Tình yêu đam mê - Phần III
chương IV Tông huấn Niêm Vui Yêu Thương
Phần 3 chương 4 Tông huấn “Niềm
Vui Yêu Thương” của ĐTC có tiểu đề “Tình yêu đam mê”, từ số 142 tới 162, trong
đó ĐTC nói về: thế giới của các xúc cảm, Thiên Chúa yêu thương niềm vui của con
cái Ngài; chiều kích dục vọng của tình yêu; bạo lực và lèo lái; hôn nhân và đồng
trinh.
Thế giới của các cảm xúc –
Các ước muốn, tâm tình và cảm xúc, điều mà các nhà cổ điển gọi là “các đam mê”,
chiếm một chỗ quan trọng trong hôn nhân. Chúng nảy sinh, khi một người khác hiện
diện và biểu lộ trong cuộc sống riêng. Mỗi một người đều hướng tới một thực tại
khác, và khuynh hướng này luôn luôn có các dấu chỉ yêu thương nền tảng: khoái cảm
hay đau đớn, niềm vui hay nỗi buồn, sự dịu hiền hay sự sợ hãi. Chúng là giả thiết
của sinh hoạt tâm lý sơ đẳng nhất. Con người là một sinh vật của trái đất này
và tất cả những gì nó làm hay tìm kiếm đều đầy đam mê (s. 143).
Như là người thật, Chúa Giêsu
đã sống các sự vật với nhiều xúc cảm. Vì thế sự khước từ của Giêrusalem khiến
cho Ngài đau đớn (x. Mt 23,37) và tình trạng này khiến cho Ngài phải sa nước mắt
(x. Lc 19,41). Cũng thế Ngài cảm thương trước các khổ đau của con người (x. Mc
6,34). Khi trông thấy những người khác khóc, Ngài cảm động và thổn thức (x. Ga
11,33), và chính Ngài đã khóc thương cái chết của một người bạn (x. Ga 11,35).
Các biểu lộ này của sự nhậy cảm nơi Ngài cho thấy con tim nhân loại của
Chúa rộng mở cho tha nhân tới mức nào (s. 144).
Tự nó việc cảm thấy một xúc động
không phải là một cái gì tốt hay xấu trên bình diện luân lý. Bắt đầu cảm thấy ước
muốn hay khước từ không phải là tội, cũng không phải là điều đáng khiển trách.
Điều là thiện hay ác là hành động mà một người thi hành, bị thúc đẩy hay đi
kèm bởi một đam mê. Nhưng nếu các tâm tình được nuôi dưỡng, tìm kiếm và
vì chúng mà chúng ta phạm các hành động xấu, sự dữ ở trong quyết định dưỡng
nuôi chúng và trong các hành động xấu, hậu quả của chúng. Trên cùng bình diện cảm
thấy khoái đối với ai đó tự nó không phải là một thiện ích. Nếu với sự khoái cảm
đó tôi làm cho người ấy trở thành nô lệ tôi, tình cảm sẽ phục vụ sự ích kỷ của
tôi. Tin rằng chúng ta tốt chỉ vì chúng ta cảm thấy các tâm tình là một lừa dối
kinh khủng. Có những người cảm thấy khả năng có một tình yêu thương lớn
lao chỉ vì họ cần một sự trìu mến lớn lao, nhưng họ lại không thể chiến đấu cho
hạnh phúc của người khác, và sống khép kín trong các ước muốn của họ. Trong trường
hợp này các tâm tình lấy mất đi các giá trị to lớn, và che dấu một khuynh hướng
ích kỷ, không thể vun trồng được một cuộc sống gia đình lành mạnh và hạnh phúc
(s. 145).
Đàng khác, nếu một đam mê kèm
theo một hành động tự do, có thể biểu lộ sự sâu xa của việc lựa chọn này. Tình
yêu hôn nhân đưa tới chỗ khiến cho toàn cuộc sống xúc cảm trở thành một thiện
ích đối với gia đình, cũng như phục vụ cuộc sống chung. Sự trưởng thành đến được
trong một gia đình, khi cuộc sống cảm xúc của các thành phần biến thành một sự
nhậy cảm không thống trị, cũng không làm lu mờ các lựa chọn lớn và các gia trị,
nhưng hỗ trợ sự tự do của chúng, nẩy sinh từ nó, làm giầu cho nó, tô đẹp nó và
khiến cho nó được hài hoà cho thiện ích của tất cả mọi người (s. 146).
Thiên Chúa yêu thương con cái
Ngài - Điều này đòi hỏi một lộ trình sư phạm, một tiến trình bao gồm các
từ bỏ. Nó là một xác tín của Giáo Hội, nhiều lần đã bị khước từ như thể là thù
địch với niềm hạnh phúc của con người. Đức Biển Đức XVI đã tiếp nhận vấn nạn
này một cách rất rõ ràng: “Với các điều răn và các cấm đoán của mình Giáo Hội lại
đã không khiến cho điều đẹp đẽ nhất của cuộc sống trở thành cay đắng hay sao?
Giáo Hội có lẽ không giơ cao các biển cấm tại chính nơi niềm vui được Đấng Tạo
Hóa định trước cho chúng ta, Ngài cống hiến cho chúng ta một niềm hạnh phúc khiến
cho chúng ta nếm hưởng được cái gì đó của Thiên Chúa? Nhưng Đức Biển Đức XVI trả
lời rằng tuy trong Kitô giáo không thiếu các thái quá hay các khuynh hướng khổ
chế lệch lạc, giáo huấn chính thức của Giáo Hội, trung thành với Thánh Kinh, đã
không khước từ “dục vọng như nó là, nhưng đã tuyên chiến với sự lệch lạc phá hoại,
bởi vì việc thần thánh hóa dục vọng lấy mất đi phẩm giá của nó và khiến cho nó
không nhân bản nữa (s.147).
Việc giáo dục cảm xúc và bản
năng cần thiết, và để đạt mục đích này đôi khi cần tự đặt ra vài hạn chế. Sự
thái quá, thiếu kiểm soát, ám ảnh vì một loại lạc thú duy nhất, kết thúc bởi việc
làm suy yếu, gây bệnh cho chính lạc thú đó, và làm hư hỏng đời sống gia đình.
Trên thực tế ta có thể hoàn thành một con đường tốt đẹp với các đam mê, điều
này có nghĩa là luôn luôn hướng dẫn chúng hơn vào một dự án tự hiến và thực hiện
tràn đầy chính mình, làm giầu cho các tương quan liên bản vị trong gia đình. Nó
không bao gồm việc khước từ các lúc tươi vui sâu đậm, nhưng lãnh nhận chúng
trong một giao thoa với các lúc khác của sự tự hiến quảng đại, của niềm hy vọng
kiên nhẫn, của sự mệt mỏi không thể tránh được, của cố gắng cho một lý tưởng.
Cuộc sống trong gia đình là tất cả những điều này và nó đáng công được sống một
cách trọn ven (s. 148).
Có vài trào lưu tu đức nhấn mạnh
trên việc loại bỏ ước mong tự giải thoát khỏi khổ đau. Nhưng chúng ta tin rằng
Thiên Chúa yêu thương sự tươi vui là người, rằng Ngài đã tạo dựng tất cả để
chúng ta vui hưởng nó (1 Tm 6,17). Chúng ta hãy để cho niềm vui trào lên trước
sự hiền dịu của Ngài, khi Ngài đề nghị với chúng ta: “Hỡi con, hãy đối xử tốt với
mình… Đừng từ chối không hưởng một ngày vui” (Hc 14,11.14). Một cặp vợ chồng
đáp trả lại ý muốn của Thiên Chúa, khi sống theo lời mời gọi này của Thánh
Kinh: “Trong ngày vui hãy cứ sung suớng” (Gv 7,14). Vấn đề là có tự do để chấp
nhận rằng lạc thú có các hình thái diễn tả trong các lúc khác nhau của cuộc sống,
theo các nhu cầu của tình yêu đối với nhau hay không. Trong nghĩa đó, ta có thể
tiếp nhận đề nghị của vài bậc thầy đông phương, nêu bật việc nới rộng lương
tâm, để không bị giam hãm trong một kinh nghiệm rất hạn hẹp khép kín các viễn
tượng đối với chúng ta. Việc rộng mở ấy của lương tâm không phải là khước từ
hay phá huỷ ước muốn, nhưng là sự giãn nở và hoàn thiện nó (s. 149).
Chiều kích dục vọng của tình
yêu – Tất cả những điều này đưa chúng ta tới chỗ đề cập tới cuộc sống tính dục
của các cặp vợ chồng. Chính Thiên Chúa đã tạo dựng nên tính dục, là một món quà
tuyệt diệu cho các thụ tạo. Khi ta vun trồng và kiểm soát nó, là ta ngăn cản xảy
ra việc làm nghèo nàn giá trị đích thực của nó. Thánh Gioan Phaolô II đã đẩy
lui ý tưởng giáo huấn của Giáo Hội đưa tới việc khước từ giá trị của tính
dục con người, hay chỉ đơn thuần khoan nhượng nó vì sự cần thiết của việc sinh
con cái. Nhu cầu tính dục của các vợ chồng không phải là đối tượng sự khinh rẻ,
và tuyệt đối đây không phải là việc đặt vấn đề liên quan tới nhu cầu ấy (s.
150).
Đối với những người sợ rằng với
việc giáo dục các đam mê và tính dục người ta làm hư hại tính tự phát của tình
yêu tính dục, thánh Gioan Phaolô II trả lời rằng con người đuợc mời gọi tới sự
tự phát tràn đầy và trưởng thành của các tương giao, rằng đó là hoa trái tiệm
tiến của việc phân định các thúc đẩy của con tim mình. Nó là một cái gì mà người
ta chính phục, bởi vì mỗi người phải học biết ý nghĩa thân xác của mình với sự
kiên trì và trung thực. Tính dục không phải là một tài nguyên cần thoả mãn hay
vui hưởng, bởi vì nó là một ngôn ngữ liên bản vị, trong đó tha nhân được đối xử
nghiêm chỉnh, với giá trị thánh thiêng và không thể xâm phạm của họ. Trong cách
thức đó trái tim con người trở thành việc chia sẻ một sự tự phát khác. Trong bối
cảnh này dâm dục xuất hiện như là biểu lộ chuyên biệt tính dục của con người.
Trong nó ta có thể tìm lại được ý nghĩa hôn nhân của thân xác và phẩm giá đích
thực của món quà. Trong các bài giáo lý về nền thần học của thân xác con người,
thánh Gioan Phaolô II đã dậy rằng tính cách xác thể tính dục không chỉ là suối
nguồn của sự phong phú và sinh con cái, nhưng nó chiếm hữu khả năng diễn tả
tình yêu: tình yêu trong đó con người bản vị trở thành món quà. Dâm dục lành mạnh
nhất, tuy nó hiệp nhất với một việc tìm kiếm lạc thú, giả thiết sự kinh ngạc và
vì thế có thể nhân bản hoá các thúc đẩy (s. 151)
Vì thế, chúng ta không cách
nào có thể hiểu chiều kích dục vọng của tình yêu như một sự dữ được cho phép,
hay như một gánh nặng cần gánh chịu cho thiện ích của gia đình, mặc dù như là
ơn của Thiên Chúa, là Đấng làm đẹp cuộc gặp gỡ giữa các vợ chồng. Vì là một đam
mê được thăng hoa bởi tình yêu linh hoạt phẩm giá của người khác, nó trở thành
một khẳng định tình yêu tràn đầy và vô cùng trong sáng, nó chỉ cho chúng ta thấy
trái tim con người có khả năng làm được các điều tuyệt diệu nào, và như thế
trong một lúc ta nhận thức được rằng cuộc sống con người đã là một thành công
(s. 152).
Bạo lực và lèo lái – Trong
khung cảnh của quan điểm tích cực này về tính dục thật thích hợp xác định đề
tài trong sự toàn vẹn của nó và với một ý thức thực tế lành mạnh. Thật vậy,
chúng ta không thể không biết rằng nhiều lần tính dục bị mất nhân tính và cũng
tràn đầy bệnh hoạn, đến độ ngày càng trở thành dịp của dụng cụ tự khẳng định
chính “cái tôi” của mình và thoả mãn ích kỷ các ước mong và bản năng riêng.
Trong thời đại này cả tính dục cũng có nguy cơ lớn bị thống trị bởi tinh thần độc
hại của việc “dùng rồi vất bỏ”. Thân xác của người khác thường bị lèo lái như một
sự vật cần giữ lại khi nó cống hiến thoả mãn, và khinh rẻ khi nó mất đi sức hấp
dẫn. Lẽ nào ta có thể không biết tới hay dấu diếm các hình thức thống trị
liên tục, bạo lực, lạm dụng, đồi trụy, và bạo hành tính dục, là hậu quả của một
sự vặn méo ý nghĩa của tính dục, chôn vùi nhân phẩm của người khác, và kêu gọi
tình yêu dưới sự tìm kiếm đen tối chính mình? (s. 153).
Thật không thừa thãi nhắc lại
rằng cả trong hôn nhân tính dục cũng có thể là nguồn gốc của khổ đau và lèo
lái. Vì thế chúng ta phải tái nhấn mạnh một cách rõ ràng rằng một cử chỉ giao hợp
áp đặt cho người phối ngẫu, mà không để ý gì tới các điều kiện của họ và các ước
mong chính đáng của họ, thì không phải là một cử chỉ yêu thương đích thực, và
vì thế nó khước từ một đòi buộc của trật tự luân lý ngay chính trong các liên hệ
vợ chồng. Các cử chỉ riêng của sự kết hợp tính dục của chồng vợ phù hợp với bản
tính của tính dục do Thiên Chúa muốn, nếu chúng được thực thi trong một
cách thức thực sự nhân bản. Vì thế thánh Phaolô mới khuyến khích: “Đừng có ai
trong lãnh vực này xúc phạm hay lừa dối người anh em mình” (1 Tx 4,6) . Tuy
thánh nhân đã viết trong một thời đại, trong đó thống trị một nền văn hóa phụ hệ,
trong đó phụ nữ bị coi như một người hoàn toàn lệ thuộc đàn ông, nhưng ngài dậy
rằng tính dục phải là một vấn đề cần bàn thảo giữa chồng vợ: thánh nhân đưa ra
viễn tượng khả thể rời các liên hệ tính dục lại cho một giai đoạn nào đó, nhưng
“với sự đồng ý chung” (1 Cr 7,5) (s. 154).
Thánh Gioan Phaolô II đã đưa
ra một lời cảnh báo rất tế nhị, khi khẳng định rằng người nam và người nữ “bị
đe dọa bởi sự không thể thoả mãn”. Nó có nghĩa là họ được mời gọi cho một sự kết
hợp ngày càng sâu đậm hơn, nhưng nguy cơ là ở chỗ yêu sách xoá bỏ các khác biệt
và khoảng cách không thể tránh được giữa hai người. Vì mỗi người có một phẩm
giá riêng và không thể lập lại được. Khi việc tuỳ thuộc nhau quý báu biến thành
thống trị, nó thay đổi một cách nòng cốt cấu trúc của sự hiệp thông trong tương
quan liên bản vị. Trong cái luận lý của sự thống trị cả người thống trị cũng kết
thúc bằng việc khước từ phẩm giá riêng của mình, và một cách vĩnh viễn thôi đồng
hóa mình một cách chủ thể với chính thân xác mình, bởi vì họ lấy mất đi của nó
mọi ý nghĩa. Họ sống tính dục như sự thoát ly khỏi chính mình, và như việc khước
từ vẻ đẹp của sự kết hợp (s. 155).
Thật quan trọng phải rõ ràng
trong việc khước từ bất cứ hình thức phục tùng tính dục nào. Vì vậy thật thích
hợp tránh mọi giải thích không đúng văn bản thư gửi tín hữu Êphêxô, trong đó
thánh Phaolô xin “các bà vợ phục tùng chồng” (Ep 5,22). Ở đây thánh nhân diễn tả
trong các phạm trù văn hoá riêng của thời đại bấy giờ, nhưng chúng ta không phải
chấp nhận chiếc áo văn hoá ấy, nhưng chấp nhận sứ điệp mạc khải nằm bên
dưới đoạn văn ấy. Chúng ta hãy lấy lại lời giải thích khôn ngoan của thánh
Gioan Phaolô II: Tình yêu loại trừ mọi thứ tùng phục, qua đó người vợ sẽ trở
thành đầy tớ hay nô lệ của chồng… Cộng đoàn hay đơn vị mà họ phải xây dựng vì
hôn nhân, được thực hiện qua một sự trao ban cho nhau, cũng là một sự phục tùng
nhau. Vì vậy ta cũng nói rằng “các người chồng có bổn phận yêu thương vợ mình
như chính thân xác mình vậy” (Ep 5,28). Trong thực tế văn bản kinh thánh mời gọi
thắng vượt khuynh hướng cá nhân chủ nghĩa thoải mái để sống hướng tới các người
khác: “Anh em hãy phục tùng nhau” (Ep 5,21). Giữa vợ chồng sự phục tùng này chiếm
hữu được một ý nghĩa đặc biệt và được hiểu như là một sự tuỳ thuộc nhau được lựa
chọn một cách tự do, với một tổng hợp các đặc tính của hạnh phúc, kính trọng và
săn sóc. Tính dục không thể tách rời khỏi việc phục vụ tình bạn phu thê, bởi vì
nó hướng tới chỗ làm cho người khác sống tràn đầy (s. 156).
Tuy nhiên, sự khước từ các
bóp méo tính dục và dục vọng không bao giờ được dẫn chúng ta tới chỗ khinh rẻ
chúng, hay thờ ơ với chúng. Lý tưởng của hôn nhân không thể định hình thể chỉ
như là một hiến dâng quảng đại và hy sinh, trong đó mỗi người khước từ mọi nhu
cầu cá nhân và chỉ lo lắng cho thiện ích của người khác, mà không có thoả mãn
nào. Chúng ta hãy nhớ rằng một tình yêu đích thật cũng biết nhận từ người khác,
và có khả năng chấp nhận mình như có thể bị thương tích và cần được trợ giúp,
không từ chối tiếp nhận với lòng biết ơn chân thành và hạnh phúc các diễn tả thể
xác của tình yêu trong sự vuốt ve, vòng tay ôm, nụ hôn và trong sự kết hiệp
tính dục. Đức Biển Đức XVI đã rất minh bạch liên quan tới điều này: “Nếu người
nam chỉ muốn là tinh thần, và muốn khước từ thịt xác như một gia tài chỉ có
tính cách thú vật, thì khi đó tinh thần và thể xác mất đi phẩm giá của chúng”.
Vì lý do đó người nam cũng không thể sống một cách triệt để trong tình yêu hiến
dâng, đi xuống được. Nó không thể luôn luôn cho đi, mà cũng phải nhận nữa. Ai
muốn cho đi tình yêu, thì chính mình phải nhận nó như món quà. Trong mọi cách
điều này đòi buộc phải nhớ rằng thế quân bình của con người giòn mỏng, nó luôn
luôn là một cái gì kháng cự lại việc bị nhân bản hóa, và trong bất cứ lúc nào
cũng có thể lại nổi dậy bằng cách phục hồi các khuynh hướng sơ đẳng ích kỷ của
nó (s. 157).
Hôn nhân và đồng trinh – Nhiều
người không lập gia đình không chỉ tận hiến cho gia đình của riêng họ, mà thường
khi cũng phục vụ trong vòng bạn bè, trong cộng đoàn giáo hội và trong cuộc sống
nghề nghiệp… Thế rồi, có nhiều người dùng các tài năng của mình để phục vụ cộng
đoàn kitô trong dấu chỉ của lòng bác ái và việc thiện nguyện. Rồi cũng có những
người không lập gia đình, bởi vì họ thánh hiến cuộc sống vì tình yêu của Chúa
Kitô và các anh em khác. Gia đình trong Giáo Hội và trong xã hội được phong phú
một cách lớn lao nhờ sự tận hiến của họ (s. 158).
Sự đồng trinh là một hình thức
của tình yêu. Như là dấu chỉ, nó nhắc nhớ việc chú ý tới Nước Trời, sự cấp thiết
tận hiến mình phục vụ việc loan báo Tin Mừng vô giới hạn (x. 1 Cr 7,32), và là
một phản ánh sự tràn đầy của Nước Trời, nơi người ta không cuới vợ lấy chồng nữa
(Mt 22,30). Thánh Phaolô khuyên điều này, vì ngài chờ đợi việc trở lại gần kề của
Chúa Giêsu, và muốn rằng mọi người tập trung duy nhất vào việc loan báo Tin Mừng:
“Thời gian chẳng còn bao lâu” (1 Cr 7,29). Tuy nhiên, rõ ràng đó đã là một ý kiến
riêng và một ước mong của ngài (x. 1 Cr 7,6-8), chứ không phải là một đòi buộc
của Chúa Kitô: “Tôi đã không nhận được lệnh truyền nào của Chúa” (1 Cr 7,25). Đồng
thời ngài thừa nhận giá trị của các ơn gọi khác nhau: “Mỗi người nhận được từ
Thiên Chúa ơn riêng, người cách này người cách khác” (1 Cr 7,7). Trong nghĩa đó
thánh Gioan Phaolô II đã khẳng định rằng các văn bản kinh thánh “không cung cấp
lý do để chủ trương sự thấp kém của hôn nhân, cũng như sự cao hơn của sự đồng đồng
trinh hay độc thân, vì việc tiết dục. Hơn là nói tới sự cao vượt của đồng trinh
dưới mọi khiá cạnh, xem ra thích hợp cho thấy rằng các tình trạng sống
khác nhau bổ túc cho nhau, trong cách thế làm sao một tình trạng có thể hoàn
thiện hơn trong vài khía cạnh, và tình trạng khác hoàn thiện hơn từ một khía cạnh
khác của cuộc sống. Alessandro di Hales chẳng hạn đã khẳng định rằng
trong một nghĩa hôn nhân có thể được coi như cao hơn các bí tích khác: bởi vì
nó biểu tượng cho một cái gì lớn lao tới độ như sự kết hiệp của Chúa Kitô với
Giáo Hội, hay sự kết hiệp của thiên tính với nhân tính” (s. 159).
Vì vậy, đây không phải là giảm
thiểu giá trị của hôn nhân đối với sự tiết dục, và trái lại không có nền tảng
nào cho một đối kháng được giả thiết… Nếu theo một truyền thống thần học nào
đó, người ta nói tới tình trạng toàn thiện, thì người ta làm điều ấy không phải
vì lý do của chính sự tiết dục, nhưng liên quan tới toàn cuốc sống dựa trên các
lời khuyên phúc âm. Tuy nhiên, một nguời lập gia đình có thể sống tình bác ái rất
cao độ. Như thế họ đạt tới sự toàn thiện nảy sinh từ tình bác ái, qua việc
trung thành với tinh thần của các lời khuyên ấy. Sự toàn thiện như thế có thể,
và mọi người đều có thể đạt được (s. 160).
Sự đồng trinh có giá trị biểu
tượng của tình yêu không cần chiếm hữu người khác và như thế phản ánh sự tự do
của Nước Trời. Nó là một lời mời gọi các cặp vợ chồng để họ sống tình yêu phu
thê trong viễn tượng của tình yêu vĩnh viễn đối với Chúa Kitô, như một lộ trình
chung hướng tới sự toàn vẹn của Nước Trời. Tới lượt mình, tình yêu của các cặp
vợ chồng diễn tả các giá trị biểu tượng: một đàng, nó là một phản ánh đặc biệt
của Thiên Chúa Ba Ngôi. Thật thế, Thiên Chúa Ba Ngôi là sự hiệp nhất tràn đầy,
nhưng trong đó cũng có sự phân biệt. Ngoài ra, gia đình là một dấu chỉ kitô học,
bởi vì nó biểu lộ sự gần gũi của Thiên Chúa, là Đấng chia sẻ cuộc sống của con
người, bằng cách kết hiệp với nó trong việc nhập thể, trong Thập Giá và trong sự
sống lại: mỗi người phối ngẫu trở thành “một thịt xác duy nhất” với người khác,
và cống hiến chính mình để chia sẻ nó một cách hoàn toàn với người khác cho đến
cùng. Trong khi sự đồng trinh là một dấu chỉ “giáo hội học” của Chúa Kitô phục
sinh, hôn nhân là một dấu chỉ “lịch sử” đối với những ai bước đi trên trái đất,
một dấu chỉ của Chúa Kitô dương thế chấp nhận kết hiệp với chúng ta và tự hiến
cho chúng ta, cho tới độ trao ban máu của Ngài. Sự đồng trinh và hôn nhân là và
phải là các mô thức yêu thương khác nhau, bởi vì con người không thể sống mà
không có tình yêu. Đối với chính mình nó là một sinh vật không thể hiểu nổi, cuộc
sống của nó không có ý nghĩa, nếu tình yêu không được vén mở cho nó (s. 161).
Độc thân có nguy cơ là một sự
cô đơn thoải mái, cống hiến tự do di chuyển với sự tự lập, để thay đổi nơi chốn,
các nhiệm vụ và các lựa chọn, để dùng tiền bạc riêng, để giao du với những người
khác nhau theo sự hấp dẫn của lúc đó. Trong trường hợp ấy, rạng ngời lên chứng
tá của những người lập gia đình. Những người đã được mời gọi sống đồng trinh có
thể tìm thấy nơi vài cặp vợ chồng một dấu chỉ rõ ràng của lòng trunh thành quảng
đại và không thể huỷ diệt được của Thiên Chúa đối với Giao Ước, có thể kích
thích con tim của họ cho một sự sẵn sàng cụ thể và dâng hiến hơn.
Thật thế, có những người lập
gia đình duy trì lòng chung thuỷ của họ, khi người phối ngẫu đã trở thành ít hấp
dẫn hơn trên bình diện thể lý, hay khi họ không thoả mãn các nhu cầu của họ, mặc
dù có nhiều trường hợp mời mọc họ bất trung hay bỏ rơi người phối ngẫu. Một phụ
nữ có thể săn sóc người chồng đau yếu của mình và ở đó bên cạnh Thập Giá, bà lập
lại tiếng “có” của tình yêu cho tới chết. Trong tình yêu như thế biểu lộ một
cách rạng ngời phẩm giá của ai yêu thương, phẩm giá như phản ánh của tình bác
ái, bởi vì nó chính là tình bác ái yêu thương hơn là được yêu thương. Chúng ta
cũng có thể gặp trong nhiều gia đình một khả năng phục vụ hiến dâng và trìu mến
đối với các người con khó tính hay cả vô ơn nữa.
Điều này khiến cho các cha mẹ
trở thành dấu chỉ của tình yêu thương tự do và vô vị lợi của Chúa Giêsu. Tất cả
những điều ấy trở thành một lời mời gọi các người độc thân để họ sống sự
tận hiến của mình cho Nước Trời với nhiều quảng đại và sẵn sàng hơn. Ngày nay sự
tục hoá đã làm lu mờ giá trị của một sự kết hiệp suốt đời, và đã giảm thiểu sự
phong phú của tận hiến hôn nhân, vì thế cần đào sâu các khiá cạnh tích cực của
tình yêu phu thê (s. 162).
Sự biến đổi của tình yêu - Việc
kéo dài đời sống khiến cho người ta kiểm thực được điều đã không phải là chung
của các thời đại khác: liện hệ thân tình và sự tuỳ thuộc nhau phải được duy trì
cho bốn, năm hay sáu thập niên, và điều này bao gồm sự cần thiết lựa chọn nhau
trở lại nhiều lần hơn. Có lẽ người phối ngẫu không còn hấp dẫn bởi một ước muốn
tính dục sâu đậm khiến cho họ quay sang một người khác, tuy nhiên họ cảm thấy
thú vui được tuỳ thuộc vào người ấy và người ấy tuỳ thuộc mình, biết rằng họ
không cô đơn, nhưng có một “đồng phạm” hiểu biết mọi sự cuộc đời họ và lịch sử
của họ và chia sẻ tất cả với họ. Đó là người bạn đường trên lộ trình cuộc sống,
và với người ấy họ có thể đương đầu với các khó khăn và vui hưởng các hay
đẹp. Cả điều này nữa cũng làm nảy sinh ra một sự thoả mãn đi kèm theo ước mong
riêng của tình yêu phu thê. Chúng ta không thể hứa hẹn với nhau là có cùng các
tâm tình trong suốt cuộc đời. Nhưng chắc chắn chúng ta có thể có một dự án
chung ổn định, chúng ta có thể dấn thân yêu thương nhau, và sống hiệp nhất với
nhau cho tới khi cái chết chia lià chúng ta, và luôn luôn sống một sự thân tình
phong phú. Tình yêu mà chúng ta đã thề hứa cho nhau vượt qua mọi xúc cảm, tâm
tình hay tình trạng tâm hồn, tuy nó có thể bao gồm chúng. Đó là một muốn thiện
ích sâu đậm nhất, với một quyết định của con tim liên lụy tới toàn cuộc đời.
Như thế, giữa một xung khắc không giải quyết được, và mặc dù có nhiều tâm tình
hỗn độn quay cuồng trong tim, người ta duy trì sống động mỗi ngày quyết định
yêu nhau, tuỳ thuộc vào nhau, chia sẻ toàn cuộc sống, tiếp tục yêu thương nhau
và tha thứ cho nhau. Mỗi người chu toàn một lộ trình lớn lên và thay đổi riêng.
Trên con đường ấy tình yêu cử hành mỗi bước và mỗi chặng mới (s.163).
Trong lịch sử của một cuộc
hôn nhân, khía cạnh vật lý câm nín, nhưng điều này không phải là môt lý do để sự
hấp dẫn yêu thương thuyên giảm. Người ta say mê toàn một con người với một căn
tính riêng, chứ không phải chỉ say mê một thân xác, tuy thân xác ấy, vượt ngoài
cái hao mòn của thời gian, không bao giờ hết diễn tả trong một vài kiểu cách
cái căn tính cá nhân đã chinh phục con tim. Khi các người khác không có thể nhận
ra vẻ đẹp của căn tính ấy, người phối ngẫu si tình tiếp tục có khả năng nhận thức
nó với bản năng của tình yêu và sự trìu mến không biến mất. Họ tái khẳng định
quyết tâm của họ tuỳ thuộc người ấy, lại chọn người ấy, và diễn tả sự lựa chọn
đó qua một sự gần gũi trung thành và tràn đầy hiền dịu. Sự cao quý trong quyết
định của họ cho người đó vì mạnh mẽ và sâu đậm, đánh thức một hình thức của xúc
cảm trong việc chu toàn sứ mệnh phu thê. Vì xúc cảm được khơi dậy bởi một người
khác như bản vị con người tự nó không hướng tới cử chỉ giao hợp. Nó chiếm hữu
được các diễn tả xúc cảm khác, bởi vì tình yêu là một thực tại duy nhất, tuy với
các chiều kích khác nhau; thỉnh thoảng chiều kích này hay chiều kích khác có thể
nổi lên mạnh hơn. Sự ràng buộc tìm ra các mô thức mới, và đòi buộc quyết định
luôn luôn tái thiết lập nó một cách mới mẻ. Nhưng không phải chỉ để duy trì nó,
mà cũng để làm cho nó lớn lên nữa. Đó là con đường cần được xây dựng mỗi ngày.
Nhưng không có gì trong tất cả những điều này có thể, nếu ta không khẩn nài
Chúa Thánh Thần, nếu ta không mỗi ngày kêu lên xin ơn thánh của Ngài, nếu ta
không kiếm tìm sức mạnh siêu nhiên của Ngài, nếu ta không âu lo xin Ngài đổ lửa
của Ngài xuống trên tình yêu của chúng ta để củng cố nó, hướng dẫn nó trong mọi
hoàn cảnh.
Linh Tiến Khải
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét