26/01/2018
Thứ Sáu tuần 3 thường niên
Thánh Timôthê và thánh Titô, giám mục,
Lễ nhớ.
* Cùng với thánh Luca, thánh Timôthê và thánh Titô là những cộng tác viên trung thành của thánh Phaolô. Mẹ thánh
Timôthê là người Do thái, còn chính ông thì đã
được thánh Phaolô thanh tẩy. Ông đã theo thánh Phaolô trong các chuyến đi truyền giáo, rồi sau được đặt làm thủ lãnh giáo đoàn Êphêxô. Còn
thánh Titô đã được thánh Phaolô nhận ở Antiôkhia ngay từ đầu sứ vụ tông đồ. Sau đó, ông được trao nhiệm vụ loan báo Tin Mừng. Thư thánh Phaolô gửi cho ông Timôthê và thư gửi cho ông Titô được gọi là các thư mục vụ, vì trong đó có nhiều lời khuyên dành cho cả những người lãnh đạo cũng như cho hết mọi thành phần trong giáo đoàn.
Thánh Timôthêu và Thánh Titô, Giám Mục
(Các bài đọc lấy ở lễ
chung các Thánh mục tử)
Bài Ðọc I: 2 Tm 1, 1-8
"Nhớ lại đức
tin trung thành của con".
Trích thư thứ hai của
Thánh Phaolô Tông đồ gửi cho Timô-thêu.
Phaolô, Tông đồ của
Chúa Giêsu Kitô, bởi ý định của Thiên Chúa, theo lời hứa ban sự sống trong Chúa
Giêsu Kitô, gởi lời thăm Timôthêu, người con yêu dấu. Nguyện chúc ân sủng, lòng
từ bi và bình an của Thiên Chúa Cha, và Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
Cha cảm tạ ơn Chúa, Ðấng
cha phụng sự như tổ tiên cha, với tâm hồn trong trắng, khi cha đêm ngày hằng nhớ
đến con trong kinh nguyện, nhớ đến nước mắt con đã chảy ra. Cha mong ước gặp
con, để được đầy lòng vui mừng. Cha nhớ lại đức tin trung thành của con, đức
tin mà bà ngoại của con là Lois đã có trước, rồi đến mẹ con là Êunikê, và cha
tin chắc con cũng có đức tin đó. Vì vậy, cha nhắc nhở con điều này, là hãy làm
sống động ơn Chúa trong con, ơn mà con lãnh nhận qua việc cha đặt tay trên con.
Thật vậy, Thiên Chúa không ban cho chúng ta một thần trí nhát sợ, mà là thần
trí dũng mạnh, mến yêu và độ lượng. Vậy con chớ hổ thẹn làm chứng cho Chúa
chúng ta, cũng đừng hổ thẹn vì cha là tù nhân của Người; nhưng hãy cộng tác với
Tin Mừng dựa theo quyền lực của Thiên Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Hoặc đọc: Tt 1, 1-5
"Gởi lời thăm
Titô, người con chân thật trong cùng một đức tin".
Trích thư Thánh Phaolô
Tông đồ gửi cho Titô.
Phaolô, đầy tớ của
Thiên Chúa, Tông đồ của Ðức Giêsu Kitô, theo đức tin của những người được Chúa
chọn, và sự hiểu biết chân lý theo lòng đạo đức, trong hy vọng được sống đời đời
mà Thiên Chúa là Ðấng không lừa dối, đã hứa từ muôn đời; và khi đến giờ đã định,
Người bày tỏ lời Người qua việc rao giảng mà Người đã giao phó cho cha theo lệnh
của Thiên Chúa Ðấng Cứu độ chúng ta: gởi lời thăm Titô, người con chân thật
trong cùng một đức tin. Nguyện chúc cho con được ân sủng và bình an của Thiên
Chúa Cha, và của Ðức Giêsu Kitô, Ðấng Cứu độ chúng ta. Ðây là lý do cha để con ở
lại Crêta, là để con tổ chức cho xong xuôi tất cả, và thiết lập hàng niên trưởng
trong mỗi thành phố, như cha đã truyền dạy cho con.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 95, 1-2a.
2b-3. 7-8a. 10
Ðáp: Hãy tường thuật phép lạ Chúa giữa muôn dân (c. 3).
Xướng: 1) Hãy ca mừng
Chúa một bài ca mới, hãy ca mừng Chúa đi, toàn thể địa cầu! Hãy ca mừng Chúa,
hãy chúc tụng danh Người. - Ðáp.
2) Ngày ngày hãy loan
truyền ơn Người cứu độ. Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa muôn dân và phép lạ
Người ở nơi vạn quốc. - Ðáp.
3) Hãy kính tặng Chúa,
hỡi người chư dân bá tánh, hãy kính tặng Chúa quyền thế với vinh quang; hãy
kính tặng Chúa vinh quang xứng với danh Người. Hãy mang lễ vật, tiến vào hành
lang nhà Chúa. - Ðáp.
4) Người giữ vững địa
cầu cho khỏi lung lay, Người cai quản chư dân theo đường đoan chính. - Ðáp.
Alleluia: Mt 23, 9a.
10b
Alleluia, alleluia! -
"Các ngươi chỉ có một Cha, Người ngự trên trời. Các ngươi chỉ có một người
chỉ đạo, đó là Ðức Kitô". - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 10, 1-9
"Lúa chín đầy
đồng mà thợ gặt thì ít".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa chọn thêm
bảy mươi hai người nữa và sai các ông cứ từng hai người đi trước Người, đến các
thành và các nơi mà chính Người sẽ tới. Người bảo các ông rằng: "Lúa chín
đầy đồng mà thợ gặt thì ít; vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của
người. Các con hãy đi. Này Thầy sai các con như con chiên ở giữa sói rừng. Các
con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép, và đừng chào hỏi ai dọc đường.
Vào nhà nào, trước tiên các con hãy nói: "Bình an cho nhà này". Nếu ở
đấy có con cái sự bình an, thì sự bình an của các con sẽ đến trên người ấy. Bằng
không, sự bình an lại trở về với các con. Các con ở lại trong nhà đó, ăn uống
những thứ họ có, vì thợ đáng được trả công. Các con đừng đi nhà này sang nhà nọ.
Khi vào thành nào mà người ta tiếp các con, các con hãy ăn những thức người ta
dọn cho. Hãy chữa các bệnh nhân trong thành và nói với họ rằng: "Nước
Thiên Chúa đã đến gần các ngươi".
Ðó là lời Chúa.
SUY NIỆM : Diễn Văn
Truyền Giáo
Giáo Hội mời gọi
chúng ta đọc và suy niệm những câu đầu tiên của chương 10 Phúc Âm theo thánh
Luca. Ðây là bài diễn văn truyền giáo số 2. Bài diễn văn truyền giáo số 1 là
chương 9, Phúc Âm thánh Luca. Trong bài diễn văn truyền giáo số 2, Chúa Giêsu
ngỏ lời căn dặn bảy mươi hai môn đệ mà Ngài sai đi từng nhóm hai người một để
làm như một cộng đoàn làm việc chung với nhau, chứ không phải một cách riêng rẽ.
Con số mười hai tông đồ nhắc đến mười hai chi họ Israel; con số bảy mươi hai
môn đệ nhắc đến chi tiết nơi chương 10 sách Sáng Thế: "Khi tất cả các dân
nước trên mặt đất".
Như thế, chúng ta có
thể nói rằng bài diễn văn truyền giáo số 2 của Chúa Giêsu trong đoạn Phúc Âm
thánh Luca mà hôm nay chúng ta suy niệm là những lời căn dặn của Chúa Giêsu cho
tất cả mọi thành phần Giáo Hội Dân Chúa đến từ khắp mọi nơi không phân biệt màu
da, chủng tộc, tiếng nói. Tất cả mọi người đồ đệ của Chúa đều phải là những nhà
truyền giáo, những chứng nhân của Chúa và phải tuân giữ những gì Chúa căn dặn
nơi chương 10 này.
Những lời dặn dò trên
của Chúa Giêsu thật là cặn kẽ, cụ thể, với những chi tiết hết sức thực tế. Dĩ
nhiên, tinh thần phải có khi thực hiện những việc làm trên là điều quan trọng
hơn. Thời đại đã thay đổi, thời chúng ta đang sống khác với thời của Chúa
Giêsu. Những hành động cụ thể của một thời đã thay đổi, chẳng hạn như ngày xưa
đi bộ, cầm gậy thì ngày nay đã có các phương tiện giao thông liên lạc khác,
nhưng tinh thần của những hành động cụ thể mà Chúa Giêsu muốn các môn đệ có
không bao giờ thay đổi. Trong những giây phút ngắn ngủi suy niệm này chúng ta
không thể nào suy niệm tất cả mọi khía cạnh của tinh thần truyền giáo nơi môn đệ
của Chúa.
Ước chi mỗi người
chúng ta tìm thì giờ rảnh rỗi trong ngày, trong tuần để trở lại suy niệm thêm về
những lời căn dặn của Chúa nơi chương 10 Phúc Âm thánh Luca.
Chúng ta hãy nhớ lại
những lời đầu tiên Chúa Giêsu nói trong đoạn Phúc Âm hôm nay: "Lúa chín đầy
đồng mà thợ gặt thì ít, vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của
Người, các con hãy ra đi". Qua câu đầu tiên này của đoạn Tin Mừng hôm nay
nhắc chúng ta điểm khởi đầu căn bản của mọi hoạt động truyền giáo: trước hết là
nhận thức nhu cầu của anh chị em chung quanh, thứ hai là đưa nhu cầu đó vào
trong lời cầu nguyện của chính mình và thứ ba là sẵn sàng để được sai và hăng
say ra đi khi được trao phó cho sứ mạng. Chúng ta hãy tự vấn xem chính mình đã
có những tư tưởng căn bản này chưa? Những quan tâm truyền giáo làm chứng cho
Chúa có được chúng ta đưa vào trong lời cầu nguyện của chính mình chưa? Trong
cuộc đối thoại giữa mình với Thiên Chúa chưa?
Lạy Chúa,
Này con đây đã sẵn
sàng, Chúa muốn con làm gì xin hãy phán và con xin lắng nghe. Xin ban ơn biến đổi
mỗi người chúng con trở thành những chứng nhân đích thực của Chúa trong mọi
hoàn cảnh.
Thứ Sáu sau Chúa Nhật
3 Quanh Năm
Bài Ðọc I: (năm
II) 2 Sm 11, 1-4a. 5-10b. 13-17
"Ngươi đã
khinh dể Ta và đã cướp vợ Uria làm vợ mình".
Trích sách Samuel quyển
thứ hai.
Khi ấy, sang năm mới,
là lúc các vua thường ra trận, thì Ðavít sai Gioáp, các tôi tớ của vua và toàn
dân Israel đi tiêu diệt dân Ammon và bao vây Rabba. Còn Ðavít thì ở lại
Giêrusalem. Khi chiến tranh đang diễn tiến, thì một bữa trưa nọ, Ðavít ra khỏi
giường ngủ, đi bách bộ trên sân thượng nhà vua, liền nhìn thấy một phụ nữ đang
tắm trên sân thượng nhà bà. Bà rất xinh đẹp. Vậy vua sai dò hỏi người phụ nữ đó
là ai. Người ta thưa đó là bà Bethsabê, con ông Êliam, vợ Uria người Hêthê.
Ðavít sai cận vệ đi tìm bà. Khi trở về nhà, bà mang thai, nên sai người báo tin
cho Ðavít mà rằng: "Tôi đã có thai".
Vậy Ðavít sai người đến
nói với Gioáp rằng: "Hãy sai tướng Uria người Hêthê về đây cho trẫm".
Gioáp sai Uria về gặp Ðavít, và Uria đến gặp Ðavít. Ðavít hỏi thăm tin tức về
Gioáp, quân sĩ, và trận chiến diễn tiến thế nào. Rồi Ðavít nói cùng Uria:
"Ngươi hãy về nhà rửa chân đi". Uria rời khỏi hoàng cung, và người ta
mang cho ông một phần ăn của nhà vua, nhưng Uria cùng các cận vệ nằm ngủ ngay
trước cửa nhà vua chứ không về nhà. Người ta đi báo tin cho Ðavít hay
"Uria không đi về nhà". Ðavít mời ông ăn uống trước mặt mình và ép uống
rượu cho say. Ðến chiều Uria đi ra cùng với các cận vệ ngủ trên chõng, chớ
không về nhà. Sáng hôm sau, Ðavít viết một lá thư gởi cho Gioáp và sai Uria
mang đi. Trong thư, ngài viết như sau: "Hãy đặt Uria vào nơi giao tranh
gay cấn nhất, rồi bỏ mặc hắn, để hắn bị đánh cho chết". Vậy khi Gioáp bao
vây thành, liền cử Uria đến địa điểm mà ông biết có những quân địch mạnh nhất.
Quân trong thành kéo ra nghinh chiến với Gioáp, nhiều quân sĩ của Ðavít ngã gục,
và cả Uria người Hêthê cũng tử trận.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 50, 3-4.
5-6a. 6bc-7. 10-11
Ðáp: Lạy Chúa, xin thương xót chúng con, vì chúng con đã
phạm tội (c. 3a).
Xướng: 1) Lạy Chúa,
nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ bi.
Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác. - Ðáp.
2) Vì sự lỗi con,
chính con đã biết, và tội con ở trước mặt con luôn. Con phạm tội phản nghịch
cùng một Chúa. - Ðáp.
3) Con thi hành điều
ác trước thiên nhan, hầu tỏ ra Chúa công bình khi phê phán. Này coi, con đã
chào đời trong ô uế, và trong tội, mẹ đã hoài thai con. - Ðáp.
4) Xin cho con cảm thấy
vui mừng hoan hỉ, cho xương bị Chúa đập hớn hở reo lên. Xin ngoảnh mặt đi, đừng
nhìn tội lỗi, và tẩy xoá mọi điều gian ác của con. - Ðáp.
Alleluia: Tv 94, 8ab
Alleluia, alleluia! -
Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 4, 26-34
"Người kia đã
gieo hạt xuống đất, rồi đi ngủ, hạt giống mọc lên thế nào người đó cũng không
hay biết".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu
phán cùng dân chúng rằng: "Nước Thiên Chúa giống như người kia đã gieo hạt
xuống đất: người đó ngủ hay thức, đêm hay ngày, hạt giống cứ đâm mầm và mọc lên
thế nào người đó cũng không hay biết nữa. Ðất tự nó làm cây lúa mọc lên: trước
hết thành cây, rồi đâm bông, rồi kết hạt. Và khi lúa chín, người ấy liền gặt vì
đã đến mùa".
Người còn phán:
"Chúng ta sẽ lấy gì mà hình dung nước Thiên Chúa? hay dùng dụ ngôn nào mà
so sánh nước đó được? Nước đó giống như hạt cải, khi gieo xuống đất thì nhỏ bé
nhất trong tất cả các hạt trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, nó mọc lên thành
cây rau lớn nhất, và đâm những cành to, đến nỗi chim trời có thể tới núp bóng
được". Người dùng nhiều dụ ngôn như thế mà rao giảng lời Chúa cho họ, tuỳ
sức họ có thể hiểu được, và Người chỉ nói với họ bằng dụ ngôn, nhưng khi ở
riêng với các môn đệ, Người giải thích tất cả cho các ông.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Hạt giống, hạt
cải
Trong bài Tin Mừng hôm
nay, Chúa Giêsu dùng hạt giống và hạt cải làm ví dụ để nói về Nước Thiên Chúa.
Nước Thiên Chúa được
thiết lập giống hệt như một tiến trình gieo gặt trọn vẹn: từ hạt giống, hạt nẩy
sinh thành cây, rồi thành bông lúc. Như người dân Palestina, sau khi gieo hạt
giống, họ âm thầm chờ đợi lúa chín để gặt hái, chứ không hề biết hạt giống được
gieo xuống đất đã phát triển như thế nào: Chúa Giêsu cũng gieo hạt giống Nước
Trời nơi tấm lòng con người, cùng với ơn Chúa, Nước đó âm thầm phát triển lan rộng
khắp thế giới, tạo nên mùa gặt các linh hồn. Chúa Giêsu chỉ đích thân có mặt
trong mùa gieo giống và mùa gặt hái. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian chờ đợi,
Ngài vẫn tiếp tục hoạt động một cách vô hình, qua Chúa Thánh Thần và Giáo Hội.
Khi Nước Thiên Chúa đã phát triển đến mức tối đo, Ngài sẽ trở lại trong vinh
quang, thu hoạch mùa gặt của Ngài.
Dụ ngôn hạt cải là dụ
ngôn cuối cùng trong năm dụ ngôn về Nước Thiên Chúa. Cũng như các dụ ngôn trước,
dụ ngôn này được rút ra từ đời sống thôn dã. Nó đưa ra một nét tương phản hấp dẫn:
hạt cải nhỏ xíu trở thành một cây to lớn. Nước Thiên Chúa cũng mang nơi mình một
nghịch lý tương tự: Dưới cái nhìn của thánh Marcô, dụ ngôn hạt cải chứa đựng
cách diễn tả tuyệt vời về bí mật Mêsia. Cho đến lúc này, hành vi của Chúa Giêsu
có thể bị coi là vô nghĩa và Nước Thiên Chúa vẫn chỉ là một thực tế khiêm tốn.
Dù vậy, các dân ngoại đang nhìn thấy sự tăng trưởng dị thường của nó như các
Kitô hữu ở Rôma đã kinh nghiệm được điều này. Chính Giáo Hội tiên khởi, dù yếu
đuối, vẫn ý thức được mình đang tham dự vào sự thành công của một công trình đã
sẵn tiềm tàng nguồn sinh lực vô biên, công trình này sẽ đạt tới mức hoàn vũ vào
cuối giai đoạn phát triển của nó.
Hạt giống đã trải qua
một quá trình phát triển âm thầm trước khi tới mùa gặt; hạt cải được trồng dưới
đất cũng phải trải qua một quá trình cho đến khi trở thành một cây lớn. Trong
những bổn phận dù âm thầm hằng ngày, chúng ta hãy tin tưởng phó thác cho quyền
năng yêu thương của Chúa, chính Ngài sẽ làm cho công việc chúng ta thực hiện
theo ý Chúa đạt tới kết quả vượt quá sức tưởng tượng của chúng ta, và như vậy
chúng ta sẽ làm ích cho chính bản thân, cho tha nhân và cho Nước Chúa.
Xin Chúa củng cố chúng
ta trong niềm xác tín đó.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Sáu Tuần 3 TN2
Bài đọc:
2 Sam 11:1-4a, 5-10b, 13-17; Mk 4:26-34.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Người công
chính sống bởi đức tin.
Trong cuộc đời, có nhiều
điều xảy ra vượt quá khả năng hiểu biết của con người, chẳng hạn: chúng ta
không cắt nghĩa được sự sống, chúng ta không giải thích nổi đức tin; vì những
điều này đến từ Thiên Chúa.
Các Bài Đọc hôm nay
cho thấy sự liên hệ giữa đức tin và sự sống. Con người phải trung thành giữ vững
đức tin để đạt được sự sống muôn đời; cho dù phải chờ đợi lâu dài và chịu đựng
đau khổ.
Trong Bài Đọc I, năm
chẵn, Thiên Chúa vừa hứa sẽ ban cho David một dòng dõi làm vua trị vì muôn đời;
thế mà David lại vừa phạm hai tội tày đình trong trình thuật hôm nay: tội lấy vợ
của người và tội giết người. Hai tội này mở màn cho những tội kế tiếp trong
dòng dõi David: loạn luân, giết người, thù địch giữa anh em, cha con... Con người
tự hỏi làm sao lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện qua những trang sử đen tối
của nhà David! Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu so sánh Nước Thiên Chúa giống như hạt
giống gieo xuống đất, con người có biết đến hay không thì hạt giống vẫn sống:
nó nẩy mầm, bén rễ, mọc lên, sinh hoa kết trái, và sẵn sàng cho mùa gặt. Ngài
cũng so sánh Nước Thiên Chúa như hạt cải, tuy nhỏ bé nhất trong các hạt giống,
nhưng có tiềm năng trở thành cây lớn cho muôn chim kéo đến làm tổ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
2/ Bài đọc I (năm chẵn): Vua David phạm hai tội nặng nề trước mặt Thiên Chúa.
2.1/ David phạm tội ngoại
tình: Trình thuật kể: "Lúc xuân về...
Vào một buổi chiều, vua David từ trên giường trỗi dậy và đi bách bộ trên sân
thượng đền vua. Từ sân thượng, vua thấy một người đàn bà đang tắm. Nàng nhan sắc
tuyệt vời. Vua David sai người đi điều tra về người đàn bà, và người ta nói:
"Đó chính là bà Bathsheba, con gái ông Eliam, vợ ông Uriah người
Hittite."
Vua David sai lính biệt
phái đến đón nàng. Nàng đến với vua và vua nằm với nàng; Người đàn bà thụ thai.
Nàng sai người đến báo tin cho vua David rằng: "Tôi có thai.""
Để chạy tội làm bà
Bathsheba có thai, hai lần vua David dùng xảo kế để Uriah chồng bà về ăn nằm với
Bà; nhưng cả hai lần vua đều thất bại, vì Uriah từ chối không về nhà gặp vợ.
2.2/ David phạm tội giết
người: Để diệt trừ tai tiếng, vua David nghĩ
cách để giết Uriah cách êm thắm. Vua viết thư cho ông Joab và gửi ông Uriah
mang đi trong thư, với những lời lẽ như sau: "Hãy đặt Uriah ở hàng đầu, chỗ
mặt trận nặng nhất, rồi rút lui bỏ nó lại, để nó bị trúng thương mà chết."
Ông Joab đang thám sát thành liền để ông Uriah ở chỗ ông biết là có quân hùng mạnh
nhất. Người trong thành xông ra, giao chiến với ông Joab. Một số người trong
quân binh, trong các bề tôi vua David đã ngã gục, và ông Uriah, người Hittite,
cũng chết.
Vua David tưởng
"chó chết hết chuyện;" nhưng vua có ngờ đâu hậu quả khốc liệt đang chờ
đổ xuống trên nhà David trong những thời gian kế tiếp! Nhưng cũng chính vì những
biến cố này mà David cảm nhận được tình thương Thiên Chúa qua những bài thánh vịnh
nói lên tấm lòng ăn năn thống hối của ông. Thiên Chúa vẫn tiếp tục thực hiện những
gì Ngài hứa với David ngang qua những lúc tăm tối nhất của cuộc đời. Điều quan
trọng là David luôn tin tưởng và kiên trung vượt qua mọi thử thách, chứ không
đánh mất niềm tin và hy vọng nơi Thiên Chúa.
3/ Phúc Âm: Đức tin, tiềm năng của sự sống, đến từ Thiên Chúa.
Nước Thiên Chúa được
Chúa Giêsu diễn giải qua 2 ví dụ. Mục đích của việc diễn giải là để nói lên:
(1) Nước Thiên Chúa lớn mạnh là do Thiên Chúa, không do công sức của con người;
và (2), Nước Thiên Chúa tuy bắt đầu bé nhỏ, nhưng có tiềm năng lan rộng khắp thế
giới.
3.1/ Nước Thiên Chúa được
ví như một hạt giống chứa đựng tiềm năng của sự sống: Chúa Giêsu nói: "Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa
như chuyện một người vãi hạt giống xuống đất. Đêm hay ngày, người ấy có ngủ hay
thức, thì hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, bằng cách nào, thì người ấy không
biết. Đất tự động sinh ra hoa màu: trước hết cây lúa mọc lên, rồi trổ đòng
đòng, và sau cùng thành bông lúa nặng trĩu hạt. Lúa vừa chín, người ấy đem liềm
hái ra gặt, vì đã đến mùa." Qua ví dụ này, Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh đến 3
điều sau đây:
(1) Con người không phải
là tác giả của sự sống: Sự sống đến từ Thiên Chúa và được trao ban cho muôn vật.
Trong sự tạo dựng của Thiên Chúa, hạt giống tự nó đã có tiềm năng của sự sống.
Con người không cho hạt giống sự sống, nhưng có thể giúp nó tăng trưởng và cho
kết quả tốt hơn. Cũng vậy, Nước Thiên Chúa đến từ Thiên Chúa và đã có tiềm năng
phát triển. Con người không tạo nên Nước Thiên Chúa, nhưng có thể giúp cho Nước
Thiên Chúa mau đến.
(2) Đặc điểm của Nước
Thiên Chúa:
* Sự tăng trưởng của
nó không hiểu được: Con người có thể nhìn thấy sự tăng trưởng của hạt giống,
nhưng không thể cắt nghĩa sự tăng trưởng của nó. Cũng vậy, con người có thể
nhìn thấy Nước Thiên Chúa lớn mạnh dần, nhưng không thể cắt nghĩa lý do của sự
lớn mạnh này.
* Sự tăng trưởng của
nó cứ phát triển đều đặn: Không giống như sự tiến bộ của con người, có lúc tăng
trưởng có lúc suy thoái. Sự tăng trưởng của hạt giống và của Nước Thiên Chúa cứ
phát triển đều đặn và lớn mạnh dần.
(3) Mùa màng sẽ tới:
Khi gieo giống xuống, con người chờ đợi mùa màng tới. Cũng vậy, khi Thiên Chúa
bắt đầu triều đại của Ngài, là sẽ có ngày vinh quang. Con người cần kiên nhẫn
và chuẩn bị xứng đáng cho Ngày đó.
3.2/ Tiềm năng của sự sống
không lệ thuộc vào hình dạng bên ngoài: Hạt
cải là hạt bé nhỏ nhất nhưng có tiềm năng trở thành cây lớn: Hạt cải của
Palestine là hạt có thể trở thành cây, chứ không phải chỉ trở thành rau như của
chúng ta. Trong thế giới thời đó, các đế quốc thường được ví như cây, và các nước
chư hầu được ví như cành. Chúa Giêsu có ý muốn nói: Nước Thiên Chúa bắt đầu với
một nhóm người Do-thái nhỏ; nhưng có tiềm năng trở thành cây lớn, và tất cả con
người thuộc mọi quốc gia đến tìm chỗ nương tựa. Điều này đã được chứng minh bằng
con số hơn một nửa dân số của thế giới đã tin vào Ngài.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Đức tin là quà tặng
quí giá Thiên Chúa ban cho con người. Chúng ta phải trân quí, phát triển, và giữ
vững đức tin.
- Con người sống là nhờ
đức tin và hy vọng vào Đức Kitô. Nếu không đặt niềm tin nơi Đức Kitô, chúng ta
sẽ không có hy vọng được sống muôn đời.
- Đức tin phải được thử
thách như lửa thử vàng. Chúng ta cũng bị thử thách như trường hợp của vua
David. Điều quan trọng là chúng ta cần phải can trường giữ vững đức tin và niềm
hy vọng vào những gì Thiên Chúa hứa trong gian nan thử thách và chờ đợi lâu dài.
Thiên Chúa sẽ ban sự sống đời đời cho những ai bền vững đến cùng.
- Đức tin có tiềm năng
lớn mạnh và thực hiện những chuyện vượt quá sức con người. Vì thế, khi chúng ta
chưa thực hiện được những gì Thiên Chúa đòi, đức tin của chúng ta còn non nớt,
yếu kém. Chúng ta cần xin Ngài củng cố niềm tin cho chúng ta.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
26/01/2018 - THỨ SÁU TUẦN 3 TN
Th. Ti-mô-thê-ô và Ti-tô, giám mục
Lc 10,1-9
LÀM CHỨNG CHO TIN MỪNG
“Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói.”
(Lc 10,3)
Suy niệm: Ai được mời gọi gặt lúa?
Không phải chỉ là nhóm Mười Hai tông đồ hay 72 môn đệ, mà là mọi người thuộc mọi
dân nước. Hôm nay Hội Thánh có hai mẫu gương là thánh Ti-mô-thê và Ti-tô. Các
ngài được Chúa sai đi rao giảng Tin Mừng; và các ngài đã như “chiên con giữa bầy
sói” chịu nhiều đau khổ vì Tin Mừng ấy. Ti-mô-thê được thánh Phao-lô gửi đi
truyền giáo và bị bắt tại Rô-ma. Cũng là môn đệ thánh Phao-lô, thánh Ti-tô rất
hăng say trong việc tông đồ, kết hợp mật thiết với Đức Ki-tô, sống bác ái và
kiên nhẫn trong mọi hoàn cảnh dù gặp nhiều đau khổ. Cuộc đời và công cuộc truyền
giáo của hai ngài đã minh chứng sứ điệp Lời Chúa hôm nay: Nước
Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta, Nước của tình yêu và bình an, Nước của công lý
và sự thật.
Mời Bạn: Chúa cũng sai bạn làm chứng
nhân giữa đời. Bằng đời sống của bạn, một đời sống luôn bao dung tha thứ, biết
chia sẻ và cảm thông, tin tưởng và đạo đức, bạn hãy làm cho Tin Mừng mà bạn rao
giảng thực sự đáp ứng những khát khao sâu thẳm của con người hôm nay, đó là an
bình, niềm tin, hạnh phúc và yêu thương noi gương hai thánh Ti-mô-thê và Ti-tô.
Sống Lời Chúa: Hãy can đảm làm chứng cho
Chúa hằng ngày dù có đau khổ trăm bề: “Vì Thiên Chúa đã ban cho chúng ta một Thần
Khí khiến chúng ta được đầy sức mạnh, tình thương, và biết tự chủ” (2 Tm 1,7).
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su,
thế giới hôm nay đầy bạo lực, vô cảm giữa người với người. Xin ban cho con ơn
can đảm để con dám loan báo về tình yêu Chúa trong môi trường sinh sống, làm việc
của mình. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
Sai thợ ra gặt lúa (26.1.2018 – Thứ sáu: Thánh Timôthêô và Thánh Titô, giám mục)
Chúng ta phải tập trình bày sứ điệp Kitô giáo, nên cũng phải học nhiều nơi các tôn giáo Á Châu.
Suy niệm:
Dân số Châu Á chiếm gần
hai phần ba thế giới
nhưng số người nhận biết
Chúa chưa tới 3%.
Cánh đồng lúa chín mênh
mông đang cần thợ gặt.
Ðức Giêsu hôm nay vẫn có
nhiều nơi Ngài muốn đến,
nhiều căn nhà, nhiều
thành phố Ngài muốn đặt chân.
Ngài cần những người đi
trước để chuẩn bị cuộc gặp gỡ
giữa
Ngài với con người.
Khoa
học càng tiến bộ, cuộc sống càng văn minh
thì
càng có nhiều lãnh vực mới Ðức Giêsu cần vào.
Ðưa
Ngài vào thật là một thách đố cho chúng ta.
Ngài
phải vào cả những nơi tưởng như bị cấm.
Nhưng
nếu chúng ta được Ngài sai vào trước,
thì
thế nào cuối cùng Ngài cũng vào được.
Nếp
sống cao ở thành thị vừa gây cản trở,
vừa
cung ứng cho ta nhiều phương tiện để đưa Ngài vào.
Hãy
chuẩn bị cho Ngài vào thành phố của bạn,
vào
trường học, sân vận động, vào xí nghiệp, công ty...
Hãy
chuẩn bị để Ngài vào từng nhà, gặp từng người.
Mọi
Kitô hữu đều được mời gọi để làm việc đó.
Ðâu
là khuôn mặt của người được sai hôm xưa?
Hiền
lành như chiên giữa bầy sói.
Khó
nghèo thanh bạch, không túi tiền, giầy dép, bao bị.
Khiêm
tốn đón nhận sự giúp đỡ về nhà ở cơm ăn.
Tôn
trọng tự do tha nhân, chấp nhận bị từ chối.
Người
Châu Á hôm nay dễ đón nhận người tông đồ
sống
khổ hạnh, thoát tục, sống thư thái, trầm tư,
sống
nhân từ, phục vụ.
Cuộc
sống của họ phải tỏa hương thơm của thế giới mai sau,
phải
có khả năng nâng con người lên Ðấng Tuyệt Ðối.
Ðâu
là đóng góp của người được sai hôm xưa?
Vừa
chữa người đau yếu và trừ quỷ,
vừa
loan báo về triều đại Thiên Chúa gần đến.
Việc
làm chứng thực lời giảng, lời giảng soi sáng việc làm.
Cả
hai đều đem lại niềm vui, bình an và hạnh phúc.
Thế
giới hôm nay vẫn là một thế giới bệnh tật,
một
thế giới thèm khát tự do, thèm được là mình.
Chúng
ta sẽ rao giảng gì cho 97% dân Châu Á
mà
phần đông đã tin vào một Ðấng Cứu Ðộ?
Ðức
Giêsu đem đến cho nhân loại quà tặng đặc biệt nào?
Chúng
ta phải tập trình bày sứ điệp Kitô giáo,
nên
cũng phải học nhiều nơi các tôn giáo Á Châu.
Các
giám mục Malaysia, Singapore và Brunei
đã
liệt kê những gì có thể học được nơi họ.
Học
cầu nguyện, ăn chay, bố thí nơi người Hồi giáo.
Học
suy niệm và chiêm niệm nơi người Ấn giáo.
Học
từ bỏ của cải và trọng sự sống nơi người Phật tử.
Học
thái độ thảo hiếu, tôn lão kính trưởng nơi đạo Khổng.
Học
sự đơn sơ, khiêm tốn nơi người theo đạo Lão.
Càng
học, ta càng dễ giới thiệu Ðức Giêsu,
và
càng thấy Ngài đang ẩn mình nơi những tôn giáo khác.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin sai chúng con lên đường
nhẹ nhàng và thanh thoát,
không chút cậy dựa vào khả năng bản thân
hay vào những phương tiện trần thế.
Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm:
rao giảng Tin Mừng, trừ
quỷ,
chữa lành những người ốm
đau.
Xin cho chúng con biết
nói Tin Mừng với niềm vui,
như người tìm được viên
ngọc quý,
biết nói về Ngài như nói
về một người bạn thân.
Xin ban cho chúng con khả
năng
đẩy lui bóng tối của sự
dữ, bất công và sa đọa.
Xin giúp chúng con lau
khô những giọt lệ
của bao người đau khổ thể
xác tinh thần.
Lạy Chúa Giêsu,
thế giới thật bao la
mà vòng tay chúng con quá
nhỏ.
Xin dạy chúng con biết
nắm lấy tay nhau
mà tin tưởng lên đường,
nhẹ nhàng và thanh thoát.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
26 THÁNG GIÊNG
Nạn Thất nghiệp – Một
Tai Ương Xã Hội
Con người luôn luôn là
yếu tố quan trọng nhất trong mọi quá trình lao động, từ khởi sự cho đến hoàn
thành. Vì thế, trình độ văn minh của một dân tộc phản ảnh nơi chính thái độ của
họ đối với những người yếu kém trong xã hội, những người gặp khó khăn trong vấn
đề việc làm, những người phải đương đầu với tình trạng thiếu hay không có việc
làm. Thật vậy, một trong những bi kịch của thời đại chúng ta là tình trạng có
quá nhiều người thất nghiệp, nhất là những người trẻ. Chúng ta phải làm gì đây
trước tình hình này?
Cần phải nhận ra rằng
tình trạng ì do bắt buộc (nghĩa là muốn hoạt động nhưng không được hoạt động)
là một sự dữ . Nó tạo ra một sự ngưng trệ có chiều hướng làm tê liệt chính niềm
hy vọng của người ta. Những ước mơ và lý tưởng của người ta bị đe dọa, người ta
trở thành quờ quạng, lóng ngóng. Người trẻ, trong trường hợp này, nhận thấy
mình bị tước mất cơ hội xây dựng gia đình. Rồi, hậu quả xảy ra là những suy bại
khôn lường về đạo đức và tâm lý. Quả là một tình trạng đòi chúng ta phải dành
quan tâm một cách khẩn trương.
Tôi muốn nhắc đi nhắc
lại rằng “tình trạng thất nghiệp – trong bất luận trường hợp nào – cũng đều là
một sự dữ, và đến một mức nào đó, nó có thể trở thành một tai họa thực sự cho
xã hội” (Laborem exercens 8). Thất nghiệp là một ‘nạn dịch”. Dịch bệnh này phát
triển trong những cơ thể ốm yếu, suy nhược. Khi một xã hội cảm thấy mình đứng
trước sự đe dọa của nạn dịch này, xã hội ấy cần phải nghiêm túc xem lại ‘sức khỏe’
của mình.
Chúng ta cần sử dụng mọi
phương tiện để khảo sát và nghiên cứu vấn đề hệ trọng này – sao cho có thể tìm
ra một giải pháp. Chẳng hạn, khoa xã hội học và kinh tế học chắc chắn có thể
giúp ta hiểu rất nhiều về tình trạng thất nghiệp trong ánh sáng của những sự
thay đổi lớn lao về công nghệ – là điều đang dẫn tới những thay đổi về điều kiện
làm việc trong thời hiện đại của chúng ta.
Trong công cuộc tìm kiếm
những giải pháp, chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng con người là yếu tố thứ nhất
mà chúng ta phải quan tâm. Sự đóng góp của con người là – và mãi mãi vẫn là – yếu
tố cốt lõi cho sự tiến bộ đích thực. Không có một máy móc nào – dù tinh vi tới
đâu đi nữa – có thể thay thế cho trí tuệ của con người.
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 26/01
Thánh Timôthêô và
Titô, Giám mục
2Sm 11,
1-4.5-10.13-17; Mc 4, 26-34
LỜI SUY NIỆM: “Chuyện Nước
Thiên Chúa thì cũng giống như chuyện một người vãi hạt giống xuống đất. Đêm hay
ngày, người ấy ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, bằng cách
nào thì người ấy không biết.”
Khi Chúa Giêsu đưa ra
hình ảnh sự nảy mầm của hạt giống trong lòng đất, giúp cho mỗi người chúng ta
thấy được đối với Nước Trời luôn có sự sống liên tục, dưới con mắt của loài người
thì không thể nhìn thấy sự phát triển của Nước Trời, nhưng Nước Trời thì luôn sống
và luôn phát triển không ngừng cho đến một ngày nào đó con người sẽ nhận ra.
Lạy Chúa Giêsu. Chúng
con đang sống trong một xã hội có sự chen lấn của sự dữ. Xin cho chúng con được
đầy ơn lành của Chúa và vững tin vào ngày Nước Chúa sẽ hiển trị trên thế gian
này.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 26-01: Thánh
TIMÔTÊÔ Và TITÔ GIÁM MỤC
Thánh TIMÔTÊÔ (thế
kỷ I)
Là con của người cha
Hilạp và người mẹ Do thái, thánh TIMÔTÊÔ đã được theo đạo vào năm 47 khi thánh
Phaolô giảng đạo tại Lystra miền tiểu Á trong cuộc bách hại dữ dội khiến thánh
Phaolô bị mém đá đến gần chết (Cv 14,6-19) Trong cuộc viếng thăm lần thứ hai
vào năm 50 thánh Phaolô đã chọn Ngài như người bạn đồng hành thay thế cho Marcô
(Cv 13,13.15,38) và cùng với Silas lo việc truyền giáo tại Trung Á (Cv 16,1).
Như thế, Timotêô đã chứng
kiến việc rao giảng Tin Mừng đầu tiên cho Âu châu. Từ đó Ngài thường được sách
Công vụ các sứ đồ và các thánh thư nhắc đến như một trong các "tông đồ"
hay thừa phái thánh Phaolô giữ lại hoặc sai đi quan sát các cộng đoàn Kitô hữu đã
được thiết lập. Khoảng năm 51 Ngài cũng ký tên với thánh Phaolô trong các thư gửi
tín hữu Thessalonica và chính Ngài đã từ Côrintô mang thư đến cho cộng đoàn mới
trở lại đạo.
Năm 57 Ngài trở lại để
mang thư thứ hai gửi các tín hữu Côrintô và năm sau, Ngài lại cùng với thánh
Phaolô gửi thư chào Giáo hội Rôma. Cuối cùng khi Phaolô bị điệu về Roma,
Timoteo vẫn còn ở bên cạnh Ngài, ký tên vào các thư gửi đi vào khoảng năm 62
cho dân Philêmon, dân Côlosê và Philippe (Ph 2,20)
Năm 65 hình như Phaolô
được thả và có dịp thi hành dự định rao giảng Tin Mừng ở thế giới tây phương. Vắng
mặt ở miền Đông. Thánh Phaolô vãn liên kết với các cộng đoàn Kitô hữu, dầu
không lên kết với một cộng đoàn nào với tư cách giám mục cả. Timotêô thì ước hẹn
với Á Châu và đặt địa điểm ở Ephesô. Ở đây Ngài nhận được hai lá thư của
Phaolô, một lá thư từ Macêdonia khoảng năm 65 và lá thứ khác khoảng hai nămsau
gửi từ Roma, là nơi Phaolô bị giam lần thứ hai.
Chính nhờ những lá thư
này mà chúng ta biết được nhiều về Timotêô. Chúng thường đề cập đến nguy hiểm
mà các Giáo hội ở Á châu phải đương đầu, nhưng chúng cũng đưa ra ánh sáng tính
khí mà con người Phaolô đã để lại chống đỡ với nguy hiểm. Rõ ràng là có tính
nhút nhát, e dè, nhưng Ngài cũng đủ nhiệt tâm trong công việc, đến nỗi cần được
nhắc nhở phải quan tâm tới sức khỏe của mình. Ngài cũng biết rõ những đau khổ
phải chịu để bảo vệ đức tin (2Tm 3,12) và những lời khuyên thánh Phaolô lặp lại
không được gợi lên, bởi rằng Timotêô yếu đuối, nhưng đúng hơn vì biết rằng ngày
cùng của mình đã gần, và rồi những người trợ giúp mình sẽ phải kề vai vác lấy
gánh nặng một mình. Cuối cùng Phaolô chỉ còn biết nhắc đến ước nguyện của mình
là Timotêô hãy giữ "đạo lý", đức hạnh, dự định, lòng tin, đại lượng,
mến yêu, kiên nhẫn" (Tm 3,10) như Ngài đã học được. Phaolô gọi Timotêô đến
an ủi mình trong những giờ phút cuối cùng, lời gọi chứng tỏ hùng hồn rằng
Timotêô là con rất thân yêu của thánh Phaolô.
Tân ước còn có một ghi
chú nữa về Timotêô trong thư Philip.13,23 trong đó có ghi nhận rằng: Phaolô được
thả ra khỏi cảnh tù tội lần 2 khoảng năm 67 và tác giả muốn có Timotêô tháp
tùng về Giêrusalem.
Một truyền thống cho rằng
thánh Timotêô đã ở lại Ephêsô cho tới hết đời. Sách "Công vụ thánh
Timotêô" thế kỷ IV mô tả cái chết của Ngài như là bị ném đá và bị đánh đập
cho đến chết, nhưng tài liệu quá ít nên không rõ được rằng điều đó có đúng nguồn
hay không.
Constantinople cho rằng:
mình giữ được các di tích của thánh nhân và lễ kinh nhớ Ngài được cử hành này
26 tháng giêng, tiếp liền ngày kính nhớ thầy mình.
Thánh TITÔ (thế kỷ I)
Sinh ra là lương dân,
thánh Titô đã được thánh Phaolô cải hóa và được gọi là "người con chân
thành của tôi trong sự thông hiệp với đức tin". Titô nhận được những sứ mệnh
khó khăn. Ngài được thánh tông đồ gửi tới dân Côrintô để tổ chức giáo đoàn và
thu tiền quyên cúng ủng hộ Giáo hội ở Gierusalem.
Thánh Phaolô trong một
bức thư đã bộc lộ lòng yêu quý sâu xa đối với người bạn đời của mình: "Tâm
trí tôi không thảnh thơi chút nào vì xa cách bạn Titô đi Côrintô một lần nữa để
sửa chữa những bất hoà và thánh Titô đã mang lại cho Ngài những tin tức tốt đẹp
hơn.
Thánh Titô lãnh trách
nhiệm tổ chức giáo đoàn ở đảo Crêta. Ơ đó Ngài nhận thư mang danh mình, thánh
tông đồ truyền: "Hãy nói với các vị cao niên phải tiết độ đàng hoàng điềm
đạm, lành mạnh về đức tin, đức mến và kiên nhẫn... hạng thiếu niên cũng vậy,
hãy truyền dạy họ phải biết ở điềm đạm. Trong mọi sự anh em hãy tỏ ra là gương
mẫu về đức hạnh, tinh toàn và đoan trang trong giáo huấn (Tt 2,2-10).
Thánh Titô qua đời khoảng
năm 105.
(daminhvn.net)
26 Tháng Giêng
Quốc Khánh Của Australia
Hôm nay 26 tháng 01
là ngày quốc khánh của người Australia.
Ngày 26/01/1788, lá
cờ của nước Anh lần đầu tiên được cắm trên lãnh thổ của Australia, đánh dấu đợt
định cư đầu tiên của 730 người. 730 cựu tù nhân này đã được coi như là thủy tổ
của đa số người dân Australia này nay.
Ðối với chính phủ
Anh thời bấy giờ, việc lưu đày các tù nhân qua một vùng đất xa lạ là một biện
pháp giúp giải quyết vấn đề ứ đọng tại các nhà tù trong nước. Nhưng đối với 730
người lần đầu tiên của Australia này, thì đây là cơ hội để làm lại cuộc đời.
Dù muốn dù không, người dân Australia chính hiệu ngày nay không thể phủ nhận được
sự kiện là quốc gia của họ đẫ được lhai sinh do những con người mà xã hội muốn
xua đuổi cho rảnh tay.
Ngày nay, Australia
được xếp vào hạng những nước tiên tiến về mọi mặt. Nhưng có lẽ họ không thể
quên được công ơn xây dựng của cha ông họ, dù tông tích của họ có là một quá khứ
xấu xa đến đâu.
Câu chuyện lập quốc
của nước Australiacó thể giúp chúng ta hiểu được phần nào hai chữ Quan Phòng
trong Kitô giáo của chúng ta. Lời của thánh Phaolô là một xác quyết về sự quan
phòng ấy: nơi nào có tội lỗi càng nhiều, nơi đó Thiên Chúa càng ban ơn dồi dào.
Lịch sử của dân
Israel và lịch sử ơn cứu rỗi cũng cho chúng ta thấy một chuỗi những vấp ngã của
con người và một chuỗi những can thiệp kỳ diệu của Thiên Chúa. Mỗi lần con người
phạm tội là mỗi lần Thiên Chúa ban ơn như một khởi điểm cho một công trình mới tốt
đẹp hơn.
Hôm nay Giáo Hội kính
nhớ hai Thánh Timôtê và Titô, hai người con tinh thần và cộng sự viên gần gũi của
thánh Phaolô mà chúng ta tưởng niệm biến cố trở lại ngày hôm qua.
Cũng giống như Thánh
Phaolô, Timôtêmang hai dòng máu Hy Lạp và Do Thái. Do Thái xem Ngài như một đứa
con ngoại hôn. Nhưng cái tư thế bị ruồng rẫy đó đã khiến cho Timôtê trở thành gạch
nối giữa Tin Mừng và văn minh của những dân tộc ở ngoài Do Thái giáo. Trong 15
năm sát cánh bên cạnh Thánh Phaolô để phục vụ các cộng đoàn Ephêsô, Timôtê đã để
lại một mẫu gương hy sinh, nhẫn nhục và bác ái cao độ.
Cũng giống như Phaolô
và Timôtê, Titô cũng đến từ thế giới dân ngoại. Ngài cũng được Chúa sử dụng để
loan báo Tình Thương của Ngài cho mọi tạo vật.
Oân lại cuộc đời của
ba vị Thánh thuộc thế giới dân ngoại này, chúng ta thấy động tác lạ lùng của ơn
Chúa. Mọi người, dù thấp hèn đến đâu, cũng đều có một chỗ đứng trong chương
trình cứu rỗi của Chúa. Mọi người đều có thể là trung gian nhờ đó ơn Chúa được
thông ban cho người khác. Thế giới không được cứu rỗi nhờ những gì chúng ta
làm, mà nhờ những gì Thiên Chúa thực hiện qua cuộc sống của chúng ta.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét