Trang

Thứ Bảy, 20 tháng 1, 2018

21-01-2018 :(phần II) CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN năm B

21/01/2018
Chúa Nhật tuần 3 Thường Niên năm B
(phần II)


Phụng vụ Lời Chúa: Chúa Nhật Tuần 3 Thường Niên, năm B
CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN B

(Gn 3,1-5.10; 1Cr 7, 29-31; Mc 1,14-20)

ĐỨC GIÊSU ĐẾN KHAI MỞ TRIỀU ĐẠI MỚI

“Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần.
Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15)

I. CÁC BÀI ĐỌC

1. Bài đọc I (Gn 3,1-5.102)

Do thái giáo sau thời lưu đày bị giằng co giữa hai khuynh hướng: hòa giải, phổ quát và khép kín, loại trừ. Ta thấy sự đối nghịch này rất rõ giữa các sách như Ruth, Giôna, Tôbia với các sách khác Haggai, Dacaria, Ezra, Nêhêmya và Sử biên niên. Ezra và Nêhêmya đã cố gắng gìn giữ căn tính Do thái, chống lại mọi thứ pha trộn với dân ngoại, đặc biệt là với hôn nhân hỗn hợp (Et 9-10; Nkm 10,29-31).

Tuy nhiên, cũng không phải là không có chút nào tinh thần mở và phổ quát hơn để có thể nuôi dưỡng những truyền thống tổ phụ và ngôn sứ cổ xưa. Sách Ruth đã chống lại lệnh cấm hôn nhân hỗn hợp (R 1,4-19). Sách Giôna đã đi xa hơn với tinh thần phổ quát của mình, đã làm cho những người Assyria, vốn bị thù ghét vì đã phá hủy vương quốc Israel và bắt dân lưu đày, và còn là những con người luôn hãnh diện vì những tập tục chiến tranh hung tàn, đã có khả năng hoán cải từ sứ điệp của tiên tri Giôna.

Ở đây ta thấy có một biến chuyển rất hay trong sách Giôna: Giôna - Israel, từ thái độ khép kín, thù địch, xem mình là dân riêng, dân ưu tuyển, đã phải chuyển sang thái độ hòa giải, phổ quát và sẻ chia trong ơn gọi cộng tác và loan truyền sứ điệp yêu thương và ơn cứu rỗi của Thiên Chúa.

Giôna không chỉ là Israel, mà còn là hình ảnh của bất cứ ai xem Chúa như là công cụ hành hình và tru diệt mọi kẻ thù địch. Đó cũng là bóng dáng của những ai chỉ biết xem Chúa như là sở hữu riêng mình mà không là một người Cha chung luôn yêu thương hết mọi con cái mình.

2. Bài đọc II (1 Cr 7, 29-31)

Bài đọc II có lúc đã trở thành những câu nói đùa quen thuộc trên cửa miệng của nhiều người: “ai có… hãy sống như không có!” Vậy phải chăng thánh Phaolô muốn truyền tải một sứ điệp để hạ thấp những giá trị trần thế?

Thật ra thánh Phaolô chỉ muốn các tín hữu của mình xác định lại giá trị thật của thực tại trần thế, dĩ nhiên là quan trọng và cần thiết cho mỗi người chúng ta, nhưng chúng ta cần phải nhớ: đó không phải là cùng đích, là vĩnh cửu. Hôn nhân, gia đình, của cải vật chất… là những điều tốt đẹp, nhưng đó không phải là tất cả và có giá trị chung cuộc.

Thiên Chúa luôn yêu thương nhân loại và muốn cứu rỗi chúng ta. Đây là điều tối quan trọng. Tất cả những thứ khác đều mang tính tương đối; chỉ có tình yêu của Chúa mới là giá trị trường tồn. Vì thế, chúng ta cần phải đặt để mọi sự vào đúng vị trí của nó trong đời sống của mình.

3. Bài Tin Mừng (Mc 1,14-20)

Sau khi vương triều Israel sụp đổ trên đóng đổ nát hoang tàn, Israel trở về sau thời lưu đày và mơ về một triều đại Messia, trên nền tảng những lời hứa qua miệng các ngôn sứ về một vương quốc thái bình thịnh trị. Đó chính là vương quốc của Thiên Chúa và chính Người sẽ trị vì (x. Tl 8,23; Xh 15,18; Ed 20,33; Kb 21).

Rồi Đức Giêsu đến, xem như thời kỳ đợi chờ đã mãn, và chính Người khai mở một triều đại mới, một vương quốc mới, một thời kỳ thái bình và ân sủng như lời các ngôn sứ đã phán, với sứ điệp trọng tâm của vương quốc Người là Tin Mừng.

Thuật ngữ này, chúng ta hay nghĩ đến sách Tin Mừng, nhưng thời Chúa Giêsu chỉ có nghĩa là tin vui. Một chiến thắng binh mã, một cơn bệnh được chữa lành, một hoàng đế sinh hạ, một cuộc phong vương… tất cả là một tin vui.

Khởi đầu Tin Mừng Marcô, Đức Giêsu được trình bày như là một sứ giả với sứ mạng loan báo cho con người một tin mừng trọng đại, mang đến một niềm vui khôn tả cho những ai lắng nghe.

Ở đây có hai điều kiện để được cảm nghiệm điều này, đó là: sám hối và tin vào Tin Mừng.

Sám hối không có nghĩa đơn giản là bày tỏ ý định tránh tội này chừa tội kia, nhưng là một quyết định biến đổi tận căn trong thái độ với Chúa, với con người, với thế giới và với lịch sử này. Thông thường chúng ta quá nhấn mạnh đến khía cạnh luân lý mà coi nhẹ chiều kích đức tin hướng về Chúa: duy nơi Người là hình ảnh nhào nặn nên những suy nghĩ, hành động và thái độ của chúng ta.

Não trạng về một Thiên Chúa vốn có sẵn trong truyền thống của chúng ta như là một công cụ giáng phạt như ta thấy thấp thoáng trong lời của Gioan Tẩy Giả: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy?” Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối” (Mt 3,7.8), hay trong Luca: “cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa” (Lc 3,9), thì Marcô đã để ra một khoảng trống cho chúng ta hiểu về Tin Mừng này: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần” (Mc 1,15). Ở đây không có khái niệm về giáng phạt hay cơn thịnh nộ, nhưng là niềm vui và hy vọng cho tất cả mọi người.

Như thế, chúng ta được mời gọi hướng đến một Vương quốc mới, nơi mà vị Thiên Chúa như người Cha nhân lành, luôn hết mực yêu thương và chăm sóc con cái mình. Vì thế, hoán cải là trở về cách nhìn đúng nghĩa về Thiên Chúa. Đức Giêsu đã làm một cuộc cách mạng, đó là thay đổi lại cái nhìn tiêu cực về Thiên Chúa, đặt nền móng trên nền tảng yêu thương và giao hòa.

Tiếp đến là tin, không chỉ đơn giản là chấp nhận một mớ giáo điều, nhưng còn là bước theo Đức Kitô, với niềm xác tín và hy vọng về một thực tại tối hậu, dĩ nhiên cùng với những dứt bỏ con người cũ của mình. Vì thế, tin là tín thác vào Chúa và vào Lời của Người.

Phần hai của đoạn Tin Mừng hôm nay (16-20) trình bày việc Đức Giêsu gọi bốn vị môn đệ đầu tiên. Khác với các trình thuật kêu gọi khác, ở đây Marcô không nhắm trình bày chi tiết về những gì xảy ra, nhưng là một kinh nghiệm khuôn mẫu cho bất cứ ai trong khoảnh khắc đời mình, cảm nhận được lời mời gọi của Chúa. Lời mời gọi này không chỉ dành riêng cho ơn gọi làm linh mục hay tu sĩ, nhưng là cho mỗi người chúng ta muốn trở nên môn đệ của Người.

Điểm riêng của lời kêu gọi nơi Marcô không như là một cuộc hẹn trước, nhưng có thể chỉ là một cuộc gặp bất chợt, tình cờ, và đòi hỏi thái độ đáp trả dứt khoát. Lời kêu gọi này cũng mang tính nhưng không, là ân sủng, trên nền tảng không phải là xứng đáng, nhưng là do bởi lòng yêu thương của Chúa. Vì thế, những ai đã được gọi và đáp trả, không có nghĩa là có quyền tự hào về mình và phân biệt với những người chưa được đón nhận, trái lại, được mời gọi quảng đại sẻ chia, nhất là tình yêu và ơn cứu rỗi của Thiên Chúa.

II. GỢI Ý SUY NIỆM

1. Chúa Giêsu đến khai mở triều đại mới, triều đại của một tình yêu phổ quát, không loại trừ ai. Từ kinh nghiệm của Giôna, tôi được mời gọi nhìn lại những “nén bạc” ân ban của đời mình, để thấy được rằng Chúa đã yêu tôi dường nào, ngay cả khi tôi chìm sâu trong vũng lầy của tội lỗi. Có bao giờ tôi đã ‘kể lại’ những kinh nghiệm ấy cho những người sống quanh tôi để họ cũng cảm nghiệm được Chúa là Cha nhân hiền trong đời họ?

2. Chúa Giêsu đến khai mở triều đại mới, với những giá trị tốt đẹp và trường tồn hướng về quê hương đích thực trên trời. Từ lời khuyên của Thánh Phaolô, tôi được mời gọi nhìn lại những kế hoạch của đời mình, và tự hỏi tôi đã chọn những ưu tiên cho những giá trị Nước Trời?

3. Chúa Giêsu đến khai mở triều đại mới, với sứ điệp trọng tâm là Tin Mừng. Từ lời mời gọi “sám hối”, “tin vào Tin Mừng”, và “theo” Người, tôi có sẵn sàng đáp trả bằng chính đời sống của mình, trở nên môn đệ của Đức Giêsu, và quảng đại cộng tác vào những “mẻ lưới ” yêu thương của Người?

III. LỜI NGUYỆN CHUNG

Chủ tế: Anh chị em thân mến! Thiên Chúa Cha đã sai Con của Người đến trần gian để khai mở Triều Đại Nước Thiên Chúa. “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” là lời mời gọi dành cho tất cả những ai muốn trở thành công dân Nước Trời. Cộng đoàn chúng ta hãy cảm tạ Chúa, và tin tưởng dâng lời cầu xin:

1. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Đức Tổng Giám Mục Phaolô, Đức Hồng Y Gioan Baotixita, hai Đức cha phụ tá, cùng toàn thể hàng Giám Mục trong Hội Thánh, luôn trung thành và hăng say trong sứ vụ mở mang Nước Chúa.

2. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các quốc gia trên thế giới biết vượt qua những khác biệt và xung đột về văn hóa, sắc tộc hay tôn giáo, để tích cực cộng tác với nhau trong việc gìn giữ và kiến tạo hòa bình, cùng phát triển nền văn minh nhân loại.

3. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho công cuộc đối thoại đại kết giữa các giáo hội Kitô giáo gặp nhiều thuận lợi, xóa dần những ngăn cách trong giáo thuyết hay rào cản do thực hành, để mọi tín hữu được hợp nhất trong cùng một đức tin và một Thánh Thần.

4. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người đang hiện diện trong cộng đoàn phụng vụ hôm nay biết quảng đại đáp lại lời mời gọi của Chúa, không ngừng hoán cải bản thân và canh tân đời sống cho phù hợp với những đòi hỏi của Nước Trời.

Chủ tế: Lạy Chúa là Cha rất nhân từ, xin thương chúc lành cho những ý nguyện chân thành của chúng con, và giúp chúng con biết sống trọn vẹn ơn gọi của mình qua những bổn phận hằng ngày. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.


SCĐ CHÚA NHỰT III TN B

Chủ đề :

TIẾP TỤC CHỦ ĐỀ CHÚA KÊU GỌI

"Các anh hãy theo tôi"  (Mc 1,17)

Sợi chỉ đỏ :

- Bài đọc I (Gn 3,1-5.10) : Chúa kêu gọi ngôn sứ Giona đến thành Ninivê rao giảng sự sám hối.

- Tin Mừng (Mc 1,14-20) : Bài tường thuật của Thánh Mác cô về việc Đức Giêsu kêu gọi 4 môn đệ đầu tiên.

- Bài đọc II (1 Cr 7,29-31) : Mọi giá trị trần gian đều không bền, vậy hãy xử dụng những của cải thế gian với một tấm lòng không dính bén.

I. Dẫn vào Thánh  lễ

Anh chị em thân mến

Lời Chúa hôm Chúa nhật vừa qua nói về ơn kêu gọi. Lời Chúa hôm nay tiếp tục đề tài đó. Thật ra không phải chỉ những kẻ đi tu mới được Chúa kêu gọi, mà tất cả mọi tín hữu đều được Chúa kêu gọi, mỗi người một sứ mạng theo đấng bậc của mình.

Xin Chúa cho mỗi người chúng ta ý thức ơn gọi và sứ mạng của mình.

II. Gợi ý sám hối

- Lời đầu tiên của Đức Giêsu khi bắt đầu rao giảng là "Hãy sám hối". Chúng ta hãy ý thức thân phận tội lỗi của mình và sám hối quay về với Chúa.

- Đức Giêsu còn kêu gọi chúng ta "Hãy tin vào Tin Mừng". Trên thực tế, chúng ta chưa siêng năng đọc Tin Mừng và sống theo Tin Mừng bao nhiêu.

- Nhiều lần Chúa kêu gọi chúng ta làm việc tông đồ, phục vụ Giáo Hội. Nhưng chúng ta cứ giả điếc làm ngơ.

III. Lời Chúa

1. Bài đọc I (Gn 3,1-5.10)

Trong lịch sử, Ninivê là thủ đô của Đế quốc Assyria, kẻ thù đã nhiều lần tấn công dân do thái. Vì vậy, trong đầu óc người do thái, Ninivê luôn là một thành phố xấu xa, tội lỗi và đáng bị trừng phạt.

Chính vì thế, khi Thiên Chúa gọi ngôn sứ Giona đi Ninivê rao giảng sự sám hối để được thứ tha, Giona rất khó chịu. Ông cũng đi nhưng cố tình đi lạc đến một nơi khác. Nhưng làm sao mà con người có thể đánh lừa được Thiên Chúa. Thiên Chúa cho tàu chở Giona bị bão, thuỷ thủ quăng ông xuống biển. Một con cá lớn nuốt ông vào bụng rồi nhả ông lên bờ biển Ninivê. Cuối cùng Giona chỉ còn đành theo lệnh Chúa vào thành rao giảng. Kết quả là dân thành đã ăn năn sám hối và được Chúa thứ tha.

Câu chuyện này đề cập - một cách phản diện - đến ơn gọi và sứ mệnh của kẻ được gọi : Chúa gọi ai không phải để người đó làm theo ý mình, mà làm theo ý Chúa cho dù ý Chúa rất trái ngược với ý riêng mình ; người được gọi có thể rất bất xứng, như Giona, nhưng đó là một dụng cụ Chúa dùng, và Chúa biết cách dùng để dụng cụ ấy sinh ra hiệu quả.

2. Đáp ca (Tv 24)

Đây là lời van lơn của người tội lỗi, xin Chúa chỉ đường mở lối cho họ theo. Lời van xin này có thể đặt vào miệng dân thành Ninivê tội lỗi, và dĩ nhiên cũng có thể đặt vào môi miệng của chúng ta.

3. Tin Mừng (Mc 1,14-20)

Bài Tin Mừng ngắn này gồm hai phần :

- Các câu 14-15 : Đức Giêsu bắt đầu sứ mạng rao giảng Tin Mừng. Ngài chọn nơi xuất phát là vùng đất Galilê đa số là lương dân. Nội dung rao giảng chính của Ngài là "Thời giờ đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần đến. Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng".

- Các câu 16-20 : Đức Giêsu kêu gọi 4 môn đệ đầu tiên là hai cặp anh em Simon và Anrê, Giacôbê và Gioan. Những điểm đáng lưu ý là : a/ Ơn gọi phát xuất từ sáng kiến của Đức Giêsu (chính Ngài gọi 4 người ấy chứ không phải họ xin đi theo Ngài) ; b/ Ngài gọi họ ngay trong môi trường làm việc của họ (bên bờ biển), trong lúc họ đang làm việc bình thường (vá lưới) ; c/ Đáp lại, người được gọi phải từ bỏ tất cả để theo Ngài.

4. Bài đọc II (1 Cr 7,29-31)

Thánh Phaolô giúp các tín hữu suy nghĩ về giá trị của những thực tại trần thế : hạnh phúc gia đình, những niềm vui nỗi buồn, những của cái vật chất… So với Nước Trời, tất cả những thứ kể trên đều chỉ là những thứ chóng qua chứ không bền vững. Vì thế Thánh nhân kêu gọi : "ai có vợ hãy ăn ở như không có, người than khóc hãy ăn ở như không than khóc, kẻ hân hoan hãy ăn ở như không hân hoan, người mua sắm hãy ăn ở như không có gì".

Thật là những lời rất lạ lùng và khó hiểu. Nhưng đó là chân lý. Và chỉ những ai ý thức được chân lý này mới có thể từ bỏ tất cả để đáp lại tiếng Chúa kêu gọi.

IV. Gợi ý giảng

* 1. Tiếng Chúa kêu gọi

Phụng vụ hôm nay có một chủ đề chính, đó là "Tiếng Chúa kêu gọi". Bài Cựu Ước nói về việc Chúa gọi tiên tri Giona đi rao giảng lòng sám hối cho dân Thành Ninivê. Bài Trích thư gởi giáo dân Côrintô nói về sự cấp bách phải đáp lại tiếng Chúa gọi mà hoán cải đời sống. Còn bài Tin Mừng thì nói về việc Chúa gọi  4 Tông đồ đầu tiên là Anrê, Phêrô, Giacôbê và Gioan.

Người thường hiểu "tiếng Chúa kêu gọi" theo nghĩa hẹp, đó là Chúa gọi một người nào đó từ bỏ thế gian đi tu làm việc tông đồ cho Chúa trong cương vị của một Linh mục, hay một Tu sĩ. Hiểu rộng thêm một chút thì "Tiếng Chúa kêu gọi" cũng có thể là ý Chúa có liên quan đến cuộc sống của mình, hoặc là đi tu, hoặc có gia đình. Nhưng hiểu như thế vẫn còn hẹp nghĩa lắm. Không phải là Chúa chỉ gọi chúng ta đi tu hoặc có gia đình, mà tiếng Chúa còn vang lên kêu gọi chúng ta rất nhiều lần trong cuộc đời.

Mặc dù Chúa vô hình nhưng Chúa vẫn nói chuyện với chúng ta bằng nhiều cách thức khác nhau : Thời Cựu Ước Chúa nói với loài người qua trung gian các ngôn sứ. Trong 33 năm Đức Giêsu sống ở trần gian, Chúa trực tiếp nói chuyện với loài người bằng miệng bằng lưỡi, như Chúa đã kêu gọi 4 tông đồ trong bài Tin Mừng hôm nay. Còn ngày nay, Chúa vẫn nói, vẫn gọi chúng ta bằng nhiều cách thức :

. Có khi là trong một lần chúng ta sốt sắng cầu nguyện.

. Có khi trong lúc ta đọc một đoạn Tin Mừng, nghe một bài giảng.

. Và rất nhiều khi Chúa nói với ta qua những biến cố cuộc đời, nhất là những biến cố buồn, như bệnh tật, thất bại, khổ sở, không được vừa ý.

Chúa vẫn còn nói, còn gọi. Nhưng có người thì nghe, có người thì không nghe ; có người làm theo, có người bỏ qua.

Và khi chúng ta đã được nghe tiếng Chúa, đã được biết Chúa muốn mình phải làm gì, thì chúng ta hãy lập tức không chần chừ đáp lại và làm theo tiếng Chúa kêu gọi, như gương 4 tông đồ trong bài Tin Mừng hôm nay.

* 2. Câu chuyện chàng trị trưởng trẻ

Tin tức trên báo chí (theo VietCatholic News ngày 22/9/2000) về chàng thị trưởng đẹp trai của thành phố Ficarra, mới 34 tuổi, đã lặng lẽ từ nhiệm để đi tu, đã gây chấn động toàn nước Ý. Hôm 20/09/2000, Antonio Mancuso đã chính thức đến trình diện tại một dòng tu ở Milan, bắt đầu cuộc đời một tu sĩ. Antonio cho biết anh đã thấy mình có ơn gọi linh mục từ ngày còn là cậu bé giúp lễ, đã suy nghĩ trong bao năm về vấn đề này và trằn trọc rất nhiều sau khi theo dõi các bài thuyết giảng của Đức Thánh Cha trong Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới Lần Thứ 15. Antonio bỏ lại sau mình chức vụ thị trưởng, căn nhà do cha anh để lại, một mẹ già, hai anh em, và thành phố Ficarra xinh đẹp với 2.000 cư dân dưới quyền. Quyền thị trưởng Franco Tumeo đã xác nhận quyết định của Antonio với thông tấn xã ANSA. Ông nói : "Quyết định mà thị trưởng chúng ta đã chọn cần phải được hoàn toàn tôn trọng và hy vọng rằng không ai lợi dụng chuyện đó. Chẳng cần phải nói, chúng ta cầu chúc cho Antonio Mancuso những điều tốt đẹp nhất với xác tín rằng quyết định của anh là hoa trái của những suy nghĩ trong nhiều năm qua". Quyết định từ nhiệm của anh sẽ khiến cho thành phố Ficarra phải bầu cử lại sớm hơn, có lẽ vào tháng 6/2001. Tạm thời một ủy ban đặc biệt sẽ thay thế công việc của nguyên thị trưởng. Với bằng chính trị học ưu hạng, Antonio đang là một ngôi sao sáng chói của đảng Dân Chủ Thiên Chúa giáo Ý. Anh đã là thị trưởng trẻ nhất của quốc gia này, lúc mới 27 tuổi, từ 1992 đến cuối tháng 9 vừa qua. Ngày 14/09/2000, một tháng kể từ Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới Lần Thứ 15, sau nhiều đêm không ngủ, Antonio đã từ giã tòa thị trưởng chẳng nói với ai một lời nào. Thư từ nhiệm đã được gởi đến văn phòng 2 ngày sau đó qua đường bưu điện.

* 3. Chúa cần đến con người

Thiên Chúa là Đấng quyền phép vô cùng, cho nên muốn làm bất cứ điều gì thì Ngài cũng làm được, làm cách dễ dàng, làm cách nhanh gọn, không cần vật liệu và cũng không cần ai giúp đỡ. Việc dựng nên trời đất muôn vật đã chứng mình điều này.

Tuy nhiên, trong việc cứu độ thì Ngài lại cần đến con người : Lịch sử cứu độ thời Cựu Ước bắt đầu bằng việc Thiên Chúa kêu gọi ông Abraham ; lịch sử cứu độ thời Tân Ước, như bài Tin Mừng hôm nay tường thuật, bắt đầu bằng việc Chúa kêu gọi 4 môn đệ đầu tiên.

Thánh Augustinô đã suy gẫm và rút ra kết luận : "Khi tạo dựng con, Chúa không cần hỏi ý con. Khi muốn thánh hóa con, Chúa cần con góp sức con".

Công trình tạo dựng của Chúa đã hoàn tất. Nhưng công trình cứu độ vẫn còn phải tiếp tục, vì ngày nay còn rất nhiều người chưa được cứu độ. Như thế, Chúa vẫn còn cần con người. Vì vậy Chúa tiếp tục kêu gọi, và cần có những người đáp lại lời kêu gọi đó để công tác vào công cuộc cứu độ của Chúa.

Công trình cứu độ những người trong nước tôi, trong xóm tôi cũng còn phải tiếp tục. Nếu không có ai đáp lại lời kêu gọi của Chúa thì công trình ấy phải đình trệ.

4. "Hãy sám hối"

Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ bằng lời kêu gọi "Hãy sám hối". Lời này được gửi đến ai ? Dĩ nhiên là gửi đến những người tội lỗi trước tiên. Nhưng cũng gửi đến tất cả mọi người nữa, kể cả những người tốt lành.

Nhìn lại cuộc đời Đức Giêsu, chúng ta thấy Ngài gặp rắc rối với người tội lỗi thì ít nhưng với người tốt lành thì nhiều hơn. Tại sao vậy ? Thưa vì kêu gọi người tội lỗi sám hối thì dễ, vì họ biết mình tội lỗi ; còn kêu người tốt lành sám hối thì rất khó, bởi họ không thấy có gì cần sám hối. Cũng như bảo một người bệnh đi bác sĩ thì dễ hơn bảo một người nghĩ rằng mình không có bệnh.

Bởi thế, để đáp lại lời kêu gọi sám hối thì trước hết ta phải thấy không hài lòng với chính mình và kế đó phải mong muốn cho mình được tốt hơn. Phải ý thức có một cái gì đó sai lạc hoặc ít ra là còn thiếu. Cảm nghiệm sám hối bắt đầu với sự nhận biết rằng mình chưa là điều mình phải là.

Tiếp đến, sám hối còn đòi phải có can đảm : can đảm không tự lừa dối mình nữa, và can đảm đối diện với thực tại phũ phàng của bản thân mình. Can đảm chấp nhận tội lỗi của mình và can đảm thay đổi. Sự can đảm nấy rất cần thiết, bởi vì con người thường thích đi trên những đường xưa lối cũ, con người thường đã lún sâu trong những thói quen đã ăn sâu, cho nên thay đổi rất là khó.

Có người cũng thấy một tương lai tốt lành hơn nhưng không thể thay đổi chính mình để đi đến tương lai đó, bởi vì con đường phía trước thì dài và tiến bộ thì rất chậm chạp khó khăn. Đó là lý do tại sao nhiều người thà tiếp tục sống như cũ.

Có người xem sám hối là một việc cực nhọc, tiêu cực và buồn thảm, bởi vì họ nghĩ rằng sám hối chỉ là cảm thấy mình tội lỗi và cố gắng làm việc đền tội. Thực ra sám hối là việc rất tích cực : đành rằng một mặt phải ý thức mình tội lỗi, nhưng mặt khác người sám hối cũng ý thức mình có khả năng làm điều tốt. Như thế, sám hối là có một cái nhìn mới, tiến bước theo một hướng mới, đặt cho đời mình những mục tiêu mới. Nếu hiểu được như thế thì sám hối trở thành một sức mạnh khuyến khích và luôn dẫn chúng ta tới niềm vui. (Viết theo Flor McCarthy)

5. Sống và chia sẻ niềm tin

Đức Tổng Giám mục Helder Camara của Braxin có lần đã chia sẻ kinh nghiệm như sau :

Tôi có người anh lớn hơn tôi 5 tuổi, đã rửa tội từ lúc mới sinh, và từng theo học nhiều năm trong trường dòng. Nhưng lớn lên anh bắt đầu bê trễ, bỏ đọc kinh, bỏ dự lễ, và cuối cùng bỏ… đạo.

Sau khi tôi thụ phong linh mục, anh cùng với tôi sống chung với người chị độc thân. Mỗi lần biết tôi sắp đi giảng tĩnh tâm, anh lại hỏi :

- Hôm nay chú nói về đề tài gì ?

Tôi lại có dịp giải thích cho anh những điều mình sắp giảng. Anh chỉ lắng nghe, không bình luận.

Tám năm sau, anh bị mắc căn bệnh hiểm nghèo. Biết mình sắp chết, anh gọi tôi lại và nói :

- Lâu nay tôi để ý quan sát, thấy không có sự cách biệt giữa lời chú giảng và việc chú làm. Vậy xin hỏi chú, tôi có thể dựa vào Đức tin của Chúa để rước lễ không ?

Tôi trả lời :

- Em tin là Chúa lòng lành vô cùng sẽ đoái thương anh.

Bấy giờ anh tôi nói trong nỗi xúc động :

- Ngay bây giờ thì chưa được đâu, vì tôi chưa xưng tội.

Tôi định tìm cho anh một linh mục khác nhưng anh đòi xưng tội với tôi. Sau khi rước lễ xong, anh thều thào trong nước mắt.

- Tôi tin, tôi tin, chú ạ. Bây giờ tôi tin không phải dựa vào đức tin của chú, mà tôi thực sự xác tín rằng Chúa yêu thương tôi !

Ít phút sau đó anh đã ra đi trong bình an, thanh thản.

*

Sống và chia sẻ niềm tin, đó là cốt lõi đời sống người tín hữu Kitô. Đó cũng là mối quan tâm hàng đầu của Đức Giêsu khi Người bước vào đời công khai rao giảng : "Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ chài lưới người" (Mc.1,17).

Muốn thu hút tha nhân thì chính mình phải có năng lực hấp dẫn.

Muốn hòa hợp với anh em thì chính mình phải biết chấp nhận mọi người.

Muốn chia sẻ niềm tin thì chính mình phải có niềm tin kiên vững.

Sống và chia sẻ niềm tin, bao giờ cũng đem lại kết quả tốt đẹp. Nhưng kết quả thế nào, nhiều hay ít, vào lúc nào còn do Chúa quyết định. Khi Đức Giêsu bảo Phêrô thả lưới, ông đã thưa : "Lạy Thầy, chúng con vất vả suốt đêm mà chẳng được con cá nào, nhưng vâng lời Thầy, con xin thả lưới" (Lc.5,5). Kết quả thế nào chúng ta đã biết : cũng chiếc lưới đó, cũng ngư phủ đó, nhưng lại kéo lên một mẻ cá bội thu.

 Sống và chia sẻ niềm tin, là nhiệm vụ của mỗi người tín hữu Kitô. Nhưng trước tiên phải bắt đầu bằng việc đổi mới tâm hồn, bằng việc "Sám hối và tin vào Tin mừng".

Sống và chia sẻ niềm tin, là đem tin vui đến cho mọi người. Nhưng trước hết tin vui ấy phải là niềm hân hoan đích thực, gây xúc động mãnh liệt trong lòng người đi loan báo.

Romano Guardini đã ví von : "Sống niềm tin nghĩa là đơn phương nhường chỗ cho Đức Kitô tự biểu lộ và lớn lên trong cuộc sống chúng ta".

*

Lạy Chúa, theo Chúa không phải dễ dàng vì Chúa đòi chúng con phải từ bỏ mọi sự, từ bỏ luôn mãi, và từ bỏ chính mình. Nhưng có Chúa cùng đồng hành chúng con vẫn sáng mãi niềm tin. Xin giúp chúng con luôn trung thành theo Chúa cho đến giây phút cuối cuộc đời. Amen.(Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")

6. Một câu hỏi bất ngờ

Chuyện này kể về một vị rabbi thánh thiện. Trong tỉnh của ông, những nhà giàu ở một vùng biệt lập nên phải thuê người canh gác ban đêm.

Một đêm kia vị rabbi trên đường về nhà thì gặp một người gác dan đang đi tới đi lui. Vị rabbi hỏi : "Anh đang làm việc cho ai vậy ?" Người gác dan không trả lời mà hỏi lại : "Thế ông đang làm cho ai vậy ?" Câu hỏi quá bất ngờ, xưa nay vị rabbi chưa hề nghĩ đến. Vì thế ông bối rối đáp "Tôi không làm việc cho ai cả". Nhưng trả lời xong ông còn bối rối thêm. Thế là hai người cứ im lặng đi tới đi lui bên nhau. Một lúc sau, vị Rabbi hỏi người gác dan : "Anh có muốn làm việc cho to không ?". Người gác dan cũng đáp lại bằng một câu hỏi : "Nhưng ông mướn tôi để làm gì ?" Vị rabbi trả lời : "Để thỉnh thoảng ông lại hỏi tôi câu hồi này : "Ông đang làm việc cho ai vậy ?".

Đó cũng là câu chúng ta phải thỉnh thoảng hỏi chính mình : "Tôi đang làm việc cho ai vậy ?" (Flor McCarthy)

V. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế : Anh chị em thân mến, ăn năn sám hối và tin vào Tin mừng là những việc mà người Kitô hữu chúng ta phải thực hiện suốt đời. Chúng ta hãy sốt sắng xin Chúa giúp chúng ta.

1. Hội thánh còn đang hành trình trên trần gian thì còn có nhiều gương xấu / Xin cho những người đang làm gương xấu trong Hội thánh biết ăn năn sám hối.

2. Nhìn trong thế giới và trong xã hội chúng ta hôm nay / có nhiều người xấu và việc xấu / Xin cho họ biết nhận ra những hậu quả tai hại của các việc xấu họ làm / để họ thật lòng ăn năn sám hối

3. Có nhiều người đang là nạn nhân của những người xấu và việc xấu / xin cho họ biết tin tưởng ở Tin mừng để được nâng đỡ và ủi an.

4. Chính trong cộng đồng giáo xứ của chúng ta, còn nhiều người làm những việc xấu / Xin cho họ biết ăn năn sám hối và trở về với Tin mừng của Chúa.

Chủ tế  : Lạy Chúa là Cha hay thương xót, Chúa đã đánh động cả một thành lớn để họ ăn năn hối cải, xin Chúa cũng đánh động mỗi người chúng con để chúng con biết thật lòng sám hối. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô...

VI. Trong Thánh lễ

- Trước kinh Lạy Cha : Hợp lòng hợp ý với tất cả những người được Chúa kêu gọi, chúng ta hãy dâng lên Thiên Chúa là Cha chúng ta lời kinh Lạy Cha.

- Sau kinh Lạy Cha : "Lạy Cha xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin giúp chúng con lắng nghe những tiếng gọi của Cha, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an…"

VII. Giải tán

Chúa kêu gọi mỗi người chúng ta làm tông đồ của Chúa giữa trần gian. Cũng như Giona, cũng như Simon và Anrê, Giacôbê và Gioan, chúng ta hãy hăng hái vào đời thi hành nhiệm vụ Chúa giao.

Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI


Lectio Divina: Chúa Nhật III Thường Niên (B)

Chủ Nhật 21 Tháng Một, 2018
Chúa Giêsu khai mạc sứ vụ và kêu gọi các môn đệ đầu tiên

Mc 1:14-20


1.  Lời nguyện mở đầu

Lạy Đấng Tối Cao, là Chúa Cả trời đất,

Đấng đã biến đời sống mong manh của chúng con thành đá tảng đền thờ Chúa ngự.

Xin hãy hướng dẫn tâm trí chúng con biết gõ vào những phiến đá trong sa mạc,

để cho nước có thể chảy ra hầu làm dịu cơn khát của chúng con.

Nguyện xin cho sự nghèo nàn về cảm xúc của chúng con che phủ chúng con như tấm áo choàng trong bóng tối của đêm đen.

Và xin Chúa hãy mở lòng trí chúng con để chúng con có thể nghe được tiếng vang vọng của sự im lặng,

Để cho bình minh ấp ủ chúng con trong ánh sáng của một ngày mới,

Xin hãy hướng dẫn chúng con thưởng thức kỷ niệm thánh,

Với than hồng từ lửa của những đấng chăn chiên Tuyệt Đối

Là những người canh thức cho chúng con được gần với Thầy Chí Thánh,

2.  Bài Đọc

14 Sau khi Gioan bị bắt, Chúa Giêsu sang xứ Galilêa, rao giảng Tin Mừng của nước Thiên Chúa. 15 Người nói:  “Thời giờ đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần đến.  Anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng.”

16 Đang lúc đi dọc theo bờ biển Galilêa, Người thấy Simon và em là Anrê đang thả lưới xuống biển – vì các ông là những người đánh cá.  17 Chúa Giêsu bảo các ông:  “Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ chài lưới người.”  18 Lập tức bỏ lưới, các ông theo Người.  19 Đi xa hơn một chút nữa, Người thấy Giacôbê, con ông Giêbêđê, và em là Gioan đang xếp lưới trong thuyền.  20 Người liền gọi các ông.  Hai ông bỏ cha là Giêbêđê ở lại trên thuyền cùng với các người làm công, và đi theo Người.

3.  Giây phút thinh lặng cầu nguyện

Hãy để cho Lời Chúa vang vọng ở trong lòng chúng ta.

4.  Suy Gẫm Một vài câu hỏi gợi ý để giúp chúng ta trong việc suy gẫm và cầu nguyện:

a) Thời giờ đã mãn, nước Thiên Chúa đã gần kề: chúng ta có tin rằng chúng ta đang ở xứ Galilêa và Tin Mừng của Thiên Chúa đang được rao giảng cho chúng ta không?

b) Chúa Giêsu đang đi theo bờ biển: chúng ta đang thả lưới ở trong biển nào đây?

c) Hãy theo Ta… và lập tức các ông đi theo Người: có điều gì khẩn cấp trong đời sống hằng ngày của chúng ta không hay là chúng ta lại tiếp tục nói:  xin chờ một lát đã?

d) Trong thuyền của các ông, các ông đang vá lưới: trong lưới của chúng ta có mấy chỗ rách vậy?  Chúng ta đang ở trong chiếc thuyền nào đây?  Đó có phải là thuyền của chúng ta hay đó chỉ là gốc rễ quá khứ của chúng ta thôi?

e) Chúa đã gọi các ông: tên của chúng ta thì trên bờ môi của Đức Giêsu, Chúa chúng ta.  Liệu tiếng của Người có vang vọng như tiếng của ai đó đang đưa chúng ta ra khỏi vùng biển của chúng ta không?

5.  Chìa khóa dẫn đến bài Tin Mừng

Dành cho những ai muốn đào sâu vào trong văn bản.

Ở đây chúng ta có một thể loại văn học của các câu chuyện ơn gọi nơi điều kiện đời sống của người được Thiên Chúa nói với thì được mô tả trước, rồi sau đó lời gọi được diễn tả trong những chữ hoặc hành động, và cuối cùng là đến những lời có liên quan đến việc từ bỏ các hoạt đông đã được mô tả đầu tiên.  Lời gọi trong đoạn Tin Mừng nhắc nhớ chúng ta về lời gọi Êlisa bởi ngôn sứ Êlia (1 V 19:19-21) và của tiên tri Amốt (Am 7:15).  Sự phụ thuộc vào một mô hình kinh thánh điển hình không loại trừ sự  thự c lịch sử quan trọng của câu chuyện Tin Mừng.  Sự tương đồng của những cuộc gọi nhấn mạnh đến ý nghĩa rõ ràng về thần học trong Tin Mừng theo thánh Máccô, đó là, việc thực   hành rao giảng của các môn đệ, những người sẽ được sai đi từng hai người một (Mc 6:7).  Tính năng động của Vương Quốc Thiên Chúa phù hợp với dự án ban đầu của chương trình tạo dựng khi Chúa, nghĩ về ông Adong, đã nói:  “Con người ở một mình thì không tốt.  Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó” (St 2:18).  Trong sứ vụ rao giảng của các ông, người này sẽ làm chứng cho người kia, như Kinh Thánh đã nói:  “… căn cứ vào lời chứng của hai hay ba người chứng thì cần thiết” (xem Mt 18:16; Đnl 19:15).     

Câu 14:  Chúa Giêsu đi sang xứ Galilêa.  Ở đó Người rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. 

Việc rao giảng của Chúa Giêsu bắt đầu từ xứ Galilêa và mục đích là Tin Mừng, “Tin Mừng” về sự sáng tạo của Thiên Chúa đối với dân của Người, sự thiết lập Nước Trời.  Việc  rao giảng của các Tông Đồ sẽ đi từ miền Galilêa đến tận cùng trái đất và sẽ có mục tiêu là Tin Mừng, “Tin Mừng” của Lời Chúa Kitô, Đấng đã chiến thắng cõi chết để cho vinh quang của Thiên Chúa tỏa sáng.

Câu 15:  Thời giờ đã mãn, và nước Thiên Chúa đã gần đến.

Ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng.  Thời gian chờ đợi (kairòs) đã hết, giây phút quyết định đã đến:  Thiên Chúa sắp sửa bắt đầu triều đại của Người.  Gioan Tẩy Giả thuộc về thời kỳ chuẩn bị và đã hoàn thành sứ vụ của ông, ông đã bị bắt và đã bị im tiếng.  Đức Giêsu thuộc về thời kỳ thành lập triều đại.  Thật vậy, đó là thời kỳ hiện tại đòi hỏi sự cộng tác của nhân loại:  hãy ăn năn sám hối.  Triều đại sắp đến chỉ vào không gian tự do này, nơi mà bất cứ ai lắng nghe lời công bố có thể đến đó bằng cách hướng về Đức Kitô, hoặc quay lưng lại bằng cách tảng lờ hay phủ nhận Tin Mừng.  Vương Quốc Nước Trời thì gần kề cho tất cả mọi người, hiện hữu cho tất cả những ai mong ước nó.  Hoán cải, đức tin và đi theo là ba khía cạnh của cùng một điều, đó là, lời mời gọi đến tất cả mọi người hãy đi theo Đức Giêsu, Đấng là thời gian, là triều đại Thiên Chúa, là Tin Mừng.

Câu 16:  Đang lúc đi dọc theo bờ biển Galilêa, Người thấy Simon và em Simon là Anrê…

Biển hồ Galilêa làm bối cảnh cho giai đoạn đầu tiên sứ vụ của Chúa Giêsu.  Một biển hồ được bao quanh bởi các dãy núi, ở độ cao 208 mét trên mực nước biển, dài 21 kilômét và rộng 11 kilômét.  Biển hồ này, trong hình dáng của cái đàn xít, là nguồn mạch của sự sống bởi vì nó chứa rất nhiều cá.  Trên bờ của biển hồ này Chúa Giêsu đã trông thấy:  cái nhìn này có liên quan và xác định sự chọn lựa lối sống khác hẳn với lối sống thường nhật đã được trông thấy trên bờ biển này gồm có các người đánh cá, thuyền bè, lưới và cá.  Simon và Anrê, là hai anh em.  Sự liên hệ tình cảm đoàn kết này được dùng như căn bản cho một liên kết mới về đức tin cho hai anh em ông mà nó vượt khỏi mối quan hệ gia đình.  Hai anh em có chung một tên.  Thiên Chúa gọi tên theo đức hạnh mà căn tính tương tự với Tên đời đời được gán cho mỗi người với tấm gương tương tự.

Câu 17:  Hãy theo Ta và Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ chài lưới người.

Lời này được xác định bởi một mệnh lệnh rõ ràng.  Đó không phải là một lời mời, mà nó là một mệnh lệnh.  Sự sáng tạo của Lời Thiên Chúa, tạo nên ánh sáng và các tạo vật khác, giờ đây Chúa mời gọi hình ảnh của Người dự phần vào việc tác tạo mới.  Lời này không đến từ một quyết định máy móc hay riêng tư, mà là từ một cuộc gặp gỡ với con người của Đức Giêsu, Đấng lên tiếng gọi.  Đó là một hành động của ân sủng, không phải là một sự chọn lựa của loài người.  Đức Giêsu không đợi chờ một quyết định cho không, mà kêu gọi với quyền năng thiêng liêng như Thiên Chúa đã kêu gọi các ngôn sứ trong Cựu Ước.  Không phải các môn đệ đã chọn thầy mình giống như theo truyền thống với các thày cả rabbi thời bấy giờ, nhưng vị thầy đã chọn các môn đệ của mình như những nơi ký thác, chứ không phải vì một học thuyết hay giáo lý, mà như là kẻ thừa kế của Thiên Chúa.  Lời mời gọi có nghĩa là từ bỏ gia đình, từ bỏ sự nghiệp; một cuộc thay đổi toàn diện đời sống để tuân thủ theo một cuộc sống không có chỗ cho không gian riêng tư.  Các môn đệ là người của Vương Quốc Nước Trời.  Lời gọi để trở thành các môn đệ của Đức Giêsu là một “lời gọi cánh chung”.

Câu 18:  Và lập tức bỏ lưới, các ông theo Người.  

Câu trả lời có ngay lập tức.  Một câu trả lời mà thậm chí dứt bỏ những quan hệ mạnh mẽ nhất.  Động từ được dùng để mô tả là akolouthèin, một thuật ngữ kinh thánh để chỉ hành động của một người đầy tớ đi với chủ mình để phục dịch.  Theo ý nghĩa vật chất, có nghĩa đen là “đi theo sau”.  Khi nói về các môn đệ, nó thể hiện sự tham dự đầy đủ trong cuộc sống của Chúa Giêsu và công việc của Người.

Câu 19-20:  Đi xa hơn một chút nữa, Người thấy Giacôbê con ông Giêbêđê và em ông là Gioan…

Chúa đã gọi các ông.  Động từ gọi, kalein, là một thuật ngữ điển hình khác của theo sau.  Có một yếu tố được thêm vào so với lời gọi của hai môn đệ đầu tiên:  hình ảnh của người cha và các người làm công.  Người cha cũng có tên.  Sự kiện mà ông bị tước đoạt đi hai người con tạo cho ông một phẩm giá độc đáo.  Ông ở lại một mình với những người làm công là những kẻ sẽ thay thế vị trí các con ông.  Nỗi cô đơn của những người bị bỏ lại không bao giờ là một nỗi cô đơn vô nghĩa.

Suy niệm:

Gioan Tẩy Giả đã bị bắt và Chúa Giêsu đang đi trong miền Galilêa.  Hai lối đi trong việc phục vụ một Thiên Chúa.  Thời giờ đã đến.  Đó là thời gian mà nhân loại không thể nắm bắt và chiếm hữu đã viên mãn và đòi hỏi một sự đổi hướng.  Thời gian dành cho biển và lưới để đánh cá ở nơi khác.  Người ta, nam cũng như nữ, được kêu gọi để không ai có thể bị hư mất.  Danh tính của họ vẫn còn, điều thay đổi chỉ là mục đích các hành động của họ.  Không còn đi lưới cá nữa, mà là lưới người.  Không còn mối liên hệ nào với các vật thụ tạo thấp kém hơn, mà là một mối quan hệ bình đẳng với các vật thụ tạo có cùng phẩm giá như nhau.  Lưới mới phải được vá, loại lưới cần phải có để đi đánh cá:  chúng là những cái lưới rao giảng sẽ được đem thảy vào lòng con người trong đêm đau đớn và thiếu cảm giác.  Những lời “Hãy theo Ta”, giống như một chìa khóa, mở ra chân trời mới.  Người ta không mạo hiểm một mình vào cuộc phiêu lưu này.  Những mối quan hệ không hề bị rạn nứt.  Hai anh em càng trở nên gắn bó hơn, họ vẫn chia sẻ với nhau những kinh nghiệm đắng cay của việc tìm kiếm mưu sinh, nhưng không phải mưu sinh cho chính họ mà là cho người khác.  Biển cả, biểu tượng của tất cả mọi thứ không thể bị kiềm chế, với sự chuyển động quen thuộc và yên lặng của con nước đang dạt vào bờ và nói:  Hãy đi.  Chúa Giêsu, một người trong số rất nhiều người, là Thiên Chúa, Đấng đang tiến tới bờ của biển hồ, một Thiên Chúa đi vào đời sống của nhân loại.  Một Thiên Chúa, Đấng trông thấy với đôi mắt của con người, một Thiên Chúa phán với uy quyền mới:  Hãy theo Ta.  Và những người đàn ông ấy là các ngư phủ, lập tức từ bỏ tất cả và đi theo Người.  Các ông rời bỏ để đến một biển hồ khác, biển hồ của đất liền, biển hồ của làng mạc, biển hồ của đền thờ, biển hồ của đường phố.  Các ông ra đi theo tiếng gọi của một cái nhìn vẫy gọi, một cái nhìn có khả năng thuyết phục họ hãy từ bỏ tất cả, không những chỉ là thuyền bè, biển cả, lưới cá, mà ngay cả người cha thân yêu của các ông, tất cả quá khứ, tình cảm của họ, nơi chôn nhau cắt rốn của họ.  Những người bạn vào ban đêm đã từng trao phó chính họ vào những con sóng của biển Galilêa, đành lìa bỏ nơi yên lành của họ để đi đến những vùng biển xa xôi diệu vợi.  Đó là một tình bạn thâm giao đã khiến họ bước đi, không biết đi đâu, nhưng với con tim mang sự nồng ấm của giọng nói và cái nhìn:  Hãy theo Ta.

6.  Cầu Nguyện – Thánh Vịnh 86 (85)

Lạy Chúa, muôn dân chính tay Ngài tạo dựng sẽ về phủ phục trước Thánh Nhan, và tôn vinh danh Ngài. Vì Ngài thật cao cả, và làm nên những việc lạ lùng; chỉ một mình Ngài là Thiên Chúa. Xin dạy con đường lối Ngài, lạy CHÚA, để con vững bước theo chân lý của Ngài. Xin Chúa hướng lòng con, để con biết một niềm kính tôn Danh Thánh.
Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, con hết lòng cảm tạ, Thánh danh Ngài, con mãi mãi tôn vinh. 7.  Chiêm Niệm

Lạy Chúa, những niềm mong đợi của con đã được thỏa nguyền trong đền thờ của Ngài.  Lạy Chúa, Thiên Chúa Hằng Sống, Đấng tiếp tục đi đến bờ biển của đời sống nhân loại, ở đó giống như một biển hồ trong hình dạng của chiếc đàn xít lặng lẽ trổi lên qua những giờ khắc của nó, đi ngang qua và trông thấy, gọi…  Con sẽ biết Chúa khi Ngài gọi con bằng tên và con sẽ đi theo Chúa giống như một kẻ lãng du nhặt lấy cây gậy đi đường để đi theo lối của tình bạn hữu và sự gặp gỡ, nơi mà con tim gặp gỡ Thiên Chúa Chí Nhân, Đấng là ngọn lửa hằng sống trong bóng đêm của dục vọng con người, một sự ấm áp lan tỏa ra nơi mà cơn gió lạnh buốt của tội lỗi đã hủy hoại và làm trệch hướng khỏi chân trời của chân lý và sự tuyệt mỹ.  Con biết rằng nếu không có Chúa thì con sẽ chẳng lưới bắt được gì trong bóng đêm cô đơn và ảo tưởng của con.  Lưới của con sẽ bị xé rách khi mà Chúa kéo con ra khỏi vùng nước cay đắng của việc ráng sức và Chúa sẽ ban cho con trở lại với chính con, được biến đổi với sự tha thứ, được nhận lãnh và trao ban với cả hai tay.  Rồi thì con sẽ loan truyền danh của Chúa cho anh chị em con.  Amen.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét