,
trinh nữ, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.
* Chào đời năm 1515
tại Avila, Tây Ban Nha, Têrêxa là một nhà cải tổ dòng Cát Minh, một con người vừa
chiêm niệm vừa hoạt động. Là người chiêm niệm, chị đã ghi lại kinh nghiệm thần
bí của mình trong “chuyến đi lên Thiên Chúa”. Các tập sách của chị đã khiến chị
thành bậc thầy về đường thiêng liêng. Là người sáng lập, chị đã rảo khắp nước
Tây Ban Nha để thiết lập các đan viện. Tâm hồn chị được thống nhất nhờ nỗi khao
khát được sống “một mình với Đấng Độc Nhất”. Chị qua đời ở Avila năm 1582.
Bài Ðọc I: (Năm I) Rm 1, 16-25
"Dẫu loài người
biết Thiên Chúa, họ không tôn vinh Người cho xứng với Thiên Chúa".
Trích
thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh
em thân mến, tôi không hổ thẹn đạo Phúc Âm: vì đó là sức mạnh của Thiên Chúa để
cứu độ mọi kẻ có lòng tin, trước là người Do-thái, sau là người Hy-lạp. Vì
trong đó, đức công chính của Thiên Chúa được tỏ ra bởi đức tin, nhằm vào đức
tin, như có lời chép rằng: "Người công chính sống bởi đức tin".
Quả
thực, cơn thịnh nộ của Thiên Chúa từ trời cao hiện ra trừng phạt những người vô
đạo, bất công, cầm giữ chân lý của Thiên Chúa trong đường tà: vì chưng hễ sự gì
có thể biết được về Thiên Chúa, thì đã được biểu lộ trong họ rồi, bởi Thiên
Chúa đã tỏ bày cho họ. Từ khi sáng tạo thế gian, qua những loài thụ tạo, họ đã
có thể nhìn nhận, hiểu biết những sự không trông thấy được của Thiên Chúa, nhất
là quyền năng đời đời và thiên tính của Người, nên họ không thể chữa mình được.
Vì dẫu họ biết Thiên Chúa, họ không tôn vinh, không cảm tạ Người cho xứng với
Thiên Chúa, song họ đã lầm lạc trong những hư tưởng của họ, và tâm trạng ngu muội
của họ đã ra mù tối. Họ tự khoe là khôn ngoan, nhưng họ đã hoá ra điên dại. Họ đã
hoán đổi vinh quang của Thiên Chúa bất hủ ra giống như hình ảnh của loài người
hay chết và của loài chim, loài thú bốn chân và rắn rết. Vì thế, Thiên Chúa để
mặc cho họ buông theo lòng dục vọng tìm sự dâm ô, thậm chí làm ô nhục đến chính
bản thân họ. Họ là những người đã hoán đổi sự chân thật của Thiên Chúa ra sự dối
trá, đã thờ tự và phụng sự loài thọ tạo thay vì Ðấng Tạo Hoá, Người đáng chúc tụng
muôn đời. Amen!
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 18, 2-3. 4-5
Ðáp: Trời xanh tường thuật
vinh quang Thiên Chúa (c. 2a).
Xướng: 1) Trời xanh tường
thuật vinh quang Thiên Chúa, thanh không kể ra sự nghiệp tay Người. Ngày này nhắc
nhủ cho ngày khác, đêm này truyền tụng cho đêm kia. - Ðáp.
2)
Ðây không phải lời cũng không phải tiếng, mà âm thanh chúng không thể lọt tai.
Nhưng tiếng chúng đã vang cùng trái đất, và lời chúng truyền ra khắp cõi địa cầu.
- Ðáp.
Alleluia: Ga 6, 64b và 69b
Alleluia,
alleluia! - Lạy Chúa, lời Chúa là thần trí và là sự sống; Chúa có những lời ban
sự sống đời đời. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 11, 37-41
"Hãy bố thí,
thì mọi sự sẽ nên trong sạch cho các ông".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi
ấy, lúc Chúa Giêsu còn đang nói, thì có một người biệt phái mời Người dùng bữa
tại nhà ông. Người đi vào và ngồi bàn ăn. Nhưng người biệt phái ngạc nhiên,
nghĩ trong lòng rằng tại sao Người không rửa tay trước khi dùng bữa.
Bấy
giờ Chúa phán cùng ông ấy rằng: "Này các ông, những người biệt phái, các
ông lau rửa bên ngoài chén đĩa, nhưng nội tâm các ông đầy tham lam và gian ác.
Hỡi những kẻ ngu dại, chớ thì Ðấng đã tạo thành cái bên ngoài, lại chẳng tạo
thành cả cái bên trong sao? Hãy đem những cái bên trong ra mà bố thí, thì mọi sự
sẽ nên trong sạch cho các ông".
Ðó
là lời Chúa.
Suy niệm : Quan Tâm Ðến Ðiều Cốt Yếu
Bài
Tin Mừng hôm nay cho thấy nhóm Biệt phái ngạc nhiên vì Chúa Giêsu không rửa tay
trước khi dùng bữa. Họ ngạc nhiên không phải vì Chúa Giêsu không giữ phép vệ
sinh, nhưng vì Ngài không giữ luật định, theo đó, trước mỗi bữa ăn phải rửa tay
bằng nước chứa trong các chum lớn bằng đá, với một số lượng nước được quy định
và qua một cách thức được ấn định. Dưới con mắt người Biệt phái, người nào
không giữ luật này, đó là người không xử sự đúng đắn: chẳng những không giữ vệ
sinh, mà còn nhơ bẩn trước mặt Thiên Chúa; không rửa tay trước khi dùng bữa sẽ
trở nên đối tượng tấn công của quỉ dữ, dẫn đến nghèo đói vì bị phá sản; và bánh
ăn với bàn tay không sạch thì chẳng khác gì phân bón.
Vì
những lý do trên và những lý do khác tương tư, sách các Rabbi có ghi những mẫu
truyện như sau: Một Rabbi nọ không giữ luật rửa tay trước khi dùng bữa chỉ có một
lần, thế mà đến lúc chết đã bị chôn cất như một người bị dứt phép thông công. Một
Rabbi khác bị người Rôma giam giữ, đã dùng nước uống cung cấp rất hạn chế cho
việc thi hành nghi thức rửa tay trước và trong khi dùng bữa, vì thế đã gần phải
chết khát, bởi lẽ ông nhất định thà chết khát hơn là chểnh mảng giữ luật rửa
tay.
Quan
niệm và tâm thức của những người Biệt phái thời Chúa Giêsu coi các phong tục, tập
quán, luật lệ là cốt tủy của việc thờ phượng Thiên Chúa và có giá trị như trọng
tâm của tôn giáo, do đó những ý nghĩa cao thượng khác của niềm tin và tôn giáo
cũng như những giá trị luân lý quan trọng hơn hầu như bị chôn vùi dưới lớp bụi
dầy đặc của những luật lệ rườm rà tỉ mỉ; tâm thức này đưa họ đến việc giữ đạo vụ
hình thức. Câu trả lời của Chúa Giêsu hướng con người vào những giá trị bên
trong, quan tâm đến điều cốt yếu là sự trong sạch của lương tâm và tâm hồn.
Lời
Chúa hôm nay mời gọi chúng ta duyệt xét lại cách thức và mức độ giữ đạo và hành
đạo của chúng ta. Ước gì chúng ta dần dần từ bỏ những cách thức giữ đạo hình thức,
để đi vào chiều sâu của việc sống đạo với một lương tâm trong sạch, một tâm hồn
quảng đại và ý hướng ngay lành.
(Veritas Asia)
Ngày 15 tháng 10
Lễ Thánh Nữ Têrêxa
Avila, Tiến Sĩ
Lễ Nhớ
Bài Ðọc I: Rm 8, 22-27
"Thánh Thần cầu
xin cho chúng ta bằng những tiếng than khôn tả".
Trích
thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh
em thân mến, chúng ta biết rằng cho đến nay, mọi tạo vật đang rên siết trong
cơn đau đớn như lúc sinh nở. Nhưng không phải chỉ tạo vật mà thôi đâu, mà cả
chúng ta nữa, tức là những kẻ đã được hưởng của đầu mùa của Thánh Thần, chúng
ta cũng rên rỉ trong mình chúng ta khi mong Thánh Thần nhận làm nghĩa tử, và cứu
chuộc thân xác chúng ta. Vì chưng nhờ niềm cậy trông mà chúng ta được cứu độ.
Nhưng hễ nhìn thấy điều mình hy vọng thì không phải là hy vọng nữa. Vì ai thấy
điều gì rồi, đâu còn hy vọng nó nữa. Nhưng nếu chúng ta hy vọng điều chúng ta
không trông thấy, chúng ta sẽ kiên tâm trông đợi.
Ðàng
khác, cũng có Thánh Thần nâng đỡ sự yếu hèn của chúng ta. Vì chúng ta không biết
cầu nguyện thế nào cho xứng hợp. Nhưng chính Thánh Thần cầu xin cho chúng ta bằng
những tiếng than khôn tả. Mà Ðấng thấu suốt tâm hồn, thì biết điều Thánh Thần ước
muốn. Bởi vì Thánh Thần cầu xin cho các thánh theo ý Thiên Chúa.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 18, 8. 9. 10. 11
Ðáp: Lạy Chúa, lời Chúa
là thần trí và là sự sống (x. Ga 6, 64b).
Xướng: 1) Luật pháp Chúa
toàn thiện, bồi bổ tâm linh; chỉ thị Chúa cố định, phá ngu kẻ dốt. - Ðáp.
2)
Giới răn Chúa chính trực, làm hoan lạc tâm can; mệnh lệnh Chúa trong ngời, sáng
soi con mắt. - Ðáp.
3)
Lòng tôn sợ Chúa thuần khiết, còn mãi muôn đời; phán quyết của Chúa chân thực,
công minh hết thảy. - Ðáp.
4)
Những điều đó đáng chuộng hơn vàng, hơn cả vàng ròng; ngọt hơn mật và hơn cả mật
tàng ong. - Ðáp.
Bài Ðọc II: 1 Cr 1, 18-25
"Chúng tôi rao
giảng Chúa Kitô chịu đóng đinh trên Thập giá, ...là sự khôn ngoan đối với những
người Thiên Chúa kêu gọi".
Trích
thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh
em thân mến, lời rao giảng về thập giá là sự điên rồ đối với những kẻ hư mất;
nhưng đối với những người được cứu độ là chúng ta, thì điều đó là sức mạnh của
Thiên Chúa. Vì như đã chép rằng:
"Ta
sẽ phá hủy sự khôn ngoan của những kẻ khôn ngoan, sẽ chê bỏ sự thông sáng của
những người thông sáng". Người khôn ngoan ở đâu? Người trí thức ở đâu? Người
lý sự đời này ở đâu? Nào Thiên Chúa chẳng làm cho sự khôn ngoan của thế gian
này trở nên ngu dại sao? Vì khi thế gian tự phụ là khôn, không theo sự khôn
ngoan của Thiên Chúa mà nhận biết Thiên Chúa, thì Thiên Chúa đã muốn dùng sự
điên rồ của lời rao giảng để cứu độ những kẻ tin. Vì chưng, các người Do-thái
đòi hỏi những dấu lạ, những người Hy-lạp tìm kiếm sự khôn ngoan, còn chúng tôi,
chúng tôi rao giảng Chúa Kitô chịu đóng đinh trên thập giá, một cớ vấp phạm cho
người Do-thái, một sự điên rồ đối với các người ngoại giáo, nhưng đối với những
người được gọi, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, thì Ngài là Chúa Kitô, quyền năng của
Thiên Chúa và sự khôn ngoan của Thiên Chúa, vì sự điên dại của Thiên Chúa thì
vượt hẳn sự khôn ngoan của loài người, và điều yếu đuối của Thiên Chúa thì vượt
hẳn sự mạnh mẽ của loài người.
Ðó
là lời Chúa.
Alleluia: Mt 5, 16
Alleluia,
alleluia! - Sự sáng của các con phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ
xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con ở trên trời. -
Alleluia.
Phúc Âm: Mt 5, 13-19
"Các con là sự
sáng thế gian".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi
ấy Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con là muối đất. Nếu muối đã
lạt, người ta biết lấy gì mà ướp cho nó mặn lại? Muối đó không còn sử dụng vào
việc chi nữa, chỉ còn ném ra ngoài cho người ta chà đạp lên nó.
"Các
con là sự sáng thế gian. Một thành phố xây dựng trên núi, không thể che giấu được.
Và người ta cũng không thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng đặt nó trên giá
đèn, hầu soi sáng cho mọi người trong nhà. Sự sáng của các con cũng phải chiếu
giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngợi
khen Cha các con trên trời.
"Các
con đừng tưởng Thầy đến để huỷ bỏ lề luật hay các tiên tri: Thầy không đến để
huỷ bỏ, nhưng để kiện toàn. Vì Thầy bảo thật các con: Cho dù trời đất có qua
đi, thì một chấm, một phẩy trong bộ luật cũng không bỏ sót, cho đến khi mọi sự
hoàn thành. Bởi vậy, ai huỷ bỏ một trong những điều luật nhỏ mọn nhất, và dạy
người khác làm như vậy, sẽ kể là người nhỏ nhất trong Nước Trời; trái lại, ai
giữ và dạy người ta giữ những điều đó, sẽ được kể là người cao cả trong Nước Trời".
Ðó
là lời Chúa.
Suy niệm : Người Ðàn Bà "Rất Ðàn Bà"
Hôm nay là ngày
kính nhớ thánh nữ Têrêxa Avila.
Vị nữ tiến sĩ hội
thánh này đã sống trong một giai đoạn có nhiều xáo trộn nhất đối với Giáo Hội.
Thánh nữ chào đời khi cuộc cải cách của người Tin Lành bắt đầu và qua đời khi
Công Ðồng Trento vừa chấm dứt. Ngài đã được Thiên Chúa ban cho Giáo Hội như một
đóa hoa đẹp đẽ nhất giữa những gai góc đang ụp phủ trên Giáo Hội. Nhưng Têrêxa
Avila cũng chỉ là một người đàn bà giống như rất nhiều người đàn bà khác. Ðẹp,
có nhiều năng khiếu, đảm đang, đa tình... Têrêxa lại là một người đàn bà
"rất đàn bà". Thế nhưng nơi người đàn bà này, người ta thấy có nhiều
tương phản: thông minh nhưng lại thực tế; biết nhiều nhưng không xa vời với
kinh nghiệm sống; thần bí nhưng lại đầy nghị lực để trở thành một nhà cải cách.
Têrêxa là một người
đàn bà hoàn toàn sống cho Chúa, nghĩa là một người đàn bà cầu nguyện, kỷ luật
và biết cảm thông. Trái tim của Têrêxa hoàn toàn thuộc về Chúa. Ðã thách thức tất
cả mọi chống đối của người cha để gia nhập dòng kín, Têrêxa cũng tiếp tục đương
đầu với không biết bao nhiêu chống đối khác khi muốn cải tổ dòng kín. Người đàn
bà yếu đuối này chỉ còn một nơi nương tựa duy nhất: đó là Thiên Chúa.
Là một người sống
cho Chúa hoàn toàn, Têrêxa cũng hoàn toàn sống cho người khác. Canh tân cuộc sống
của mình, Têrêxa cũng không ngừng đi khắp đó đây để giúp người khác canh tân cuộc
sống.
Suốt cuộc đời trải
qua trong gian lao và thử thách, về cuối đời, Thánh nữ đã thốt lên: "Ôi lạy
Chúa, tất cả những ai làm việc cho Chúa đều được đáp trả bằng gian lao, khốn
khó. Nhưng cao quý thay phần thưởng dành cho những ai yêu mến Chúa, nếu họ hiểu
được giá trị của nó".
Hiện
nay, người ta nói đến rất nhiều thứ giải phóng, trong đó có giải phóng người phụ
nữ.
Có
lẽ tất cả những ai đang tranh đấu cho nữ quyền nên nhìn vào mẫu gương của thánh
nữ Têrêxa Avila. Một người đàn bà đã có thể thực hiện được nhiều việc vĩ đại,
nhưng bản chất đàn bà vẫn không hề thay đổi trong con người ấy. Phải chăng người
đàn bà có thể đóng trọn vai trò của họ trong Giáo Hội và trong xã hội khi họ biết
trung thành với ơn gọi cao cả mà Thiên Chúa đã trao ban qua nữ tính của họ!
Người
nữ có phúc nhất trong những người nữ, người nữ cũng đã sống trọn vẹn ơn gọi làm
người: đó là Ðức Maria. Bí quyết để người nữ ấy thể hiện trọn vẹn ơn gọi làm
người nữ và làm người của mình chính là hai tiếng "Xin vâng". Thiên
Chúa đã tạo dựng con người và đã quy định cho con người một định mệnh: định mệnh
đó chính là sống cho Chúa. Ðức Maria, thánh nữ Têrêxa và bao nhiêu vị thánh nam
nữ khác, đã thực hiện được định mệnh đó qua một cuộc sống hoàn toàn vâng phục ý
Chúa. Chỉ có một sự bình đẳng duy nhất: đó là sự bình đẳng trước mặt Thiên
Chúa. Ðức Maria đã minh chứng được sự bình đẳng đó qua sự cộng tác của Mẹ vào
công cuộc cứu rỗi của Ðức Kitô.
Trước
mặt Chúa, mỗi người chúng ta đều có một chỗ đứng. Không có chỗ đứng nào cao trọng
hơn chỗ đứng khác. Hạnh phúc của chúng ta tùy thuộc ở sự đáp trả của chúng ta đối
với tiếng gọi của Chúa.
(Veritas
Asia)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Ba Tuần 28 TN1
Bài đọc: Rom
1:16-25; Lk 11:37-41.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Liên hệ giữa cái
bên ngoài và cái bên trong
Cái
bên ngoài là dấu chỉ của thực tại bên trong, vì "lòng có đầy miệng mới nói
ra." Cái bên ngoài không tự ý nó đứng vững, mà phải được nâng đỡ bởi cái
bên trong; ví dụ, việc giúp đỡ người nghèo là biểu tỏ tình yêu của một người
bên trong; nhưng nếu không có tình yêu bên trong, việc giúp đỡ người nghèo sẽ
chỉ là cách để lấy tiếng khen, và sẽ không thể tồn tại lâu dài được.
Các
Bài Đọc hôm nay muốn nói lên sự liên hệ giữa các hành động bên ngoài với tâm
tình bên trong. Trong Bài Đọc I, Thánh Phaolô xác tín: dựa vào những cái bên
ngoài là công trình tạo dựng của Thiên Chúa, con người phải nhận ra uy quyền và
tình yêu của Thiên Chúa, để con người tin vào Ngài, và thờ phượng Ngài cho đúng
đạo làm con. Nếu không, con người sẽ phải lãnh nhận mọi hậu quả tai hại cho cuộc
sống. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu trách mắng các Biệt-phái chỉ biết chú trọng đến
cái bên ngoài như việc rửa tay trước khi ăn. Ngài mời gọi họ hãy chú trọng nhiều
hơn đến việc thanh tẩy bên trong, để biết sống theo sự thật, lòng nhân từ, và
công lý; vì Thiên Chúa sẽ xét xử con người theo những yếu tố bên trong đó.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I: Hai cách Thiên Chúa mặc khải cho con người.
1.1/
Tin Mừng mặc khải các mầu nhiệm của Thiên Chúa: Con người không thể tự sức
mình biết những ý định của Thiên Chúa, vì Ngài vượt quá khả năng hiểu biết của
con người. Nhưng Thiên Chúa chọn để tỏ mình cho con người biết các ý định của
Thiên Chúa, nhất là qua việc nhập thể của Đức Kitô, người Con Một của Thiên
Chúa. Chính Đức Kitô đã mặc khải cho con người biết các mầu nhiệm của Thiên
Chúa qua Tin Mừng Ngài rao giảng, và các thánh ký đã viết lại Tin Mừng này.
Thánh
Phaolô xác tín: ''Vâng, tôi không hổ thẹn vì Tin Mừng. Quả thế, Tin Mừng là sức
mạnh Thiên Chúa dùng để cứu độ bất cứ ai có lòng tin, trước là người Do-thái,
sau là người Hy-lạp. Vì trong Tin Mừng, sự công chính của Thiên Chúa được mặc
khải, nhờ đức tin để đưa đến đức tin, như có lời chép: Người công chính nhờ đức
tin sẽ được sống.'' Tin vào Đức Kitô là một mầu nhiệm, vì đức tin không phải
hoàn toàn do sự cố gắng của con người; nhưng còn tùy thuộc vào sự trợ giúp của
Thiên Chúa như cho có cơ hội để nghe giảng, có người rao giảng, và ban ơn thánh
thần để hiểu biết sự thật.
1.2/
Thiên nhiên mặc khải sự hiện hữu và vinh quang của Thiên Chúa.
(1)
Kiến thức con người có thể nhận ra sự hiện hữu của Thiên Chúa: Theo thánh Phaolô,
với sự khôn ngoan tối thiểu, con người có thể nhận ra Thiên Chúa qua thiên
nhiên, những công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Thánh Phaolô nói: ''Những gì
người ta có thể biết về Thiên Chúa, thì thật là hiển nhiên trước mắt họ, vì
chính Thiên Chúa đã cho họ thấy rõ. Quả vậy, những gì người ta không thể nhìn
thấy được nơi Thiên Chúa, tức là quyền năng vĩnh cửu và thần tính của Người,
thì từ khi Thiên Chúa tạo thành vũ trụ, trí khôn con người có thể nhìn thấy được
qua những công trình của Người. Do đó, họ không thể tự bào chữa được.''
Khi
không nhận ra Thiên Chúa qua thiên nhiên, trí óc con người còn thua khả năng nhận
thức của loài vật. Tiên tri Isaiah đau đớn nói lên một sự thật: con bò biết chủ,
con lừa biết máng của chủ; con người không biết Đấng tạo dựng ra mình. Kinh
nghiệm con người cũng chứng minh: con chó biết vẫy đuôi khi chủ cho khúc xương,
con mèo biết nép mình bên chân chủ khi được gọi; con người không biết cám ơn
Thiên Chúa về tất cả những gì Thiên Chúa làm cho họ! Đối với hạng người không
nhận ra và cảm tạ Thiên Chúa, Phaolô trách họ: ''vì tuy biết Thiên Chúa, họ đã
không tôn vinh hay cảm tạ Người cho phải đạo. Trái lại, đầu óc họ suy luận viển
vông và tâm trí ngu si của họ hoá ra mê muội. Họ khoe mình khôn ngoan, nhưng đã
trở nên điên rồ.''
(2)
Khi con người không thờ phượng Thiên Chúa, họ sẽ phải lãnh nhận những hậu quả
tai hại: ''Thật
vậy, từ trời, Thiên Chúa mặc khải cơn thịnh nộ của Người chống lại mọi thứ vô
luân và bất chính của những người lấy sự bất chính mà giam hãm chân lý.'' Kinh
nghiệm đời dạy chúng ta: nếu không chịu tuân theo luật lệ, con người sẽ phải
lãnh nhận hậu quả tai hại. Vài ví dụ sẽ làm sáng tỏ vấn đề: Trong nông nghiệp,
nếu chủ ruộng không chịu gieo đúng thời tiết, ông sẽ không gặt hái được mùa
màng. Hay trong luật kiến trúc, nếu thợ xây không chịu theo đúng sơ đồ đã vẽ,
nhà cửa có thể bị sập. Hay trong luật giao thông, nếu một người không chịu theo
sự chỉ dẫn của luật đi đường, người đó có thể mất mạng sống cách dễ dàng. Tương
tự như thế trong lãnh vực đức tin, nếu con người không chịu theo những lời dạy
dỗ của Thiên Chúa, họ sẽ phải lãnh nhận mọi hậu quả tai hại cả đời này và đời
sau. Đời này, họ sẽ bị hướng dẫn vào mọi sự điên rồ: ''thay vì Thiên Chúa vinh
quang bất tử, họ đã thờ hình tượng người phàm là loài phải chết, hay hình tượng
các loài chim chóc, thú vật, rắn rết.'' Họ sẽ bị hướng dẫn vào các đồi bại về
luân lý: ''Thiên Chúa đã để mặc họ buông theo dục vọng mà làm những điều ô uế,
khiến thân thể họ ra hư hèn.''
2/
Phúc Âm: Hãy chú trọng tới sự thanh sạch của tâm hồn.
2.1/
Nhóm Pharisees chú trọng đến hình thức bên ngoài: Rửa tay trước khi
ăn nằm trong luật thanh sạch của người Do-thái. Chúa Giêsu không chống lại việc
rửa tay trước khi ăn, nhưng Ngài muốn nhấn mạnh đến việc thanh sạch tâm hồn bên
trong hơn là thanh sạch bên ngoài. Những người biệt-phái có thể nghĩ không ai
biết được những gì đang xảy ra trong tâm hồn họ; nhưng chỉ có thể nhìn thấy và
đánh giá những hành động họ làm bên ngoài; do đó, họ chú trọng đến việc cầu
nguyện nơi công cộng để mọi người thấy họ đạo đức; ủ rũ khi ăn chay để mọi người
thấy họ biết ăn năn, thống hối; khua chiêng vỗ trống khi làm phúc bố thí để mọi
người biết họ thương người nghèo. Chúa đã từng đả kích những hành động giả hình
này và dạy các môn đệ làm ngược lại: khi cầu nguyện, vào phòng đóng cửa lại;
khi ăn chay, hãy xức dầu thơm trên đầu; khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc
tay phải làm. Chúa Giêsu chống việc đánh giá chỉ dựa trên những hình thức bên
ngoài; vì nó không thật, giả hình, và đánh lừa tha nhân. Nó cũng nguy hiểm cho
chính người làm vì họ sẽ có nguy cơ bị tha hóa: khi đã quá quen với những hành
động giả nhân, giả nghĩa, họ không còn nhận ra sự thực nữa, đeo mặt nạ mà tưởng
là mặt thật của mình.
2.2/
Chúa mời gọi con người chú trọng đến tâm hồn bên trong: Tâm hồn thành thực
bên trong là điều quí trọng trước nhan thánh Chúa; vì Ngài nhìn thấu suốt những
cái mà con người không nhìn được. Thánh Luca nhắc nhở những ai muốn đánh lừa
Thiên Chúa bằng các hình thức bên ngoài: "Đồ ngốc! Đấng làm ra cái bên
ngoài lại đã không làm ra cái bên trong sao? Tốt hơn, hãy bố thí những gì ở bên
trong, thì bấy giờ mọi sự sẽ trở nên trong sạch cho các người." Nếu một
người có tâm hồn cao đẹp bên trong, họ sẽ biểu tỏ qua lời nói và các hành động
bên ngoài. Đó là những người có tâm hồn chân thật và yêu thương tha nhân tận
đáy lòng.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Thiên Chúa tỏ mình cho chúng ta bằng nhiều cách. Để nhận ra Ngài, chúng ta cần
có một tâm hồn khiêm nhường, hăng say học hỏi, và biết quí trọng sự thật.
-
Khi con người chối từ Thiên Chúa, họ sẽ bị dẫn vào các lầm lạc của thế gian. Hậu
quả là một cuộc sống vô luân, làm nô lệ cho ma quỉ, và lạc xa đích điểm của cuộc
đời.
-
Chúng ta hãy biết sống chân tình với Thiên Chúa và với tha nhân. Một cuộc sống
hời hợt và giả hình sớm muộn rồi cũng bị phát giác; và nhất là, không mang lại
cho chúng ta kết quả tốt đẹp.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
HẠT
GIỐNG NẨY MẦM TUẦN 28TN
Lc 11,37-41
A. Hạt giống...
1. Hoàn cảnh : Một người pharisêu mời Chúa Giêsu
đến nhà dùng bữa. Vừa vào nhà, Chúa Giêsu “liền vào bàn ăn” : nghĩa là Ngài
không rửa tay trước. Nhóm Pharisêu coi các nghi thức thanh tẩy rất quan trọng,
không phải vì lý do vệ sinh mà vì lý do luân lý, nhằm tẩy xóa những ô uế mà ta
có thể vô tình bị lây nhiễm khi tiếp xúc với những kẻ tội lỗi. Trong câu chuyện
này, không phải Chúa Giêsu quên, mà đó là lập trường cố hữu của Ngài (x.
11,14.29). Dĩ nhiên người pha-risêu ấy ngạc nhiên và thầm khó chịu trong lòng.
2. Nhân dịp này, Chúa Giêsu đưa ra một bài học về
những cái bên ngoài và bên trong : bên ngoài là việc tuân thủ những quy định về
nghi thức ; bên trong là lòng đạo đức thật. Nhóm pharisêu chỉ chú trọng tới cái
bên ngoài và bỏ quên cái bên trong.
3. Tiếp theo Chúa Giêsu nói về “sự bố thí”. Ngài
khẳng định rằng bố thí có thể thay thế mọi quy định lề luật : đối với người bố
thí cho kẻ nghèo thì mọi cái đều tinh sạch.
B.... nẩy mầm.
1. Cái nhìn toàn diện : Khi chỉ trích những người
biệt phái quá chú trọng đến bề ngoài, không phải Chúa Giêsu chủ trương chỉ lo
đến bề trong. Thực ra “Chúa Giêsu muốn chúng ta có cái nhìn toàn diện về cuộc
sống, về những biến cố xảy đến cho con người (...) Phải có sự thống nhất trong
ý hướng và hành động. Phải có sự hòa hợp giữa đức tin và việc làm. Đi xa hơn
nữa, chúng ta có thể nói Chúa Giêsu không muốn tách biệt giữa cái bên trong với
cái bên ngoài, cái thánh thiêng với cái phàm tục” (Trích “Mỗi ngày một tin
vui”).
2. Nhìn tượng Trái tim Chúa Giêsu, một người nói
: “Có lẽ Chúa Giêsu là người duy nhất dám đưa trái tim bên trong của mình ra
ngoài cho người ta thấy”. Người thứ hai góp ý : “Ngài là người độc nhất trong
lịch sử không cần che dấu gì về mình cả”. (Onward)
3. Một ông vua kia rất ham mặc áo quần đẹp. Hai
tên lưu manh đến gạ gẫm : “Chúng tôi có thể dệt và may cho bệ hạ một bộ áo rất
đặc biệt từ xưa tới nay chưa ai từng thấy. Nhưng áo này phải dệt bằng vàng”. Vì
quá ham bộ áo đặc biệt ấy, nhà vua đưa cho hai tên ấy hết túi vàng này tới túi
vàng khác. Thực ra chúng chẳng may gì cả. Rồi một hôm hai tên lưu manh cho biết
áo đã may xong, mời nhà vua mặc thử. Chúng chỉ làm cử điệu tay chân như đang
mặc áo cho nhà vua. Khi chúng cho biết đã mặc xong, nhà vua hỏi các quan chung
quanh “Áo ta có đẹp không ?” Ai nấy trầm trồ khen nức nở. Quá phấn khởi, nhà
vua bảo quân hầu kiệu ngài ra các đường phố để khoe áo đẹp. Dân chúng hai bên
đường cũng nức nở khen. Nhà vua rất sung sướng. Bỗng nhiên một đứa trẻ hô lớn :
“Ông vua ở truồng ! Ông vua ở truồng !”. Nhà vua nhìn lại mình và mới
biết mình đang ở truồng thật.
4. “Đồ ngốc ! Đấng làm tra cái bên ngoài lại đã
không làm ra cái bên trong sao ?” (Lc 11,40)
Cứ hè đến là nó đi tĩnh tâm hay đi linh thao. Như
mọi người, nó cũng thinh lặng, nhận điểm, dự cầu nguyện, dự lễ, xưng tội, và
còn nức nở sám hối nữa ! ! ! Ai cũng nghĩ nó là người đạo đức. Nhưng lần này nó
lộ nguyên hình là đứa đạo đức giả, đúng hơn, một “diễn viên kịch” đại tài trong
đời sống đức tin. Điều lạ lùng là nó cũng thừa nhận như vậy. Khi bị chất vấn,
nó cười chua chát : “Phải, tôi chưa tin Chúa, tôi đi tìm Ngài và ước ao được
thấy Ngài và ước ao được thấy Ngài qua đời sống của các bạn. Để được đón nhận
nhanh nhất, bằng mọi giá, tôi phải có hình thức giống mọi người. Tôi phải trở
thành Pharisêu...”
Lạy Chúa, chúng con không chuộng lối sống đạo
hình thức, nhưng lại đánh giá và chỉ chấp nhận nhau khi có sự đồng điệu ở bề
ngoài. Vô tình chúng con xô đẩy nhau đến chỗ trở thành những pharisêu chính
hiệu. Chúa ơi, xin đừng để ai muốn tìm Chúa nơi con phải thất vọng. (Hosanna)
Lm.Carolo HỒ BẶC
XÁI – Gp. Cần Thơ
15/10/13 THỨ BA TUẦN 28 TN
Th. Têrêxa Giêsu, trinh nữ, tiến sĩ Hội Thánh
Lc 11,37-41
Th. Têrêxa Giêsu, trinh nữ, tiến sĩ Hội Thánh
Lc 11,37-41
SỐNG TRINH NGUYÊN NHƯ THUỞ
BAN ĐẦU
“Tốt hơn, hãy bố thí những gì
ở bên trong thì bây giờ mọi sự sẽ trở nên trong sạch cho các ngươi.” (Lc 11,41)
Suy niệm: Nhu
cầu làm sạch là nhu cầu thiết yếu của con người. Trong điều kiện môi trường ô
nhiễm ngày nay, đây lại là vấn đề sống còn. Tẩy rửa, làm sạch là nỗ lực tách
những gì dính bám vào làm cho đồ vật đó ra mất đi giá trị, vẻ đẹp nguyên sơ của
nó. Trong đời sống tâm linh, cũng có một nhu cầu tương tự. Người Do Thái rất
coi trọng nghi thức thanh tẩy để giữ mình khỏi dơ bẩn: họ cẩn thận rửa tay
trước khi ăn để khỏi bị ra nhơ uế. Nhưng những thực hành đó chỉ là dấu chỉ bên
ngoài, làm sao người ta có thể dùng để thanh tẩy tấm lòng là thứ nằm sâu bên
trong được? Phương thế mà Chúa Giêsu dạy là hãy đem “bố thí” tất cả những gì ở
bên trong thì mọi sự sẽ nên trong sạch. Bởi vì Đấng làm ra cái bên ngoài cũng
là Đấng đã làm ra cái bên trong.
Mời Bạn: Thanh
tẩy đích thực được Chúa Giêsu gọi tên là “bố thí” có nghĩa là gỡ bỏ mọi thứ vỏ
bọc, tức là những thứ “TÔI CÓ”, -đó là tiền của, chức quyền, địa vị,v.v…- đang
bám dính quá chặt vào linh hồn tôi đến độ tôi tưởng lầm đó là cái “TÔI LÀ”, là
con người thật của tôi. Thanh tẩy là cho đi, là chia sẻ, để trả lại vẻ đẹp rực
rỡ của linh hồn mà Chúa đã tạo dựng từ thuở ban sơ, để dâng cho Ngài chính bản
thân mình trinh nguyên như thuở ban đầu.
Sống Lời Chúa: Để thanh tẩy chính mình, mời bạn sống giản dị
với bản thân, và luôn chân thành, sẵn sàng chia sẻ với tha nhân.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con phó thác mọi sự trong tay Chúa để vui sống
trong tình trạng nguyên tuyền mà Chúa đã dựng nên con. Amen.
Những Kẻ Sống Giả Hình
Việc rửa tay trước khi dùng bữa là một nghi thức, là một nếp
sống theo truyền thống chứ không phải là một giới răn bắt buộc. Ðây là một nghi
thức tự nó không có tính cách bắt buộc tuyệt đối. Nhưng những người biệt phái
đã có thái độ câu nệ vào đó một cách thái quá, đến độ dùng nó như là một mẫu
mực để phán xét giá trị của một người. Chúa Giêsu không để mình phải lệ thuộc
vào một nghi thức bề ngoài này, và đối với Ngài, tâm hồn trong sạch, tuân giữ
luật Chúa là điều quan trọng hơn. Chúa Giêsu đã trách thái độ giả hình của
người Pharisiêu: "Các ngươi lo rửa tay, rửa chén dĩa cho sạch, mà không lo
thanh luyện tâm hồn trong sạch, để tâm hồn mình đầy sự gian ác, mánh
mung".
Bề ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người
không dao. Thái độ sống giả hình, vụ hình thức là một cám dỗ triền miên của con
người mọi thời đại. Những lời trách của Chúa Giêsu đối với người biệt phái,
thức tỉnh mỗi người chúng ta hôm nay trong nếp sống đức tin của mình.
Phải chăng chúng ta cũng đang rơi vào thái độ vụ hình thức giả
hình, chúng ta mang thánh giá Chúa trên mình, đọc kinh trước khi dùng bữa nhưng
thật sự tâm hồn chúng ta thì sao? Có đầy lòng mến Chúa, có tình yêu thương chân
thành, chia sẻ, khiêm tốn phục vụ anh chị em chung quanh hay không? Chúng ta
đến nhà thờ đọc kinh, nhưng tâm hồn chúng ta có đầy lòng yêu mến và tôn thờ
Chúa hay không? Hay là giống như dân Do Thái ngày xưa, bị Chúa Giêsu quở trách:
"Dân này kính Ta bằng môi miệng, nhưng lòng chúng thì ở xa ta. Không phải
chỉ kêu lên "Lạy Chúa, Lạy Chúa" thì được vào nước Trời, nhưng chỉ
những ai thi hành thánh ý Cha Ta thì người ấy mới đáng vào nước Trời". Chu
toàn giới răn Chúa, tôn thờ giới răn Chúa trong Thánh Thần và trong sự thật, đó
là điều quan trọng nhất. Ðức tin chúng ta cần được trưởng thành mỗi ngày một hơn.
Lạy Chúa
Xin giải thoát chúng con khỏi mọi sự giả hình, xin ban cho
chúng con một tâm hồn tràn đầy tình yêu Chúa và nhờ tình yêu này mà chu toàn
những lời dạy của Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm
Sống thật
Bài học đầu tiên tôi học được từ
Chúa Giêsu qua đoạn tin mừng này là Chúa Giêsu sống rất tự do. Chúa Giêsu không
vị nể, không bị lệ thuộc vào bất cứ ai hay vào bất cứ điều gì. Nếu là tôi, và
tôi cũng thấy một số người, không dám góp ý thẳng, nói thẳng như Chúa Giêsu nói
với người Pharisêu mời Chúa Giêsu đến nhà dùng bữa… vì sợ mất lòng. Thế nhưng,
khi suy nghĩ kỹ thì tôi thấy Chúa lại rất thân thiện và rất thương ông ta nên mới
nói thẳng nói thật.
Bài học khác tôi học được nơi Chúa
Giêsu qua đoạn tin mừng này là coi trọng nội dung hơn hình thức, chất lượng hơn
số lượng, phẩm chất hơn nhãn hiệu…
Đây là điều làm tôi nghĩ đến rất nhiều
người có đạo nhưng không sống đạo, có đức tin nhưng không hành động, nghe lời
Chúa nhưng không thực hành…và có thể có cả tôi nữa khi tôi chuộng hình thức và
chạy theo thành tích trong công việc và cuộc sống mỗi ngày.. Sống như thế tôi
cũng chẳng khác gì những người Pharisêu bị Chúa khiển trách trong đoạn tin mừng
này.
Lạy Chúa, xin cho con sống trung thực với Chúa, với tha
nhân và với chính bản thân mình để đời sống của con xứng đáng là người con của Chúa, xứng đáng là
chứng nhân tin mừng. Amen.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
15 THÁNG MƯỜI
Tình Yêu Chúa Kitô Thúc Bách Các
Nhà Thừa Sai Bác Ái
Sứ mệnh cứu
thế của Đức Giêsu Na-da-rét đã được triển khai ở Ấn Độ, đặc biệt ở Calcutta, bằng
một cách thế hết sức hùng hồn, thể hiện một lời chứng đích thực về Thiên Chúa.
Đó là một lời chứng làm cho cả thế giới phải thán phục, một chứng tá làm rung động
lương tâm nhân loại. Tôi đang muốn nói đến cuộc sống và hoạt động của một người
phụ nữ: dù bà không sinh ra ở Ấn Độ, mọi người vẫn gọi bà là Mẹ Têrêsa
Calcutta.
Cách đây ít
năm, người phụ nữ này đã được tình yêu Chúa Kitô thúc bách để phục vụ Ngài nơi
những người khốn khổ và bất hạnh nhất. Mẹ đã bỏ công việc dạy học để thành lập
Hội Dòng Thừa Sai Bác Aùi. Qua những công việc phục vụ đầy ấn tượng cho những
người nghèo khổ nhất, Mẹ Tê-rê-sa thi hành một cách cụ thể sứ vụ cứu thế của
Chúa Giêsu: “mang niềm vui đến cho người nghèo” (Lc 4,18). Mẹ đã trao cho thế
giới một bài học đầy khích lệ về lòng trắc ẩn và tình yêu chân thành đối với những
ai cần được giúp đỡ. Tấm gương của mẹ đã biểu lộ sức mạnh cứu độ. Tấm gương ấy
đang thôi thúc nhiều người nam cũng như nữ thể hiện những chứng tá phục vụ rất
anh hùng. Quả thật, tấm gương của Mẹ Tê-rê-sa vẫn còn tiếp tục động viên họ
kiên trì phục vụ không mệt mỏi.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan
Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên
tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John
Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
Ngày
15-10
Thánh
Têrêxa Giêsu trinh nữ, tiến sĩ Hội Thánh;
Rm
1,16-25; Lc 11,37-41
LỜI SUY NIỆM: “Ông Pharisêu mời Người đến nhà dùng bữa. Tới
nơi, Người liền vào bàn ăn. Thấy vậy, ông Pharisêu lấy làm lạ vì Người không rửa
tay trước khi ăn” (Lc 11,37-38).
Những người Pharisêu họ thường chuộng
những hình thức bên ngoài, và cũng đánh giá người anh em theo những hình thức
đó. Đối với người Kitô hữu chúng ta được Chúa Giêsu dạy bảo: sống đạo cái tâm cần
phải sạch. Khi tâm hồn mình thánh thiện thì cách nhìn cũng như những lời nói,
việc làm và suy nghĩ sẽ đem lại niềm vui cho mọi người chung quanh; và chính
mình cũng được niềm vui đó và hạnh phúc.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
15-10: Thánh TÊRÊXA AVILA, Đồng Trinh, Tiến Sĩ Hội Thánh (1515 - 1585)
Sinh ngày 28 tháng 3 năm 1515,
Têrêxa là một trong 12 người con của ông Anphong Cpêda, lớn lên tại Avila,
vương quốc Castille, miền đất của mộng mơ và của các thánh ". Ngài ham
thích đọc các sách dạy sống khổ hạnh và suy gẫm cuộc đời các thánh. Với lòng
nhiệt thành, Ngài ngây ngất vì hạnh phúc vĩnh cửu ân thưởng cho những đau khổ của
các thánh, cũng như kính sợ những khốn khổ của hoả ngục tồn tại mãi mãi. Ngài
đã nói trong run sợ: - Ai có thể chịu nổi cái ý nghĩ như vậy được ?
Mong mỏi được tử đạo, một ngày kia,
Ngài lén dẫn cậu em Rodrigue đi về miền dân dữ tợn đang hành hạ các Kitô hữu
này. Nhưng mới đi được nửa dặm đường thì ông cậu bắt được và dẫn đưa về nhà.
Không tử đạo được, các em sẽ trở thành những nhà ẩn tu. Các em làm những cái hầm
và cầu nguyện lâu giờ tại đó. Nhưng rồi một ngày kia, những bức tường nhỏ bằng
đá bị sập. Các em nhỏ thánh thiện này thường nhịn ăn để làm việc bác ái.
Năm 13 tuổi, tức năm 1528, Têrêxa mất
mẹ, Ngài khấn nài Mẹ Maria là Mẹ. Chuỗi Mân Côi trở thành vịệc sùng kính đặc biệt
của Ngài.
Têrêxa có một bản chất ngay thẳng,
nhiệt hành và tha thiết mến Chúa. Khoảng 15 tuổi, Ngài lén đọc các truyện kiếm
hiệp làm cho Ngài ra mơ mộng, lúc này, Ngài muốn mặc đẹp, xức dầu thơm, lo
trang sức và thích được ve vãn. Chị em cho Ngài xinh đẹp. Một cô em họ ngây ngất
không muốn rời xa Ngài. Họ nói truyện phiếm với nhau hàng giờ. Têrêxa nói: -
Tôi được cứu thoát, chính là vì kính sợ Chúa, điều mà tôi không bao giờ bỏ mất,
và vì sợ mất danh dự.
Ngài còn nói: - Tôi đã rất ghê tởm
những điều bất lương.
Dầu vậy cha Ngài cũng lo âu và quyết
định gởi Ngài học nội trú ở nơi các nữ tu dòng thánh Augustinô. Têrêxa không
thích thú gì, nhất là đã không hề muốn rằng sau này mình sẽ là nữ tu. Nhưng
Ngài phải vâng lời. Và Ngài sắp tìm lại được lòng đạo đức nhiệt thành của tuổi
thơ khi sống gần các bậc thầy này. Hơn khi nào, Ngài khao khát những của cải đời
đời. Nhưng đời sống khắc khổ trong tu viện làm Ngài run sợ.
Têrêxa ngã bệnh. Ngài trở về nhà cha
và nghe ông cậu nhắc lại rằng mọi sự đời này chỉ là phù vân và sẽ qua mau như
chớp. Sau cùng Ngài hiểu rằng: ơn gọi của mình là sống đời tu sĩ. Nhưng những
chống đối dữ dội nổi lên trong lòng. Hơn nữa, Ngài phải coi thường những chối từ
của cha Ngài. Năm 1536, Ngài vào dòng kín Camelô, sau khi phải chịu đựng cuộc
chiến đấu kinh khủng với chính mình: để giã từ nhà cha, Ngài khổ sở đến dộ
xương cốt như rã rời và tan nát con tim. Nhưng rồi Ngài đã mạnh mẽ thắng vượt mọi
cám dỗ đau khổ.
Têrêxa đã trải qua 27 năm tại tu viện
Nhập Thể, là nơi luật lệ được châm chước cho phép giải trí và tiếp khách, Ngài
còn phải qua một bước dài trước khi dấn mình vào con đường cực nhọc để xây dựng
và cải sửa các dòng tu. Trước hết, sức khỏe của Ngài xem ra không chịu đựng nổi.
Bệnh tật, Ngài trở về nhà, các bác sĩ tuyên bố là bất trị, Ngài tín thác vào
thánh Giuse và khỏi bệnh sau một cơn ngất trí. Trở lại tu viện, Ngài được chị
em yêu mến.
Cách nói chuyện hấp dẫn của Ngài lôi
kéo nhiều cuộc viếng thăm. Ngài kể lại:
- Một đàng Chúa gọi tôi, đang khác
thì thế gian lôi kéo. Cuộc chiến nội tâm xâu xé tôi.
Ngày kia trong một câu chuyện trần tục,
Ngài đã được thị kiến thấy Chúa Giêsu đầy thương tích. Têrêxa thấy đau lòng,
nhưng Ngài còn phải chiến đấu nhiều để đạt tới chỗ chỉ yêu các tạo vật trong
Chúa và vì Chúa. Trong nhiều năm, Ngài đã trải qua sự khô khan, qua cơn sợ hãi
hỏa ngục. Trong vòng 20 năm Ngài đã không tìn ra cha giải tội hiểu được Ngài và
muốn bàn về việc thị kiến. Thánh Phanxicô Borgia đã trấn an Ngài.
Sau cùng, các cha giải tội buộc Ngài
ghi lại điều đã xảy ra trong tâm hồn. Và thánh nữ, một con người ít học, đã viết
nên được những tác phẩm có giá trị, đến nỗi Ngài đã đáng được danh hiệu là Tiến
Sĩ Hội Thánh.
Nếu trước hết, sự sợ hãi các khổ cực
đời đời đã dẫn Têrêxa vào đường hẹp đưa tới chỗ cứu rỗi thì bây giờ tình yêu
Chúa xâm chiếm Ngài như cơn hỏa hào. Các cuộc xuất thần tăng thêm. Ba Ngôi, Đức
Trinh nữ, các thiên thần và các thánh hiện ra với Ngài. Ngài được nâng lên khỏi
mặt đất và ở nguyên như vậy khi cầu nguyện. Vào tuổi 43, thánh nữ thường thấy Đấng
cứu thế và nghe Người nói: - Cha không muốn con nói truyện với loài người,
nhưng với các thiên thần.
Một thiên thần dùng giáo đâm thủng
tim Ngài và Chúa Giêsu gọi Ngài là hiền thê. Cho tới cuối đời, Ngài đã hiệp nhất
với đấng cứu chuộc bị đóng đinh và đã ước được chịu khổ vì Người đến nỗi người
ta thường nghe Ngài kêu lên: - Lạy Chúa, hoặc là chết, hoặc là đau khổ.
Ngài tự ràng buộc bởi lời khấn anh
hùng này, là luôn làm điều thiện hảo hơn, nhưng lại chẳng tỏ ra nhiệm nhặt chút
nào, trái lại còn nhanh nhẹn vui tươi duyên dáng tới độ gõ sênh mua vui cho các
nữ tu dòng kín Camêlô. Vị nữ tu chiêm niệm này còn tỏ lộ một sự hiểu biết tích
cực, một tinh thần thực tiễn sẽ đưa Ngài tới cuộc cải đổi dòng Camelô.
Định mệnh đặc biệt sắp đưa Ngài qua
mọi chặng đường để thiết lập các tu viện. Trước hết năm 1562, khép mình ở Avila
nhưng một nhà mang danh thánh Giuse, là nơi các nữ tu sống trong thinh lặng,
nghèo khó, cầu nguyện, chay tịnh, đi chân không trong mọi mùa, Têrêxa ra khỏi
nơi này và không ngừng thiết lập, tổ chức những tu viện mới. Hầu như luôn luôn
bệnh hoạn, Ngài theo đuổi những cuộc hành trình mệt lả trước sự nóng nung, làm
mồi cho các côn trùng tấn công hay những đêm lạnh lẽo mùa đông đã giữ Ngài lại
trong những đoạn đường không tên không có nơi trú ẩn. Những cuộc bắt bớ tấn
công Ngài. Ngài viết cho một ân nhân: - Cho tiền bạc chẳng là gì, nhưng khi
chúng tôi như đến lúc bị ném đá, thì công việc lại trôi chảy.
Và khi mẹ đã vượt thắng mọi ngăn trở
và thiết lập các tu viện mới, cơn đau đớn nhức nhối lại đợi chờ Ngài vì phải
giã từ con cái yêu dấu để ra đi xây dựng tu viện ở nơi khác. Đây là: - Nỗi thống
khổ đớn đau nhất. Tim tôi tan nát đau khổ nghĩ rằng: sẽ không còn gặp lại họ nữa.
Thánh Gioan thánh giá trợ lực, Ngài
trải rộng việc canh tân tới các cha dòng Carmes mà Ngài muốn tái lập sự nghiêm ngặt
ban đầu, điều gây nên cho Ngài nhiều xôn xao và dường như làm cho Ngài bị cầm
tù. Nhà vua và đức giáo hoàng bảo vệ Ngài. Ngài đã thiết lập hơn 30 tu viện. Hoạt
động chưa từng nghe thấy của Ngài, những việc thiết lập, những cuộc du hành, những
khó khăn vô số... đã không ngăn cản Ngài vui hưởng sự hiện diện của Chúa, kiên
trì cầu nguyện, và thường xuất thần, Ngài nói: - Tôi không hiểu tại sao người
ta bảo tôi là nhà sáng lập, chính Chúa sáng lập chứ không phải tôi.
Người ta còn nói lại những phép lạ của
Ngài, như tăng thêm đống bột để nuôi cả cộng đoàn. Khi đi qua đồng quê, nhiều
gia đình lũ lượt xin Ngài ban phép lành.
Giữa các hoạt động lạ lùng, Têrêxa vẫn
viết về đời mình mà Ngài gọi là sách các kỳ công của Chúa, và "Lâu Đài Nội
Tâm" là nơi tâm hồn Ngài, từng phòng một vươn tới uy linh Chúa. Với sự
linh hoạt, Ngài biết dùng vài lời tóm gọn tất cả sự thánh thiện:
- Phải can đảm để trở thành phụ nữ của
vua trên trời.
- Đừng lo suy nghĩ nhiều, nhưng là
yêu nhiều.
- Ta nhân đức hơn khi liên kết với
nhân đức của Chúa, hơn là dính chặt với phận bụi đất của ta.
- Nỗ lực của ta là bắt chước con tằm,
xây tổ của ta bằng cách tẩy trừ ích kỷ và thực hiện những việc xám hối cầu nguyện,
hy sinh, vâng lời. Thiên Chúa sẽ biến ta thành bướm trắng khi Ngài muốn.
- Quan trọng là biết yêu mến và kính
sợ, hai nhân đức vĩ đại.
- Khi bị đau khổ bên ngoài cần chăm
lo làm việc bác ái và biết hy vọng vào lòng thương xót của Chúa.
Ngài có chút hài hước trong sự thánh
thiện, như lời hóm hỉnh được biết đến nhiều, khi Ngài bị thương ở chân: - Lạy
Chúa, sau bao nhiêu phiền muộn lại đến chuyện đó nữa, Cha đối xử với bạn hữu của
cha như thế đó…. Vâng lạy Chúa của con, không lạ gì mà Chúa ít bạn.
Lòng Ngài rảo khắp thế giới: - Những
người An độ nghèo khổ này làm tôi đổ bao nhiêu là nước mắt.
Têrêxa qua đời tại miền quê ở Albe
de Tormès ngày 04 tháng 10 năm 1583. Chính tình yêu quá mức hơn là con bệnh đã
đưa tới cái chết của Ngài. Khi đưa Thánh thể vào phòng, Ngài đã ngăn cho Ngài
khỏi tung ra khỏi giường. Ngài đã la to: "Lạy Chúa, đến lúc chúng ta gặp
nhau rồi". Và đời đời, Têrêxa đã hiệp nhất với tình yêu.
Ngài được tuyên thánh năm 1628 và
ngày 27 tháng 9 năm 1970, Đức giáo hoàng Phaolô VI đã đặt Ngài làm tiến sĩ Hội
Thánh .
(daminhvn.net)
Thứ Ba 15-10
Thánh Têrêsa Avila
(1515-1582)
T
|
hánh Têrêsa Avila sống
trong thời kỳ nhiều khai phá cũng như nhiều biến động chính trị, xã hội và tôn
giáo. Ðó là thế kỷ 16, thời của hỗn loạn và cải tổ. Cuộc đời của thánh nữ bắt
đầu với sự cực thịnh của phong trào cải cách Tin Lành, và chấm dứt sau Công Ðồng
Triđentinô ít lâu.
Ơn sủng mà Thiên Chúa
ban cho Têrêsa mà qua đó ngài trở nên thánh thiện, để lại gương sáng cho Giáo
Hội và hậu thế gồm có ba điểm: Ngài là một phụ nữ; ngài là người chiêm niệm;
ngài là người tích cực sửa đổi.
Là một phụ nữ, nhưng Têrêsa
giữ vững lập trường của mình trong một thế giới "trọng nam khinh nữ"
vào thời đó. Ngài là người cương quyết, gia nhập dòng Camêlô bất kể sự chống
đối kịch liệt của cha mình. Ngài không phải là một con người chìm trong sự
thinh lặng cũng như sự huyền bí. Ðẹp, có tài, giỏi giao tế, dễ thích ứng, trìu
mến, can đảm, hăng say, ngài thực sự là một con người. Cũng như Ðức Giêsu, ngài
có những mâu thuẫn lạ lùng: khôn ngoan, nhưng thực tế; thông minh, nhưng đi đôi
với kinh nghiệm; huyền bí, nhưng là người quyết liệt cải cách. Một phụ nữ thánh
thiện, nhưng cũng đầy nữ tính.
Têrêsa là một phụ nữ
"vì Chúa", một phụ nữ của cầu nguyện, kỷ luật và giầu lòng
thương. Tâm hồn ngài thuộc về Chúa. Sự hoán cải của ngài không chỉ là một công
việc tức thời, nhưng đó là một tranh đấu gian khổ suốt cả đời, bao gồm sự
trường kỳ thanh luyện và đau đớn. Ngài bị hiểu lầm, bị đánh giá sai, bị chống
đối khi ngài nỗ lực cải cách. Tuy nhiên ngài vẫn tiếp tục, vẫn can đảm và trung
tín; ngài chống trả với chính bản thân, với bệnh tật. Và trong cuộc chiến đấu
ấy, ngài luôn bám víu lấy Thiên Chúa trong lời cầu nguyện. Những văn bản của
ngài về sự cầu nguyện và chiêm niệm là chính những kinh nghiệm bản thân của
ngài: thật mạnh mẽ, thật thiết thực và thanh cao. Một phụ nữ của cầu nguyện, một
phụ nữ vì Chúa.
Têrêsa cũng là một phụ
nữ "vì tha nhân." Qua sự chiêm niệm, ngài dành nhiều thời giờ
và sức lực để tìm cách thay đổi chính ngài và các nữ tu Camêlô, để đưa họ trở
về với những quy tắc ban đầu của nhà dòng. Ngài sáng lập trên sáu tu viện mới.
Ngài đi đây đó, viết lách, chiến đấu -- luôn luôn để canh tân, để cải tổ. Trong
chính bản thân ngài, trong lời cầu nguyện, trong đời sống, trong nỗ lực cải tổ,
trong tất cả mọi người ngài gặp, ngài là người phụ nữ vì tha nhân, người phụ nữ
làm phấn khởi cuộc đời.
Vào năm 1970, Giáo Hội
ban cho ngài một danh hiệu mà người đời đã nghĩ đến từ lâu: Tiến Sĩ Hội Thánh.
Ngài là người phụ nữ đầu tiên được vinh dự này.
Lời Bàn
Ngày nay chúng ta sống
trong một thời đại nhiều xáo trộn, thời đại cải tổ và thời đại giải phóng. Các
phụ nữ thời đại có thể nhìn đến Thánh Têrêsa như một thách đố. Thúc giục canh
tân, thúc giục cầu nguyện, tất cả đều có trong con người Thánh Têrêsa là người
đáng khâm phục và noi gương.
Lời Trích
Thánh Têrêsa hiểu rõ giá
trị của sự đau khổ liên tục (bệnh tật thể xác, không muốn cải tổ, khó khăn cầu
nguyện), nhưng ngài đã luyện tập để có thể chịu đau khổ, ngay cả khao khát đau
khổ: "Lạy Chúa, hoặc là đau khổ hoặc là chết." Cho đến gần
cuối đời, ngài đã kêu lên: "Ôi lạy Chúa! Thật đúng là bất cứ ai làm
việc cho Ngài đều được trả bằng những khó khăn! Và đó thật đáng giá cho những
ai yêu mến Ngài nếu chúng con hiểu được giá trị của nó."
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét