21/01/2018
Chúa Nhật tuần 3 Thường Niên năm B
(phần I)
Bài Ðọc I: Gn 3, 1-5. 10
"Dân thành tin tưởng nơi
Chúa: họ công bố việc ăn chay".
Trích sách Tiên tri Giona.
Lời Chúa phán cùng Giona rằng: "Hãy chỗi dậy và đi đến
Ninivê, một thành phố lớn, và rao giảng cho nó điều Ta sẽ nói cho ngươi".
Giona chỗi dậy và đi đến Ninivê theo lời Chúa dạy. Ninivê là một thành phố lớn,
rộng bằng ba ngày đàng, Giona tiến vào thành phố đi một ngày đàng, rồi rao giảng
rằng: "Còn bốn mươi ngày nữa, Ninivê sẽ bị phá huỷ". Dân thành tin tưởng
nơi Chúa: họ công bố việc ăn chay và mặc áo nhặm, từ người lớn đến trẻ nhỏ.
Chúa thấy việc họ làm, vì họ bỏ đời sống xấu xa, Chúa bỏ ý định phạt họ, và Người
không thực hiện điều đó.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 24, 4bc-5ab. 6-7bc.
8-9.
Ðáp: Lạy Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của
Ngài. (c. 4b).
Xướng: 1) Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa, xin dạy
bảo con về lối bước của Ngài. Xin hướng dẫn con trong chân lý và dạy bảo con,
vì Chúa là Thiên Chúa cứu độ con. - Ðáp.
2) Chúa nhân hậu và công minh, vì thế Ngài sẽ dạy cho tội
nhân hay đường lối. Ngài hướng dẫn kẻ khiêm cung trong đức công minh, dạy bảo
người khiêm cung đường lối của Ngài. - Ðáp.
3) Lạy Chúa, xin hãy nhớ lòng thương xót của Ngài, lòng
thương xót tự muôn đời vẫn có. Xin hãy nhớ con theo lòng thương xót của Ngài,
vì lòng nhân hậu của Ngài, thân lạy Chúa. - Ðáp.
Bài Ðọc II: 1 Cr 7, 29-31
"Bộ mặt thế gian này
đang qua đi".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu
Côrintô.
Anh em thân mến, tôi nói cùng anh em điều này là: Thời giờ vắn
vỏi; còn có cách là những ai có vợ, hãy ở như không có; những ai than khóc, hãy
ăn ở như không than khóc; những kẻ hân hoan, hãy ăn ở như không hân hoan; những
người mua sắm, hãy ăn ở như không có gì; những ai dùng sự đời này, hãy ăn ở như
không tận hưởng, vì chưng bộ mặt thế gian này đang qua đi.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Mc 1, 15
Alleluia, alleluia! - Nước Chúa đã gần đến, hãy tin tưởng
vào Phúc Âm. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 1, 14-20
"Anh em hãy ăn năn sám hối
và tin vào Phúc Âm".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Sau khi Gioan bị bắt, Chúa Giêsu sang xứ Galilêa, rao giảng
Tin Mừng nước Thiên Chúa, Người nói: "Thời giờ đã mãn và nước Thiên Chúa
đã gần đến; anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Phúc Âm". Ðang lúc đi dọc
theo bờ biển Galilêa, Người thấy Simon và em là Anrê đang thả lưới xuống biển,
vì các ông là những người đánh cá. Chúa Giêsu bảo các ông: "Hãy theo Ta,
Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ chài lưới người". Lập tức các
ông bỏ lưới theo Người. Ði xa hơn một chút nữa, Người thấy Giacôbê con ông
Giêbêđê và em là Gioan đang xếp lưới trong thuyền, Người liền gọi các ông. Hai
ông bỏ cha là Giêbêđê ở lại trên thuyền cùng với các người làm công, và đi theo
Người.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Tin Vào Phúc Âm và Sống
Phúc Âm
Ba bài
đọc Thánh Kinh hôm nay có thể hướng suy nghĩ của chúng ta về việc thống hối tội
lỗi và cải tạo đời sống. Ðó là một đề tài quan trọng và phong phú. Trong thánh
lễ này, chúng ta chỉ để ý đến khía cạnh những người được Chúa gọi phải đổi mới
tâm hồn và đời sống tư tưởng của Chúa nhật trước về ơn gọi.
1. Chúng Ta Ðược Gọi Tin Vào
Phúc Âm
Bài
Tin Mừng Marcô chúng ta vừa nghe nói đến việc Chúa Yêsu gọi 4 tông đồ đầu tiên.
Rõ ràng không giống Tin Mừng Yoan đã kể trong Chúa nhật trước. Vì thế chúng ta
lại càng tin chắc hơn: các tác giả đã không quay phim tại chỗ. Việc Chúa gọi
các tông đồ đầu tiên đã được suy nghĩ lâu năm trước khi được đem viết lại thành
văn bản. Và khi được viết ra, nó đã mang nặng chất thần học. Cái hay và cái
khéo của những bản văn này là vẫn giữ lại được cho câu truyện hương sắc mới lạ
của buổi đầu. Ðọc đoạn văn Marcô hôm nay, ai nghĩ ngay là một bản văn đã thần học
hóa những sự kiện xảy ra trong thực tế? Ngược lại, chúng ta có cảm giác thật sự
như thấy Ðức Yêsu đang đi trên bờ biển Galilêa và gọi các tông đồ. Nhưng đối với
thánh Marcô thì khác. Và có lẽ đối với chúng ta sau khi suy nghĩ cũng vậy.
Ðức
Yêsu bấy giờ không phải là chính là Ðức Yêsu hồi mới ra giảng đạo đâu, nhưng là
Ðức Yêsu đã sống lại. Quả vậy, dù muốn dù không, khi viết Tin Mừng, Marcô đã có
một cái nhìn đức tin sâu sắc về Ðấng mà người muốn rao giảng lại cho hậu thế.
Con mắt người có thể nói, đã nhận được những tia sáng phục sinh để nhìn vào Ðức
Yêsu, nên mọi nét tả, mọi lời văn trong sách Tin Mừng của người đều chan chứa đức
tin và mang nặng chất thần học.
Vì thế,
không phải vô lý mà Marcô đã bắt đầu bằng chữ: "Sau khi Yoan bị bắt".
Ông là vị tiền hô của Chúa. Cuộc tử nạn của ông báo trước việc Chúa chịu chết.
Do đó với những chữ mở đầu như trên Marcô có ý gợi lên sự kiện "sau khi thụ
nạn", Chúa Yêsu đã lui về Galilêa. Người bắt đầu gọi lại các tông đồ. Và
như vậy câu truyện Marcô kể bây giờ được bọc trong mầu nhiệm Phục sinh.
Trước
hết, chính Ðức Yêsu bây giờ là nhà truyền giáo lý tưởng. Sứ điệp của Người là nội
dung các tông đồ phải truyền lại. Người giảng ở đất Galilêa (dân ngoại) để Hội
Thánh bắt chước Người đi làm việc ở các dân tộc. Người nói rằng thời buổi đã
mãn và Nước Thiên Chúa đã gần bên! Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng!
Ðó là
những lời rất quan trọng và mầu nhiệm. "Thời buổi" ở đây không phải
là thời gian năm tháng tính theo các loại đồng hồ, nhưng là lịch sử, là kỷ
nguyên. Với việc Ðức Kitô chịu chết và sống lại, lịch sử đã đi vào giai đoạn
sung mãn. Thánh Kinh gọi là thời buổi cuối cùng. Từ nay đến tận thế không có gì
mới nữa. Chỉ còn việc ơn cứu độ của Ðức Kitô lan rộng ra khắp không gian và thời
gian.
Vì thế,
"Nước Thiên Chúa đã gần bên". Không ai còn ở xa ảnh hưởng của Ðức
Kitô cứu thế nữa. Do đó, mọi người phải hối cải, tức là từ bỏ con đường mình
đang theo và quay mặt về với Chúa. "Và hãy tin vào Tin Mừng".
Nhưng
Tin Mừng nào?
Ở đây
Marcô dùng một từ ngữ chuyên môn. Thoạt đầu chữ "Tin Mừng" gợi lên những
buổi trọng đại trong đời sống xã hội. Sứ giả của nhà vua được sai đi thông báo
cho toàn dân thiên hạ biết những sự vui mừng có hệ mật thiết đến hạnh phúc của
họ. Nào là việc có một hoàng đế lên ngôi; ngài vừa có một thái tử; ngài lập
đông cung thái tử lên chức kế vị ngai vàng, chẳng hạn... Ðó là những Tin Mừng
vì mật thiết liên hệ đến đời sống ấm no của chư dân. Nhưng phần lớn, đó chỉ là
những tin mừng chủ quan và hạn chế.
Tin Mừng
đích thực cho mọi thời và mọi nơi đúng như lời các thiên sứ đã loan báo cho mục
đồng là Chúa Cứu Thế đã giáng sinh. Thành ra khi sách Tân Ước dùng chữ Tin Mừng
và giục chúng ta tin vào Tin Mừng, thì chúng ta phải hiểu đây chính là sứ điệp
cứu độ: Thiên Chúa đã thi hành kế hoạch cứu thế của Người khi sai Con của Người
đến chịu chết và sống lại cho loài người chúng ta. Ðó là Tin Mừng của Thiên
Chúa công bố trong thời đại cuối cùng. Và nội dung Tin Mừng ấy toàn nói về Ðức
Yêsu Kitô; và cũng chính là Ðức Yêsu Kitô. Rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa là
công bố kế hoạch cứu thế của Người trong Ðức Yêsu Kitô, là công bố đời sống và
sự nghiệp của Ðức Yêsu Kitô, là công bố chính Ðức Yêsu Kitô. Nên Tin Mừng và Ðức
Yêsu Kitô cũng là một.
Vậy đã
có Ðức Yêsu Kitô là sứ giả đặc biệt của Thiên Chúa để rao giảng Tin Mừng; Người
đã đến đất Galilêa dân ngoại để làm chứng Tin Mừng phải được mang đến cho các
dân tộc. Hơn nữa Người đã rao giảng Tin Mừng khi thực hiện việc chịu chết và sống
lại để cứu thế; thì không những từ nay người ta phải hối cải và tin vào Tin Mừng,
và hơn nữa từ nay phải có nhiều người đi rao giảng Tin Mừng ấy.
Thế
nên Chúa Yêsu đã gọi anh em Simon và Anrê, cũng như Yacôbê và Yoan. Họ đang làm
nghề bắt cá. Người bảo họ hãy theo Người đi bắt các linh hồn. Lập tức họ bỏ lưới
chài và tất cả để đi theo Chúa.
Chúng
ta đã nói: Marcô kể khác với Yoan. Ở đây, Marcô có lẽ mô phỏng sách Các Vua
(1,19-21) trong đoạn thuật truyện Êlia gọi Êlisê làm tiên tri. Hôm ấy Êlia đi
đường gặp Êlisê đang bừa ruộng. Ông lại gần, tung chiếc áo choàng ra trên con
người của Êlisê. Ông này hiểu ngay ý nghĩa: nhà tiên tri muốn ông từ nay thuộc
về Ngài. Êlisê xin được phép về nhà hôn cha hôn mẹ, rồi đến nơi bẻ cầy, bẻ bừa
làm củi, thui luôn cả bò và bỏ mọi sự để đi theo Êlia làm tiên tri.
Marcô
đã lấy lại đoạn văn trên. Nhưng ông đã sửa chữa. Thời buổi đã mãn, người ta
không còn được phép về nhà từ gĩa cha mẹ nữa. Người ta phải bỏ ngay mọi sự mà
đi theo Chúa làm tông đồ.
Và làm
tông đồ là làm như Chúa Yêsu và Marcô vừa phác lại chân dung trong những câu đầu
tiên của bài Tin Mừng hôm nay. Người đã qua mầu nhiệm Tử nạn - Phục sinh. Người
đến giữa dân ngoại. Người công bố Tin Mừng của Thiên Chúa, để người ta hối cải
và tin vào Tin Mừng và để người ta cùng Người làm thành cộng đoàn mật thiết tiếp
tục rao giảng Tin Mừng.
2. Chúng Ta Phải Sống Phúc Âm
Không
ai có thể thấy mình ở ngoài sứ điệp trên đây. Tất cả chúng ta đều phải hối cải
và tin vào Phúc Âm. Phụng vụ hôm nay mượn những lời thư Phaolô giúp đỡ chúng ta
đi vào nếp sống mới này.
Thoạt
nghe, có thể chúng ta không thích những lời khuyên loại này. Chúng có vẻ xuất
thế, không hợp thời với đạo nhập thế. Có người còn nhận xét, trong những câu
khuyên này không một lời nào nhắc đến Thiên Chúa và Ðức Yêsu Kitô. Và người ta
kết luận đây là thứ đạo đức học của các môn phái khắc kỷ và yếm thế hơn là của
Kitô giáo.
Nhưng
chỉ cần đọc lại với những tư tưởng mà chúng ta đã thấy trong bài Tin Mừng hôm
nay: lời thánh Phaolô sẽ tỏ ra sâu sắc khác thường. Trước hết, thật khó dịch
cho đúng câu khuyên bảo đầu tiên. "Thời buổi đã co rút lại" nghĩa là
gì? Tựu trung, thánh Phaolô cũng chỉ muốn nói cho Ðức Yêsu trong bài Tin Mừng
hôm nay: thời buổi đã mãn. Tức là lịch sử đã đến lúc cuối cùng. Thiên Chúa đã
thực hiện kế hoạch cứu độ và cứu thế của Người xong rồi, không còn gì để chờ đợi
nữa. Người ta phải nhận hay không nhận. Khất lần, trì hoãn hay dửng dưng là
không nhận rồi. Còn nếu nhận thì phải tin "từ nay" đã có Con Một Thiên
Chúa giáng sinh làm người; Người đã thực hiện kế hoạch của Thiên Chúa cứu độ
khi chịu chết và sống lại; Người đang ở gần mỗi người và trong mọi lúc cũng như
ở mọi nơi. Người đang rao giảng cho chúng ta Tin Mừng của Thiên Chúa, là chính
Con Người và đời sống của Người. Chúng ta phải bỏ con đường xưa nay vẫn đi,
quay mặt lại với Người là hối cải và tin vào Người.
Khi ấy
suy nghĩ tâm tư, cảm giác, đời sống của chúng ta phải khác. Tất cả đều bị chi
phối bởi sự hiện diện của Ðức Kitô cùng với giáo lý và đòi hỏi của Người. Kẻ có
vợ sẽ như không có, kẻ khóc như không khóc, kẻ vui như không vui, kẻ mua như
không cầm giữ, kẻ hưởng thế gian như không tận hưởng... nghĩa là những kẻ ấy sẽ
không cư xử như khi chưa biết Chúa Yêsu nữa. Họ đã có Người, có giáo lý và tình
yêu của Người, thì họ sẽ sống cách mới mẻ. Suy tư, cảm nghĩ, hành động của họ đều
thâm nhiễm ảnh hưởng của Ðức Kitô. Họ sống nhưng không phải họ, mà là Ðức Kitô
sống trong họ. Họ ở giữa thế gian nhưng không còn thuộc về thế gian, bởi vì
"bộ dạng thế gian" tức là cơ cấu, định luật của thế gian tội lỗi đang
qua đi, tức là đang mất ảnh hưởng đối với họ. Họ vẫn ở trong thế gian, nhưng thế
gian không giữ được họ và bắt buộc được họ làm nô lệ cho mình nữa. Họ đã được
ơn của Ðức Yêsu Kitô giải phóng. Từ nay họ là con cái tự do của Thiên Chúa. Họ
được lại quyền làm chủ vạn vật như Adong trước khi sa ngã. Họ có tự do của tinh
thần để không bị sức mạnh cuả sự dữ khống chế. Hơn nữa nhờ tinh thần được tự do
hoàn toàn ấy, họ khắc phục tiêu diệt được sự dữ luôn luôn làm áp lực trên đời sống
của họ.
Ðó là
nếp sống mà thánh Phaolô khuyên chúng ta phải đi vào cho phù hợp với ơn gọi của
những con người đã tin vào Phúc Âm. Nếp sống này, muốn đầy đủ, phải mở sang một
khía cạnh khác nữa là truyền giáo.
3. Chúng Ta Phải Rao Giảng
Phúc Âm
Chính
bài Tin Mừng Marcô cho chúng ta thấy Chúa Yêsu đã đi rao giảng Tin Mừng, kêu gọi
môn đệ và làm thành với họ một cộng đoàn truyền bá Tin Mừng, là cộng đoàn Hội
Thánh. Chúng ta phải bắt chước Người chứ đừng bắt chước Yona.
Ông là
một người Dothái được Chúa kêu gọi để đi giảng đạo cho Ninivê, ông không chịu.
Vì ông ghét thành này. Ninivê không là thủ đô của đế quốc đã xâm chiếm và tàn
phá quê hương của ông sao? Giảng đạo cho bọn ấy để họ cũng được ơn của Chúa ư?
Không đời nào. Ðàng khác sức mấy mà bọn ấy trở lại! Thủ đô của bọn chúng kiêu kỳ
và tội lỗi, dễ gì chịu nghe ai. Nhất nữa người được sai đi đây lại là Yona, một
anh nhà quê ở một tiểu nhược quốc!
Yôna
không tin ở sứ mệnh Chúa giao phó cho mình. Và ông cũng chẳng muốn thi hành sứ
mệnh ấy, kẻo kẻ thù của ông và của dân tộc ông cũng được phúc. Thế nên thay vì
đi sang tây, hướng về Ninivê, Yona đã lấy tàu đi Tarsis ở phía đông. Ông chọc tức
Chúa, nên Chúa đã nổi lôi đình. Sóng gió nổi dậy. Mọi người trong tàu bắt Yona
ném xuống biển. Một con cá lớn vồ tới, Yona bị nó nuốt trửng. Ở trong bụng cá,
Yona biết tội nên thống hối ăn năn. Ông hứa sẽ vâng lời Chúa. Con cá liền mửa
ông ra bờ. Và ông đã đến Ninivê.
Yona vừa
mới rao giảng, từ vua chí dân đã thực lòng thống hối. Khác hẳn một trường hợp
trước đây. Yêrêmia giảng cho dân Dothái dưới thời Yoakim (Gr 36). Ðã chẳng thống
hối thì chớ, nhà vua lại còn truyền đốt sách của nhà tiên tri! Thật là khác với
câu truyện Yona hôm nay.
Vì thế
đây chỉ là câu truyện mỉa mai người Dothái. Nó được viết vào thời sau lưu đày.
Những người Dothái hồi hương bắt đầu xây lại đền thờ. Các dân chung quanh đến
xin góp phần. Người Dothái lạnh lùng từ chối: bọn các ngươi là dân ngoại, các
ngươi đã cướp đất cướp của của chúng ta, các ngươi lại muốn được chia sẻ hạnh
phúc làm dân Chúa như chúng ta sao? Thái độ ấy thật kỳ cục. Nó hẹp hòi và ích kỷ.
Người ta quên lời hứa với Abraham là muôn dân cũng sẽ được chúc phúc khi họ
"trở lại" và dân Chúa phải có sứ mạng truyền giáo. Cư xử như thế kia
thật còn tệ hơn lương dân nữa.
Câu
truyện Yona ý nghĩa như vậy, nên khi người ta xin Ðức Yêsu một điềm lạ, Người
nói chẳng có thêm điềm lạ nào nữa ngoại trừ điềm lạ Yona. Người khuyên người ta
hãy suy nghĩ về câu truyện này.
Ðến lượt
chúng ta hôm nay cũng phải suy nghĩ. Thái độ của chúng ta đối với lương dân và
những người không chia sẻ đức tin của chúng ta, như thế nào? Chúng ta có tha
thiết cho họ được hạnh phúc như chính chúng ta không? Ðó là chính ý của Chúa.
Người đã khởi sự giảng đạo ở Galilêa. Người dạy Hội Thánh đi đến với lương dân.
Người gọi các môn đệ đầu tiên để làm thành một cộng đoàn truyền giáo. Hội Thánh
của chúng ta phải rao giảng Tin Mừng nhiều hơn. Chúng ta phải nhiệt tình với
lương dân hơn nữa. Và trước tiên như Ðức Kitô đã đi qua mầu nhiệm Tử nạn - Phục
sinh để trở thành Tin Mừng cho các dân tộc, chúng ta cũng phải đóng đinh xác thịt
vào thánh giá để sống cho Thiên Chúa nhiều hơn nữa, như lời thư Phaolô hôm nay
khuyên nhủ chúng ta.
Thánh
lễ này đưa chúng ta vào mầu nhiệm để chúng ta hối cải và tin vào Tin Mừng.
Chúng ta hãy thật lòng thống hối để có nếp sống thật Phúc Âm. Sự hiện diện của
chúng ta giữa xã hội cùng với lời rao giảng Tin Mừng sẽ làm ra những Ninivê mới,
tức là những xã hội hạnh phúc vui mừng vì đã có những nỗ lực cải tạo sâu rộng.
(Trích dẫn từ tập sách Giải
Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục
Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Chủ Nhật III Thường Niên, Năm B
Bài đọc: Jon 3:1-5, 10; I Cor 7:29-31; Mk 1:14-20
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thời
kỳ đã mãn, hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.
Thời gian có sức biến đổi con người trở nên tốt hay xấu hơn. Nếu biết dùng thời
gian mà nắm lấy cơ hội, con người sẽ đạt được kết quả mong muốn; nếu không biết
nắm lấy thời gian, cơ hội qua đi, con người phải gánh chịu mọi hậu quả xấu,
ngay cả cái chết.
Các Bài Đọc hôm nay đều chỉ cho thấy sự thúc đẩy nghiêm trọng của thời gian.
Trong Bài Đọc I, Thiên Chúa truyền cho Tiên-tri Jonah phải đi rao giảng cho dân
Thành Nineveh biết cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống trên họ. Tiên
tri mua vé tàu qua Tarshish, với hy vọng có thể trốn khỏi thiên nhan Đức Chúa.
Hậu quả xảy ra là ông bị ném xuống biển. May phước cho ông là được thóat chết.
Thiên Chúa truyền lần thứ hai, lần này ông vâng lệnh đi rao giảng. Dân Thành
Nineveh tin vào sứ điệp ông rao giảng. Họ tuyên bố thời gian chay tịnh trên
tòan nước: vua cũng như dân, từ con người đến súc vật, với hy vọng Thiên Chúa sẽ
đình chỉ những hình phạt mà Ngài sắp giáng xuống trên họ. Hy vọng của họ được
Thiên Chúa nhận lời. Trong Bài Đọc II, Thánh Phaolô cũng khuyên các tín hữu
Corintô: Vì thời gian chẳng còn bao lâu nữa là đến Ngày Chúa Quang Lâm, mọi người
hãy chú trọng đến những giá trị vĩnh cửu đời sau, đừng quá chú trọng đến những
giá trị đời này; hãy dùng chúng như không hưởng thụ, vì bộ mặt của thế gian đang
qua đi. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu loan truyền sứ điệp: "Thời kỳ đã mãn, và
Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng."
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Dân Nineveh tin vào Thiên Chúa.
1.1/ Đức
Chúa phán với ông Jonah lần thứ hai: Điều này giả sử phải có lần thứ nhất.
(1) Đức Chúa phán với Jonah lần thứ nhất: "Hãy đứng dậy, đi đến Nineveh,
thành phố lớn, và hô cho dân thành biết rằng sự gian ác của chúng đã lên thấu tới
Ta." Ông Jonah đứng dậy nhưng là để trốn đi Tarshish, tránh nhan Đức Chúa.
Ông xuống Joppa và tìm được một chiếc tàu sắp đi Tarshish. Ông trả tiền, xuống
tàu để cùng đi Tarshish với họ, để tránh nhan Đức Chúa. Lý do ông bất tuân lệnh
Thiên Chúa là vì ông ghét người ngọai bang, nhất là người Babylon, người mà
Chúa truyền cho ông đi tới. Hậu quả là thuyền ông bị đắm, ông bị thủy thủ quăng
xuống biển, và bị một con cá voi lớn táp. Như một phép lạ, ông ở trong bụng cá
3 ngày 3 đêm, ông tha thiết cầu nguyện với Thiên Chúa, Ngài đã nhận lời và làm
cho cá vào bờ và nhả ông ra (Joh 1:1- 2:11).
(2) Đức Chúa phán với Jonah lần thứ hai: "Hãy đứng dậy, đi đến Nineveh,
thành phố lớn, và hô cho dân thành biết lời tuyên cáo Ta sẽ truyền cho
ngươi." Có kinh nghiệm lần trước, ông Jonah không dám bất tuân, ông đứng dậy
và đi Nineveh, như lời Đức Chúa phán. Nineveh là một thành phố cực kỳ rộng lớn,
đi ngang qua phải mất ba ngày đường.
1.2/ Thời
gian khẩn cấp: Ông
Jonah bắt đầu vào thành, đi một ngày đường và công bố: “Còn bốn mươi ngày nữa!”
Hậu quả xảy ra: “Nineveh sẽ bị phá đổ.” Khi nghe tin này, “Dân Nineveh tin vào
Thiên Chúa, họ công bố lệnh ăn chay và mặc áo vải thô, từ người lớn đến trẻ nhỏ.
Tin báo đến cho Nineveh Vua Nineveh; vua rời khỏi ngai, cởi áo choàng, khoác áo
vải thô, và ngồi trên tro. Vua cho rao tại Nineveh: "Do sắc chỉ của đức
vua và các quan đại thần, người và súc vật, bò bê và chiên dê không được nếm bất
cứ cái gì, không được ăn cỏ, không được uống nước. Người và súc vật phải khoác
áo vải thô và hết sức kêu cầu Thiên Chúa. Mỗi người phải trở lại, bỏ đường gian
ác và những hành vi bạo lực của mình. Biết đâu Thiên Chúa chẳng nghĩ lại, chẳng
bỏ ý định giáng phạt, và nguôi cơn thịnh nộ, khiến chúng ta khỏi phải chết."
Thiên Chúa thấy việc họ làm, thấy họ bỏ đường gian ác mà trở lại, Người đình chỉ
về tai hoạ Người đã tuyên bố sẽ giáng trên họ, Người đã không giáng xuống nữa.
2/ Bài đọc II: Thời gian quá ngắn ngủi … Vì bộ mặt
thế gian này đang biến đi.
Có lẽ Thánh Phaolô viết Thư này khi ngài tin tưởng Ngày Chúa Quang Lâm đã gần kề,
nên các tín hữu hãy dồn hết nỗ lực chuẩn bị cho Ngày Chúa Quang Lâm. Tuy nhiên,
đọan văn này cũng có giá trị của nó, cho dẫu Ngày Chúa Quang Lâm chưa tới.
Thánh nhân khuyên:
(1) Người có vợ hãy sống như không có: Vợ chồng là chuyện hệ trọng khi con người
còn sống trong thế gian mà thôi; một khi con người về với Chúa, chuyện vợ chồng
không còn cần thiết nữa. Chúa Giêsu cũng dạy cho con người biết như thế, khi
người ta hỏi Ngài: Trong Ngày Quang Lâm, ai sẽ là chồng của người phụ nữ nếu cả
7 anh em đều kết hôn với người phụ nữ khi còn sống? Chúa trả lời: “Con cái đời
này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống
lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng” (Lk 20:34-35, Mt
22:30).
Xã hội chúng ta đang sống có khuynh hướng quá chú trọng đến chuyện vợ chồng, và
tìm đủ mọi cách để quảng cáo và đề cao nó. Họ quên đi điều quan trọng hơn là
làm sao đạt được mục đích của đời người. Ngay cả trong đời sống gia đình, chuyện
hai người yêu thương nâng đỡ nhau phần linh hồn trong cuộc đời còn quan trọng
hơn những liên hệ vợ chồng phần xác thịt.
(2) Ai khóc lóc, hãy làm như không khóc; ai vui mừng, như chẳng mừng vui: Cảm
xúc vui buồn cũng là những cảm xúc nhất thời, đến rồi đi. Con người đừng đặt
quá nhiều chú ý đến cả việc tìm vui lẫn nỗi lo sợ phải u buồn. Mối phúc thứ ba
của Bát Phúc còn nhấn mạnh: “Phúc cho ai khóc lóc vì họ sẽ được yên ủi.”
Con người thời đại, nhất là giới trẻ hôm nay quá chú trọng đến những party hội
hè. Họ sợ cô đơn thinh lặng một mình; họ chực sẵn điện thọai, chỉ chờ khi nào
nghe tiếng gọi đến party là đi. Họ quên đi một điều là “tiệc vui nào rồi cũng
có lúc tàn.” Họ không thể party cả ngày và đêm, sức khỏe con người có giới hạn,
sớm muộn rồi họ cũng phải đối diện với con người thật của mình. Hơn nữa, sự
thinh lặng sẽ giúp con người thư giãn bình an; thời giờ để tìm hiểu học hỏi sẽ
giúp con người biết nhận ra những giá trị đích thực của cuộc đời.
(3) Ai mua sắm, hãy làm như không có gì cả: Mua sắm là khi con người cần đến những
gì mình không có; không phải để tích trữ những gì lỡ ra mình cần đến. Con người
hôm nay hầu như không còn hiểu thế nào là cuộc sống đơn giản để đừng làm nô lệ
cho vật chất. Những nguy hiểm của thái độ mua sắm hôm nay:
- Thấy người khác có, mình cũng phải có, hay phải có thứ sang hơn: Mỗi tuần rủ
bạn bè đến nhà mình, hay đi party nhà bạn bè, là lúc để so sánh tài sản của
nhau. Nếu thấy mình thua kém bạn bè, sẽ tìm mọi cách cho bằng hay hơn nữa; nhiều
khi mua mà chẳng nghĩ mình có cần xử dụng nó hay không. Một cuộc chạy đua như
thế sẽ làm giàu cho giới con buôn; và làm cho con người càng ngày càng trở nên
nô lệ cho vật chất: muốn có tiền mua phải kéo cày, cày ngày không đủ tranh thủ
cày đêm; cho đến ngày con người sẽ sáng mắt ra nhìn thấy: hạnh phúc không tùy
thuộc những gì con người có, nhưng trong những gì con người là.
- Mua hàng on sale: Mua sắm đã trở thành thú giải trí: một cuộc đấu trí giữa
con buôn và khách hàng. Khi hàng mới ra, con buôn ra giá kinh hồn; mục đích là
để cho khách hàng biết giá trị của món hàng. Khi nào hàng đã lỗi thời, họ bán với
giá thấp hơn hay giá vốn; lúc đó khách hàng vui mừng vì mua được giá chỉ còn một
nửa. Họ có biết đâu, nhiều khi đó mới là giá trị thật của món hàng.
(4) Kẻ hưởng dùng của cải đời này, hãy làm như chẳng hưởng: Của cải vật chất
Thiên Chúa dựng nên là để phục vụ con người, không để con người làm nô lệ cho vật
chất. Điều rất nguy hiểm cho con người hôm nay là họ không còn chú trọng đến những
niềm vui tinh thần nữa, chỉ còn chú trọng đến những thú vui vật chất. Ví dụ,
nghỉ hè là dịp để thân xác được nghỉ ngơi và tinh thần được thư giãn. Để đạt được
2 mục đích này, nhiều khi con người chỉ cần đi cắm trại trong rừng vài ngày, cảnh
trí thiên nhiên và bầu khí thinh lặng sẽ giúp con người dễ nâng tâm hồn lên tới
Thiên Chúa. Ngược lại, có nhiều người nghĩ nghỉ hè là phải đi chơi xa, phải tốn
tiền để mua những tiện nghi hưởng thụ; nhiều khi phải tiêu quá nhiều tiền và tốn
quá nhiều thời giờ, làm con người càng lo lắng và mệt mỏi hơn là lúc chưa đi
nghỉ.
3/ Phúc Âm: Lập tức các ông bỏ chài lưới mà
đi theo Người.
3.1/ Chúa
Giêsu rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa: Tin Mừng này gói ghém trong 3 điều chính sau đây:
(1) Thời kỳ đã mãn: Lịch sử Cựu Ước là một chuỗi những thời gian để chuẩn bị
cho Đấng Messiah ra đời. Các Tiên-tri đã loan báo những điều này và chuẩn bị
dân chúng để đón mừng Ngài. Qua lời rao giảng của Chúa Giêsu hôm nay, Ngài muốn
nói cho mọi người biết: thời gian chuẩn bị và chờ đợi đã hết, Ngài chính là Đấng
Messiah mà muôn dân đang mong đợi.
(2) Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần: Truyền thống Do-Thái tin: Khi Đấng Messiah
tới, Ngài sẽ thiết lập triều đại của Thiên Chúa. Chính Ngài sẽ là Vua cai trị mọi
người và dẫn đưa mọi người về với Thiên Chúa. Chúa Giêsu muốn họ hiểu: khi Ngài
đến, triều đại Thiên Chúa bắt đầu.
(3) Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng: Phần con người, để được hưởng những
gì Thiên Chúa hứa, họ phải ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng Đức Kitô rao giảng.
3.2/ Chúa
Giêsu gọi 4 môn đệ đầu tiên: Để Tin Mừng được lan rộng đến mọi người, Chúa Giêsu mời gọi những môn đệ
đầu tiên để huấn luyện họ:
(1) Simon và Anrê: Thấy các ông đang quăng lưới xuống biển, vì họ làm nghề đánh
cá, Chúa Giêsu mời gọi: "Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh
thành những kẻ lưới người như lưới cá." Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi
theo Người.
(2) Giacôbê và Gioan: Đi xa hơn một chút, Người thấy ông Giacôbê, con ông
Zebedee, và người em là ông Gioan. Hai ông này đang vá lưới ở trong thuyền. Người
liền gọi các ông. Và các ông bỏ cha mình là ông Zebedee ở lại trên thuyền với
những người làm công, mà đi theo Người.
Phản ứng mau lẹ và dứt khóat của các ông chứng tỏ các ông đã nhận ra tầm quan
trọng của việc rao giảng Tin Mừng và thời gian cấp bách đòi hỏi.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Đời người chúng ta chỉ giới hạn trong một thời gian ngắn. Hãy tìm ra mục đích
cuộc đời và cố gắng sống làm sao để đạt được mục đích đó.
- Thiên Chúa dựng nên mọi sự trong trời đất là vì yêu thương con người, và Ngài
đặt muôn sự dưới chân con người. Tôn thờ vật chất như một vị thần là đi ngược lại
với ý định của Thiên Chúa.
- Chinh phục linh hồn con người về cho Thiên Chúa quí trọng hơn tìm kiếm của cải
vật chất. Chúng ta hãy mau mắn cộng tác với tiếng gọi của Thiên Chúa để làm việc
trong cánh đồng truyền giáo.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
21/01/2018
CHÚA NHẬT TUẦN 3 TN – B
Mc 1,14-20
Mc 1,14-20
ƯU TIÊN CHỌN CHÚA
“Và các ông bỏ cha mình ở lại trên thuyền với những người
làm công mà đi theo người.” (Mc
1,20)
Suy niệm: Từ xưa đến nay, ai đọc đoạn Tin Mừng
này hẳn không khỏi ngạc nhiên tự hỏi động cơ nào khiến các môn đệ đầu tiên “lập
tức” bỏ mọi sự để đi theo Chúa Giê-su. Phải chăng các ông đã gặp Chúa trước đây
rồi, và đây chỉ là giây phút quyết định? Vâng, đúng thế. Thế nhưng, chừng ấy
chưa đủ cơ sở để các ông bỏ cha mẹ, bỏ lưới thuyền, “lập tức” ra
đi theo tiếng gọi của Đấng “không có nơi gối đầu.” Hai tác giả
V. Howard và D. Peabody giúp lý giải điều này: ơn gọi chính là Tin Mừng cho con
người, Tin Mừng về Con Thiên Chúa cũng chính là Tin Mừng của toàn dân. Thế nên,
việc các môn đệ mau mắn đi theo Chúa Giê-su vì họ nhận ra Ngài là Tin Mừng đích
thật, có giá trị hơn mọi thứ các ông đang sở hữu.
Mời Bạn: Ưu tiên chọn Chúa hơn mọi giá trị trần
gian luôn là thách đố cho đức tin mỗi người. Có cách nào giúp bạn vượt qua
thách đố này? Thưa có, nếu bạn nhìn nhận Chúa là người bạn luôn trung thành của
cuộc đời bạn, và Lời Ngài đem lại hạnh phúc đích thực, bạn sẽ dễ dàng trong việc
ưu tiên chọn Chúa hơn mọi giá trị khác.
Sống Lời Chúa: Bạn tiếp tục suy
nghĩ tìm cho chính mình câu trả lời cho vấn nạn sau đây: Tại sao các môn
đệ dễ dàng đi theo Chúa như vậy? Còn bạn thì sao? Làm thế nào để bạn cũng dễ
dàng và quyết liệt bước theo Chúa?
Cầu nguyện: Lạy
Chúa Giê-su, con biết theo ai bây giờ? Chỉ có Chúa mới đem lại cho con hạnh
phúc đích thật và vĩnh cửu. Xin hãy kéo con về phía Chúa như Chúa đã đánh động
tâm hồn các môn đệ đầu tiên. Xin cho con niềm vui và hạnh phúc khi bước theo
Chúa. Amen.
(5 phút Lời Chúa)
HÃY THEO TÔI (21.1.2018 – Chúa nhật 3 Thường niên, Năm B)
Theo Chúa Giêsu là chia sẻ với Ngài cùng một sứ mạng, là thao thức và đồng cam cộng khổ với Ngài trong công việc cứu độ toàn thế giới.
Suy niệm:
Bốn anh thanh niên có gia
đình, có nghề nghiệp
lại được Ðức Giêsu mời
gọi theo Ngài, bỏ lại tất cả.
Chắc chắn họ không phải
là những người nhẹ dạ.
Họ đã từng quen biết Thầy
Giêsu và kính nể Ngài.
Ðến lúc nào đó, khi được
Ngài hoàn toàn chinh phục,
họ đã sẵn sàng ra đi, nhẹ
tênh.
Nhiều người nghĩ rằng
đoạn Tin Mừng này
nói về ơn gọi đi tu của
các linh mục tu sĩ.
Thật ra đây là đoạn Tin
Mừng
nói về ơn gọi của từng
Kitô hữu chúng ta,
Chúa Giêsu vẫn đi ngang
qua đời ta mỗi ngày
như xưa Ngài đã dọc theo
biển hồ Galilê.
Ngài thấy ta
như Ngài đã thấy bốn môn đệ.
Ngài thấy ta trước khi ta
thấy Ngài.
Cái nhìn của Ngài không
làm ta bị tê liệt
vì Ngài chấp nhận trọn
vẹn con người của ta.
Cả những yếu đuối và tội
lỗi cũng được Ngài đón nhận.
Hạnh phúc cho ai
được thấy Thiên Chúa.
Nhưng hơn nữa, hạnh phúc
cho ai được Thiên Chúa thấy.
Lúc Ngài thấy ta thì ta
vẫn không hay biết.
Ta vẫn mải mê quăng chài
hay vá lưới.
Ta vẫn tất bật với những
lo toan đời thường,
hay đang miệt mài theo
đuổi một ước mơ.
Chính lúc đó, chính lúc
ta tưởng mình quá ư ổn định,
và đời mình đã được định
hướng quá rõ ràng,
thì tiếng gọi của Ngài
vang lên, mạnh mẽ, dứt khoát.
Hãy theo tôi!
Mọi người Kitô hữu đều
được mời gọi đi theo Chúa Giêsu.
Ngài không mời ta đi theo
một lý tưởng, một ý thức hệ.
Ngài mời ta theo chính
con người Ngài, gắn bó với Ngài,
nhận Ngài là nền tảng và
chóp đỉnh của cuộc sống.
Tôi sẽ làm cho các anh
thành những kẻ lưới con người.
Con người là điều ta phải
quan tâm,
vì đó là mối quan tâm lớn
nhất của Chúa Giêsu.
Theo Ngài là chia sẻ với
Ngài cùng một sứ mạng,
là thao thức và đồng cam
cộng khổ với Ngài
trong công việc cứu độ
toàn thế giới.
Chúa Giêsu mời ta dấn
thân vào cuộc đổi đời,
mời ta định lại hướng đi
theo những giá trị mới.
Như thế là chấp nhận đổ
vỡ, đoạn tuyệt.
Bốn môn đệ đã bỏ lại biển
cả và những người thân yêu.
Vợ con của Simon và cha
của Giacôbê sẽ sống thế nào?
Mái nhà nay vắng bóng
những người đàn ông cột trụ!
Hôm nay Chúa Giêsu vẫn
cần bạn, vì bạn là Kitô hữu.
Ngài vẫn thấy bạn, và mời
gọi bạn đáp lại mỗi ngày.
Cần trầm lắng mới nghe
được tiếng thì thầm của Chúa.
Bạn có thể sống như một
giáo dân bình thường.
lo xây dựng gia đình, sự
nghiệp, tương lai.
Nhưng bạn phải sẵn sàng
từ bỏ khi cần,
nghĩa là chọn Chúa, đặt
Chúa lên trên mọi giá trị đó.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
chúng con không hiểu tại
sao Chúa chọn Simon,
một người đánh cá ít học
và đã lập gia đình,
để làm vị Giáo Hoàng đầu
tiên của Giáo Hội.
Chúa xây dựng Giáo Hội
trên một tảng đá mong
manh,
để ai nấy ngất ngây trước
quyền năng của Chúa.
Hôm nay Chúa cũng gọi
chúng con
theo Chúa, sống cho Chúa,
đặt Chúa lên trên mọi sự
:
gia đình, sự nghiệp,
người yêu.
Chúng con chẳng thể nào
từ chối
viện cớ mình kém đức kém
tài.
Chúa đưa chúng con đi xa
hơn,
đến những nơi bất ngờ,
vì Chúa cần chúng con ở
đó.
Xin cho chúng con một
chút liều lĩnh của Simon,
bỏ mái nhà êm ấm để lên
đường,
hạnh phúc vì biết mình
đang đi sau Chúa. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
21 THÁNG GIÊNG
Những Người Thất Nghiệp –
Mối Ưu Tư Nặng Trĩu Lòng Tôi
Tôi đặc biệt cảm thông tận đáy lòng mình hoàn cảnh của vô số
anh chị em thất nghiệp. Họ muốn làm việc, nhưng không thể kiếm được một chỗ
làm. Nhiều trường hợp, đó bởi vì nạn kỳ thị tôn giáo, giai cấp, chủng tộc, hay
ngôn ngữ. Không có việc làm hay thiếu việc làm – tình trạng ấy gây ra nỗi chán
chường và dễ làm cho người ta tự cảm thấy mình thừa thãi. Đó là nguyên nhân của
nhiều xung đột trong các gia đình và thường dẫn đến bao phiền não lắm khi không
thể tả xiết. Tình trạng ấy vừa làm suy yếu cấu trúc xã hội, vừa đe dọa chính phẩm
giá của người ta, nam cũng như nữ, trong các gia đình.
Chúng ta cần có những sáng kiến mới mẻ để giải quyết vấn đề
rất hệ trọng này. Những sáng kiến ấy sẽ đòi hỏi sự cộng tác trên bình diện quốc
gia và quốc tế. Điều cực kỳ quan trọng, đó là những chương trình được phác họa
để giải quyết vấn đề thất nghiệp phải thúc đẩy lòng tôn trọng và cảm thông giữa
những người chủ việc và những người lao động đang tìm kiếm một chỗ làm.
Hạnh Các Thánh
21 Tháng Giêng
Thánh Agnes
(c. 258?)
Hầu như chúng ta không biết gì nhiều về vị
thánh nữ nổi tiếng này, ngoại trừ ngài rất trẻ -- khoảng 12 hay 13 tuổi khi
ngài chịu tử đạo vào hậu bán thế kỷ thứ ba. Nhiều giả thuyết được đưa ra về cái
chết của ngài như bị chém đầu, bị thiêu hoặc bị xiết cổ.
Thánh Agnes Truyền thuyết nói rằng Thánh Agnes là một thiếu
nữ xinh đẹp mà nhiều thanh niên muốn kết hôn. Trong những người bị khước từ lời
cầu hôn, có một người đã đi tố cáo ngài là Kitô Hữu với nhà chức trách. Ngài bị
bắt và bị giam trong nhà gái điếm.
Truyền thuyết kể rằng có một người bị mù
vì đã nhìn ngài với ước muốn dâm dục, và sau khi được ngài cầu nguyện cho, họ
đã sáng mắt. Ngài bị kết án, bị xử tử và được chôn gần Rôma, trong một hang toại
đạo mà sau này được mang tên của thánh nữ.
Vào thế kỷ thứ tư, Constantia, con gái của
hoàng đế Constantine đã xây một đền thờ để tôn kính thánh nữ. Huy hiệu của ngài
trong các tranh ảnh là hình con chiên, vì tên của ngài gần giống như chữ
Latinh, agnus, có nghĩa là con chiên.
Lời Bàn
Cũng giống như Thánh Maria Goretti trong
thế kỷ gần đây, sự tử đạo của các thiếu nữ đồng trinh là một ấn tượng mạnh mẽ đối
với xã hội ngày nay đang nô lệ cho chủ nghĩa duy vật. Như Thánh Agatha, là người
đã chết trong hoàn cảnh tương tự, Thánh Agnes tiêu biểu cho sự thánh thiện mà
không lệ thuộc vào tuổi tác, tài năng hay sự cố gắng cá nhân. Ðó là món quà mà
Thiên Chúa ban cho tất cả mọi người.
Lời Trích
"Ðây là ngày sinh nhật của một trinh
nữ; chúng ta hãy noi gương khiết tịnh của ngài. Ðây là ngày sinh nhật của một vị
tử đạo; chúng ta hãy dâng lên những hy sinh; đây là ngày sinh nhật của Thánh
Agnes: Các ông hãy cảm phục, các thiếu niên hãy hy vọng, các bà hãy kính sợ và
các thiếu nữ hãy ganh đua. Ðối với tôi, người thiếu nữ này, dường như sự thánh
thiện và sự can đảm vượt lên trên bản tính con người, được đặt tên là Agnes (Hy
Lạp: tinh tuyền) không phải do trần thế quyết định, mà là một mặc khải từ Thiên
Chúa về con người của thánh nữ" (Bài giảng của Thánh Ambrôsiô về vấn đề đồng
trinh).
Trích từ NguoiTinHuu.com
21 Tháng Giêng
Chiếc Khăn Tay Vấy Mực
Ruskin là một nghệ sĩ, phê bình nghệ thuật
kiêm xã hội học người Anh sống vào cuối thế kỷ 19.
Một hôm, có một người đàn bà quý phái
mang đến cho ông xem một chiếc khăn tay đắt tiền đã bị vấy mực. Bà ta xuýt xoa
tiếc rẻ vì chiếc khăn tay đã hoàn toàn mất giá trị của nó.
Ruskin không nói gì, ông chỉ xin cho
ông mượn chiếc khăn tay trong một ngày. Ngày hôm sau, ông trao lại chiếc khăn
tay cho người đàn bà mà cũng không nói một lời nào. Nhưng khi trải chiếc khăn
tay ra, người đàn bà hết sức ngạc nhiên, bởi vì từ một vết mực trong góc của
chiếc khăn, nhà nghệ sĩ đã biến thành một bức tranh tuyệt mỹ.
Chiếc khăn tay có vấy mực tưởng đã bị
vứt đi, nay đã trở thành một tác phẩm nghệ thuật để đời.
Những người
có niềm tin vào cuộc sống không bao giờ bỏ cuộc trước những thất bại. Họ luôn
biết biến những thất bại ấy thành khởi đầu của một thành công vĩ đại hơn.
Người có niềm
tin vào Thiên Chúa cũng luôn nhìn vào thất bại, rủi ro, đau khổ trong cuộc sống
như cơ may của một ân phúc cao cả và dồi dào hơn.
Dạo tháng 6
năm 1990, mục sư Anh giáo Michael Lapsley, người Zimbabwe bên Phi Châu, vì là mục
sư Tuyên úy của tổ chức Quốc đại Châu Phi bao gồm các lực lượng tranh đấu cho
quyền lợi của người da đen Nam Phi, đã bị quân khủng bố đặt chất nổ khiến ông bị
cụt hai tay, mù một mắt và hỏng lỗ tai. Trong một tuyên ngôn công bố sau đó,
ông đã viết như sau: "Họ đã lấy mất đôi tay của tôi. Nhưng tôi không buồn,
bởi vì tôi không dùng đến võ khí để cần phải có đôi tay. Họ đã lấy mất một phần
đôi mắt của tôi và thính giác của tôi, nhưng tôi vẫn còn có thể dâng hiến lời
nói để tiếp tục rao giảng một cách xác tín và mạnh mẽ hơn".
Người ta vẫn
thường nói: Yêu là chết trong lòng một ít. Tình yêu đích thực luôn luôn đòi hỏi
hy sinh, mất mát. Nhưng chỉ có đôi mắt tình yêu mới nhận ra giá trị của những mất
mát ấy.
Qua cái chết
trên thập giá như một tiêu hao hoàn toàn, Chúa Giêsu đã bày tỏ Tình Yêu của
Thiên Chúa cho nhân loại, ánh sáng của Tình Yêu đã chiếu sáng qua sự mất mát ấy.
Qua những hao mòn trong từng ngày của cuộc sống Mẹ Maria, Tình Yêu của Thiên
Chúa cũng được tiếp tục bày tỏ. Có cái chết độc ác, tức tưởi của Chúa Giêsu
trên thập giá, thì cũng có cái chết âm thầm từng ngày của Mẹ Maria. Ngày nay,
tình Yêu của Thiên Chúa cũng cần có những mất mát, hao mòn khác của người Kitô
để được tiếp tục bày tỏ cho con người, bởi vì sứ mệnh của người Kitô chính là bổ
túc cho những gì còn thiếu sót trong cuộc tử nạn của Ðức Kitô.
Trích sách
Lẽ Sống
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét