23/06/2019
Chúa Nhật 12 Thường Niên năm C.
MÌNH MÁU THÁNH.
Lễ Trọng. Lễ HỌ
(phần I)
BÀI ĐỌC I: St 14, 18-20
“Ông mang bánh và rượu tới”.
Trích sách Sáng Thế.
Trong những ngày ấy,
Menkixêđê là vua thành Salem, đem bánh và rượu tới, vì ông là thượng tế của
Thiên Chúa Tối Cao, ông chúc phúc cho Abram rằng: “Xin Thiên Chúa Tối Cao và Đấng
tạo thành trời đất chúc phúc cho Abram, và đáng chúc tụng thay Thiên Chúa Tối
Cao, vì nhờ Người che chở, quân thù đã rơi vào tay ông”. Và Abram dâng cho ông
một phần mười tất cả chiến lợi phẩm. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 109, 1. 2.
3. 4
Đáp: Con là Thượng
tế tới muôn đời theo phẩm hàm Menkixêđê (c. 4bc).
Thiên Chúa đã ban bố
cùng Chúa tôi rÄng: “Con hãy ngồi bên hữu Ta, cho tới khi Ta bắt quân thù làm bệ
kê dưới chân Con”. – Đáp.
Đức Thiên Chúa từ Sion
sẽ phô bày vương trượng quyền bính của Ngài, rÄng: “Con hãy thống trị giữa quân
thù”. – Đáp.
“Các thủ lãnh cùng hiện
diện bên Con, ngày Con giáng sinh trong thánh thiện huy hoàng: trước rạng đông,
tựa hồ sương sa, Ta đã sinh hạ ra Con”. – Đáp.
Đức Thiên Chúa đã thề
và không hối hận rÄng: “Con là Thượng tế tới muôn đời theo phẩm hàm Menkixêđê”.
– Đáp.
BÀI ĐỌC II: 1 Cr 11,
23-26
“Mỗi khi anh em ăn và uống anh
em loan truyền việc Chúa chịu chết”.
Trích thư thứ nhất
của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Cô-rintô.
Anh em thân mến, phần
tôi, tôi đã lãnh nhận nơi Chúa điều mà tôi đã truyền lại cho anh em, là Chúa
Giêsu trong đêm bị nộp, Người cầm lấy bánh và tạ ơn, bẻ ra và phán: “Các con
hãy lãnh nhận mà ăn, này là Mình Ta, sẽ bị nộp vì các con: Các con hãy làm việc
này mà nhớ đến Ta”. Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối, Người cầm lấy chén và
phán: “Chén này là Tân Ước trong Máu Ta; mỗi khi các con uống, các con hãy làm
việc này mà nhớ đến Ta”. Vì mỗi khi anh em ăn bánh và uống chén này, anh em
loan truyền việc Chúa chịu chết, cho tới khi Chúa lại đến. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 6, 51-52
Alleluia, alleluia!
– Chúa phán: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời
đời”. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 9, 11b-17
“Tất cả đều ăn no nê”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu nói
với dân chúng về nước Thiên Chúa và chữa lành những kẻ cần được cứu chữa. Vậy
khi đã xế chiều, nhóm mười hai đến thưa Người rằng: “Xin Thầy giải tán dân
chúng, để họ đi vào trong các làng mạc và trại quanh đây mà trú ngụ và kiếm thức
ăn, vì chúng ta đang ở nơi hoang địa”. Nhưng Người nói với các ông: “Các con
hãy cho họ ăn đi”. Các ông trả lời: “Chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con
cá, trừ phi chúng con phải đi mua thức ăn cho cả đám đông này”. Số đàn ông độ
năm ngàn. Người nói với các môn đệ rằng: “Hãy cho họ ngồi xuống từng nhóm độ
năm mươi người”. Các ông đã làm như thế, và bảo tất cả ngồi xuống. Chúa Giêsu cầm
lấy năm chiếc bánh và hai con cá, nhìn lên trời, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và
phân phát cho các môn đệ để các ông dọn ra cho dân chúng. Tất cả đều ăn no nê,
và người ta thu lượm được mười hai thúng miếng vụn còn dư lại. Đó là lời Chúa.
Suy Niệm: Bàn tiệc huynh đệ
Lễ nào không phải là lễ
Mình Máu Thánh Chúa Giêsu hay sao, mà phụng vụ còn phải đặt ra ngày lễ hôm nay?
Ðó là vấn đề được tranh luận sôi nổi ở cuối thế kỷ XIII và đầu thế kỷ XIV trước
khi lễ kính trọng thể Mình Máu Thánh Chúa Giêsu được phổ biến ở mọi nơi.
Trước đó, tức là trong
hơn 10 thế kỷ đầu của Kitô giáo, Hội Thánh vẫn cử hành thánh lễ tạ ơn, nhưng
không nghĩ tới việc đặt ra một ngày đặc biệt để tôn thờ Chúa Giêsu ngự nơi
Thánh Thể. Hội Thánh coi Thánh Thể là lương thực hằng ngày nên không để ý quan
sát, mà chỉ quan tâm lãnh nhận. Sang đến cuối thế kỷ 12, vì có người đặt vấn đề
về sự hiện diện của Chúa Giêsu nơi Thánh Thể, Hội Thánh mới thấy việc chiêm ngưỡng
và suy nghĩ về bí tích này là cần thiết. Lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu được đặt
ra để nói lên niềm tin vào việc Chúa ngự nơi Thánh Thể. Và niềm tin này đòi hỏi
việc tôn thờ xứng đáng, biểu hiện trong thái độ chầu Mình Thánh, và kiệu Mình
Thánh. Ðó còn là những việc mà chúng ta muốn làm hôm nay cùng với việc dự lễ và
rước lễ để nói lên lòng tin yêu của chúng ta đối với bí tích Thánh Thể.
Nhưng cho dù chính
đáng, những cách thức biểu lộ niềm tin này vẫn không cần thiết bằng việc kết hợp
với Chúa Giêsu Thánh Thể mà Hội Thánh vẫn quan tâm ngay từ đầu. Và những bài đọc
Kinh Thánh hôm nay muốn giúp chúng ta làm công việc này.
1. Bánh Rượu Trong Tay
Melkisedek
Bài sách Khởi nguyên
đưa chúng ta về một thời đại xa xưa. Thời đại của tổ phụ Abraham cách đây gần
40 thế kỷ. Hôm ấy vị tổ phụ đi giao chiến về để cứu anh em mình là gia đình ông
Lót. Abraham đã toàn thắng. Trên đường về có vua ở Sôđôm ra đón để chúc mừng và
tỏ tình thân thiện. Lại có vua ở Salem là Melkisedek cũng ra gặp gỡ. Tác giả
sách Khởi nguyên chỉ dùng có ba câu để thuật lại câu chuyện. Nhưng đây là ba
câu đã có ảnh hưởng lớn trong truyền thống của Kinh Thánh. Hết mọi từ ngữ đều
có ý nghĩa. Melkisedek nếu chiết tự thì có nghĩa là Vua Công Chính, và Salem
không những là tên được đồng hóa với Giêrusalem mà còn gợi lên tư tưởng hòa
bình. Chắc chắn câu chuyện kể ở đây đã thành danh tiếng vì nó đã xảy ra tại
Giêrusalem ở ngay thời của tổ phụ dân Chúa. Người ta truyền tụng nó để đề cao
Giêrusalem và để nói lên rằng thủ đô của Dân Chúa đã được vị tổ phụ của dân tộc
đặt chân đến.
Hơn nữa, ở đây, nơi đô
thị "Hòa Bình" này, vị tổ phụ đã gặp một nhân vật "mầu nhiệm".
Ông không phải chỉ là vua mà còn mang danh hiệu là "Ông vua công
chính".
Về sau người ta đã cố
gắng tìm hiểu lai lịch của ông, nhưng mọi nỗ lực chỉ đi đến một kết luận: ông
như không cha, không mẹ; đột nhiên xuất hiện rồi lại biến mất tăm hơi. Ông là
con người mầu nhiệm, y như thái độ của ông trong câu chuyện này.
Ông ra đón Abraham,
nhưng khác hẳn với vua Sôđôm đã ra gặp vị tổ phụ. Vì mặc dù là vua Salem, ông
đã không nghênh đón "Người đại thắng khải hoàn" theo cung cách triều
đình, nhưng với tác phong tư tế; Vì theo tục lệ đông phương thời ấy, hoàng đế
cũng là tư tế. Ông mang bánh và rượu ra. Ông làm một cử chỉ tôn giáo. Ông chúc
lành cho Abraham và ông ca tụng Chúa Tối Cao dựng nên trời đất để chúc phúc.
Ông làm cho Abraham như phải cúi đầu và dâng cho ông thập phân về hết mọi sự.
Có lẽ hàng tư tế Do
Thái đã thích câu chuyện này và thích lợi dụng tối đa. Họ nhắc đi nhắc lại để
cho con cái Israel phải quý việc nộp thập phân huê lợi cho hàng tư tế, vì chính
tổ phụ đã làm như thế!
Nhưng phần lớn truyền
thống Cựu Ước lại chú ý đến vai trò tư tế của Melkisedek và vị Chúa tối cao mà
ông tôn thờ. Ngài là Ðấng dựng nên trời đất nên Ngài cũng là chính Giavê, Chúa
của dân Israel. Ngài đã phó địch thù trong tay Abraham, và như vậy Ngài là Chúa
toàn năng của tất cả mọi người, cả khi người ta không biết Ngài. Tất cả những
tư cách này khiến con cái Israel - cũng như tổ phụ Abraham thấy ngay Ngài cũng
là Thiên Chúa của họ, và Giêrusalem thật là nơi thánh địa, vì từ đầu vẫn là đô
thị của Thiên Chúa.
Ðiều này cũng nói lên
quan niệm của Cựu Ước không coi tôn giáo tự nhiên, tôn thờ đấng dựng nên trời đất,
như tôn giáo của các dân ngoại. Ngoại giáo là tà giáo, chứ tôn giáo tự nhiên thờ
Ðấng Tối Cao là chính giáo ở thời chưa được mạc khải, nên vẫn đáng trọng.
Tuy nhiên Cựu Ước chưa
chú trọng đến bánh rượu ở trên tay Melkisedek như phụng vụ muốn cho chúng ta phải
làm trong ngày hôm nay. Những của lễ kia, nằm trong tay vị tư tế mầu nhiệm của
tôn giáo tôn thờ Ðấng Tối Cao là hình ảnh báo trước bánh rượu sẽ được đôi tay của
vị tư tế đạo mới dâng lên sau này. Thiên Chúa, Ðấng dựng nên trời đất, ngay từ
buổi đầu lịch sử dân Chúa, đã tỏ ra muốn dùng bánh rượu làm lễ vật. Những của lễ
này nằm trên tay Melkisedek nói lên lòng tôn thờ tự nhiên chuẩn bị cho việc phụng
thờ hoàn chỉnh sau này.
Do đó, ngày nay trong
Thánh Lễ, chúng ta dâng lên Chúa bánh rượu "là hoa màu ruộng đất và lao
công vất vả của con người" để trở nên Mình và Máu Chúa Kitô. Thánh lễ của
chúng ta kiện toàn lễ dâng của Melkisedek. Bánh rượu trên tay vị tư tế này đang
chờ được vị Thượng tế đạo mới thánh hóa. Và như vậy, Thánh lễ đã bắt nguồn từ
xa xưa và kiện toàn mọi lễ dâng từ thời Abel qua Melkisedek và cho tới nay.
Chúng ta không dâng lễ ở ngoài lịch sử, nhưng dâng tất cả lịch sử làm của lễ
khi nhận lấy bánh rượu và được dâng từ thời Melkisedek để trở nên bánh nuôi sống
và của uống thiêng liêng cho chúng ta.
Và Melkisedek là hình ảnh
báo trước về Chúa Kitô và các tư tế của Người, trong đó có cả chúng ta. Do đó,
mỗi khi dâng lễ, chúng ta lại nhớ đến vị tư tế xa xưa này. Mỗi khi cầm bánh rượu,
chúng ta như nắm lấy tất cả thiên nhiên và lịch sử. Chúng ta muốn tất cả trở
thành lương thực nuôi dưỡng chúng ta sau khi đãbiến đổi nên Mình và Máu Chúa
Giêsu. Chính Người với lễ hy sinh của Người nối kết và hoàn chỉnh mọi lễ dâng của
các thế hệ xa xưa cũng như của những thế hệ sau này. Chúng ta hãy nhìn Người
trong hành vi tế lễ.
2. Bánh Rượu Trong Tay Chúa Giêsu
Chắc chắn, khi còn ở trần gian và sống với các môn đệ, Ðức Giêsu đã nhiều
lần cầm lấy bánh và rượu. Nhưng có thể nói, môn đệ đã quên hết mọi lần khác để
chỉ nhớ một lần, lần xảy ra trong bữa ăn tối sau hết trước khi Người ra đi chịu
chết.
Lần ấy Người đã cầm lấy bánh rượu một cách khác thường, không thể quên
được, đến nỗi mỗi lần khi nhắc lại đã có lần nào Người cầm bánh rượu, là môn đệ
lại nhớ đến lần này và lấy cử chỉ, thái độ của Người trong lần này để mô tả mọi
lần khác. Chính vì vậy mà hôm nay chúng ta xem bài thư Phaolô trước nói đến lần
Ðức Giêsu cầm lấy bánh rượu ở bàn tiệc ly. Rồi chúng ta mới nói đến bài Tin Mừng
kể việc Ðức Giêsu cầm lấy bánh để chia trong một dịp khác.
Việc này xảy ra trước bữa tiệc ly, nhưng như đã nói, môn đệ Chúa kể lại
việc này theo "khuôn mẫu" của việc Người cầm lấy bánh rượu trong bữa
ăn cuối cùng. Thành ra, chính bài thư Phaolô sẽ giúp chúng ta hiểu bài Tin Mừng,
mặc dù câu chuyện kể ở đây đã xảy ra trước, nhưng lại đã được viết lại sau và
theo kinh nghiệm bàn tiệc ly.
Thánh Phaolô viết đoạn thư này vào khoảng năm 57, căn cứ vào truyền thống
chân thật. Ðây là điều Ngài đã nhận được nơi Chúa, tức là bắt nguồn từ Chúa để
truyền lại cho tín hữu. Do đó, đây là sự kiện chân thật. Chỉ có uy tín chân thật
này mới có thể làm cho giáo dân Côrintô suy nghĩ và sửa mình.
Họ vẫn hội họp nhau để cử hành "bữa tiệc của Chúa". Nhưng
Phaolô thấy chẳng có vẻ gì là "của Chúa" cả. Gần giống như các bữa tiệc
tôn giáo của dân ngoại rồi. Bởi vì ai đến ăn, cũng mang phần riêng của nhà mình
tới. Người có nhiều thì ngồi chung với nhau ăn nhậu một cách tham lam và khinh
bỉ những người khác. Những người nghèo hơn, mang theo phần ít, ngồi ăn một cách
buồn bã. Người ta chỉ mượn "nhà của Chúa" để mang đồ ăn "nhà
mình" tới. Người ta lợi dụng buổi lễ tôn giáo để ăn uống chứ không cử hành
"bữa ăn tối" của Chúa nữa.
Thế nên để sửa dạy giáo dân của Ngài, Phaolô phải nhắc lại thế nào là
"Bữa ăn" đích thực của Chúa. Ngài làm cho họ nhớ lại giáo huấn chân
truyền. Và sự thật ấy thế này: trong đêm bị nộp, Chúa Giêsu đã cầm lấy Bánh và
tạ ơn xong, Ngài đã bẻ ra và nói: "Này là Mình Ta vì các ngươi...".
Cũng vậy về Chén, sau khi dùng bữa tối xong, Ngài nói: "Chén này là giao ước
mới trong Máu Ta, các ngươi hãy làm sự này mỗi khi uống mà nhớ đến Ta".
Chỉ trong mấy câu vắn tắt, Phaolô đã thuật lại tất cả sự thật. Ngài nói
rõ việc ấy xảy ra trong đêm Ðức Giêsu bị nộp. Thế nên việc ban bánh rượu này
cho môn đệ gắn liền với cuộc khổ nạn của Người. Và bữa ăn của Chúa, luôn luôn
mang sắc thái của buổi tiệc ly.
Ðó cũng là bữa ăn Vượt qua của người Do Thái, nhắc lại việc Chúa cứu dân
ra khỏi Ai Cập và tin tưởng cầu xin cùng chờ đợi Chúa còn tiếp tục giải cứu nữa
trong tương lai cho đến khi có giao ước mới và vĩnh cửu như lời các ngôn sứ của
Chúa từng loan báo. Và trong bữa ăn này, việc giết một con chiên để lấy máu bôi
lên cửa là việc cốt yếu. Thế mà khi chia bánh rượu cho môn đệ, Ðức Giêsu lại
tuyên bố: Ðây là Mình Ngài bị nộp và đây là chén Máu Ngài sẽ đổ ra. Người còn gọi
đó là chén giao ước mới. Do đó rõ ràng Người đã tự coi, tự biến mình nên Chiên
Vượt qua để mang đến ơn cứu độ mà các ngôn sứ từng loan báo.
Các môn đệ không lầm. Họ thấy rõ với các cử chỉ này Chúa Giêsu đã khai
trương thời đại mới. Người đã thay thế bữa ăn Vượt qua của người Do Thái bằng bữa
ăn của Người hôm nay. Có thể họ chưa hiểu rõ những lời về Mình và Máu; vì phải
đợi đến ngày hôm sau khi thấy Mình Người bị nộp và Máu Người chảy ra họ mới hiểu
hết ý nghĩa. Nhưng họ đã cảm thấy chắc chắn Chúa Giêsu muốn dùng các cử chỉ của
Người hôm nay để ký kết giao ước mới, chấm dứt đạo cũ và nghi lễ cũ. Từ nay bước
sang thời đại cứu độ và nếp sống mới. Và nghi lễ mới cũng đã được thiết lập, vì
Ðức Giêsu đã bảo: phải làm sự này mà nhớ đến Người. Tức là mỗi khi nhớ đến
Ngài, nhớ đến để hiệp thông với Ngài trong hành vi cứu độ để được giao ước mới,
phải làm việc Ngài vừa làm, tức là phải cầm lấy Bánh Rượu mà làm như Ngài.
Thế mà giáo dân Côrintô đâu có làm như thế! Thánh Phaolô bảo họ: "mỗi
lần anh em ăn bánh và uống chén này, anh em loan báo sự chết của Chúa... anh em
làm bất xứng, thì sẽ mắc tội đối với Mình và Máu Chúa".
Những lời này tuyên bố rõ ràng có sự hiện diện của Chúa nơi Thánh Thể.
Bánh rượu đã trở nên Mình Máu Thánh Chúa. Nếu ngày lễ hôm nay có ý nói lên niềm
tin Chúa hiện diện nơi Bánh Thánh, Rượu Thánh, thì những lời Phaolô vừa nói đã
đạt yêu cầu. Nhưng mục đích của Phaolô không phải chỉ muốn nói đến sự hiện diện
của Chúa nơi Thánh Thể; Ngài muốn nói rằng người ta phải hiệp thông với Chúa,
có tâm tình của Chúa để cử hành tiệc Bánh Rượu.
Ðây là bữa ăn Vượt qua. Người ta phải ôn lại và ôm lấy tất cả lịch sử từ
trước cho đến nay với tâm tình tạ ơn nhưng cũng với ý thức xót xa vì bao nhiêu
khiếm khuyết để ước mong được cứu độ nhờ giao ước mới. Người ta sẽ cầm lấy bánh
và chén rượu. Và lúc ấy theo lời Chúa Giêsu đã nói, người ta nhớ đến Người, nhớ
đến cuộc tử nạn hồng phúc của Người. Người ta tham dự, thông phần lễ hy sinh
Người đã dâng để được vượt qua, sống lại, hướng về ngày vinh quang Người trở lại.
Bánh rượu trên tay Chúa, vì thế, không phải chỉ là bánh rượu trên tay
Melkisedek nữa. Nếu trên tay vị tư tế mầu nhiệm này, bánh rượu tượng trưng cho
thiên nhiên và đạo tự nhiên, thì trên tay Chúa Giêsu bánh rượu mang thêm ý
nghĩa lịch sử và giao ước cũ. Ðó không phải chỉ là hoa màu ruộng đất nhưng còn
là lao công vất vả của con người. Thiên nhiên và con người đều phải trở nên tạo
vật mới nhờ mầu nhiệm Chúa Giêsu nơi Bí Tích Bánh Rượu mà chúng ta còn tiếp tục
dâng trên bàn thờ.
3. Bánh Rượu Trên Tay Chúng Ta
Dĩ nhiên khi dâng bánh rượu, chúng ta phải có những tâm tình như trên vừa
nói; vì lời thánh Phaolô đã nói với tín hữu Côrintô cũng là để cho chúng ta.
Nhưng mục đích cuối cùng của Phaolô không phải chỉ muốn nhắc cho chúng ta nhớ
"Bữa ăn của Chúa" mà còn khuyên chúng ta vì tính chất của bữa ăn như
vậy, nên phải cử hành tiệc Thánh Thể mà gia tăng bác ái. Bữa ăn của Chúa phải
là bữa ăn Huynh đệ.
Ở đây chúng ta hãy nhớ bài Tin Mừng Luca. Chúng ta đã nói cử chỉ cầm bánh
rượu của Ðức Giêsu nơi bàn tiệc ly đặc sắc quá khiến mỗi khi nhắc lại những lần
khác mà Ðức Giêsu cầm lấy bánh rượu, các môn đệ lại nhớ đến các cử chỉ của Người
ở bàn tiệc ly và dùng chúng làm khuôn mẫu để diễn tả.
Ðiều này rõ ràng trong bài Tin Mừng hôm nay. Luca kể hôm ấy Chúa muốn thiết
những người đi theo Người vào nơi hiu quạnh. Người cho họ ngả mình xuống thành
từng cỗ, mỗi cỗ độ năm mươi... Rồi Người cầm lấy bánh và hai con cá. Người ngẩng
mặt lên trời và chúc tụng trên bánh và cá, đoạn bẻ ra và ban cho môn đệ để họ
thết dân chúng...
Chúng ta bảo bữa ăn này báo trước bàn tiệc ly và nhất là bàn tiệc Thánh Thể
trong Hội Thánh; hay chúng ta phải nói các bữa ăn Thánh Thể và bàn tiệc ly đã
cung cấp cho Luca mọi yếu tố để thuật lại một câu chuyện xảy ra trước?
Dĩ nhiên câu chuyện này cũng có ý báo trước những sự việc xảy ra sau...
nhưng chính những sự kiện xảy ra sau đã đem ý nghĩa đến cho câu chuyện xảy ra
trước và cung cấp cho nó những tài liệu để diễn tả.
Chúng ta không cần nói thêm điều ấy nữa. Nhưng vì Luca đã nhìn vào bàn tiệc
Thánh Thể trong Hội Thánh để thuật câu chuyện đã xảy ra nơi sa mạc, thì chúng
ta hãy xem ngoài các yếu tố báo trước bàn tiệc ly và bàn tiệc Thánh Thể, Luca
còn muốn chú trọng đến điểm nào nữa? Dường như tác giả đã chú ý đến vai trò của
các tông đồ. Lúc đó họ muốn giải tán dân vì thấy bất lực cung cấp lương thực
cho dân. Nhưng được Chúa gợi ý cho dân ăn, họ nhiệt tình muốn đóng góp tất cả
và sẵn sàng làm thêm... Chúa bảo họ tổ chức cho dân ngả xuống thành từng cỗ.
Người trao bánh cá cho họ phân phát... cuối cùng còn thu được 12 giỏ mảnh vụn,
đúng số 12 tông đồ.
Những điều ấy há không đáng suy nghĩ sao? Trong bàn tiệc Thánh Thể, Chúa muốn
chúng ta phải biết nghĩ đến nhu cầu của anh em. Có thể chúng ta bất lực, nhưng
Chúa sẽ giúp. Mình Máu Người còn trao cho chúng ta để chia sẻ, huống nữa là của
cải vật chất và tài năng tự nhiên mà Chúa đã đặt trong tay mỗi người. Chúng ta
không phải chia sẻ những của ấy sao? Chúng ta sợ mất mát thiệt thòi sao, khi thấy
cuối cùng còn thu lại được 12 giỏ mảnh vụn?
Chắc chắn Hội Thánh ban đầu đã hiểu rằng bàn ăn của Chúa cũng phải là bàn
tiệc huynh đệ, nên khi cử hành mầu nhiệm Thánh Thể, Hội Thánh cũng tổ chức việc
chia sẻ nâng đỡ vật chất. Giáo dân Côrintô đã quên phương diện này, nên Phaolô
đã phải nhắc lại. Lời thánh Phaolô hôm nay cũng chất vấn chúng ta, chúng ta sốt
sắng tôn thờ Thánh Thể nhưng có biết chia xẻ với nhau một cách thực tế không, để
không một ai phải thiếu thốn quá đang khi những người khác thì no đầy?
Thế nên hôm nay chúng ta phải suy nghĩ về cả ba bài đọc để khi long trọng
tôn thờ Chúa trong Thánh Thể, chúng ta ý thức thêm về nhiệm vụ bác ái để mỗi lần
cử hành bàn tiệc của Chúa, chúng ta lại nghĩ đến bàn ăn của anh em. Nơi bàn
thánh chúng ta được Chúa thì sự sống mới chúng ta nhận được phải đưa chúng ta đến
với anh em và chia xẻ số phận với anh em để khi trở lại dâng lễ chúng ta có
bánh rượu là hoa màu ruộng đất và lao công của con người dâng lên để trở thành
bánh nuôi sống và của uống thiêng liêng cho tất cả chúng ta.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật Lễ Mình Máu Chúa, Năm
C
Bài đọc: Gen
14:18-20; 1 Cor 11:23-26; Lk 9:11b-17.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Bí-tích Thánh Thể diễn tả tình yêu Thiên Chúa dành cho con người.
Bí tích Thánh Thể và bí tích Truyền Chức không thể tách rời nhau và là hai tặng
phẩm vô giá Thiên Chúa đã chuẩn bị cho con người từ xa xưa, vì yêu thương con
người.
Các bài đọc hôm nay muốn nêu bật nguồn gốc và mục đích của hai bí tích này.
Trong bài đọc thứ nhất, tác giả Sách Khởi Nguyên đề cập đến một nhân vật kỳ lạ
là Melchizedek xuất hiện mang theo bánh và rượu để ra đón Abraham chiến thắng
trở về. Không ai biết Melchizedek là ai cho đến khi tác giả Thư Do-thái dùng
phương pháp “midrash” nối kết với Thánh Vịnh 110, để tuyên bố: Đức Kitô chính
là Melchizedek Thiên Chúa đã chuẩn bị từ thời tổ phụ Abraham để làm Thượng Tế cứu
thoát con người khỏi tội nhờ lễ vật Ngài dâng trên đồi Golgotha một lần là đủ,
và giờ đây chúng ta vẫn còn tái diễn mỗi ngày trong các nhà thờ để hưởng nhờ hiệu
quả của biến cố đó. Trong bài đọc II, thánh Phaolô truyền lại những gì Ngài đã
tiếp nhận được nơi Đức Kitô cho các tín hữu Corintô về “bữa tiệc tình yêu.” Đây
là trình thuật đầu tiên chúng ta biết được (Thư Corintô I có trước các Sách Tin
Mừng) và các cộng đoàn đầu tiên đã trung thành cử hành mỗi khi hội họp để tưởng
nhớ Đức Kitô và loan truyền Cuộc Khổ Nạn của Ngài. Trong Phúc Âm, tuy Đức Kitô
chính thức thiết lập hai bí tích Thánh Thể và Truyền Chức trong Bữa Tiệc Ly;
nhưng các động tác chính của bí tích Thánh Thể: “cầm lấy bánh, ngước mắt lên trời,
tạ ơn, bẻ ra, và trao cho các môn đệ” đã có từ khi Chúa Giêsu làm phép lạ nuôi 5,000
người ăn.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Bí tích Thánh Thể và chức tư tế
Tác giả Thư Do-thái dùng phương pháp midrash (tra chữ Melchizedek) để xác định
Melchizedek chính là Đức Kitô. Ngài là Thượng Tế Tối Cao và muôn đời theo phẩm
trật Melchizedek. Tác giả dùng hai trình thuật chính:
1.1/ Sáng Thế Ký
14:18-20: Melchizedek không cha, không mẹ có
nghĩa Ngài không có nguồn gốc thế gian và là tư tế của Thiên Chúa đến muôn đời.
Tên Do-thái của Melchizedek có nghĩa “Vua công chính.” Ngài đang làm vua thành
Salem có nghĩa là “thành bình an.” Hầu hết các học giả đều đồng nhất thành này
với thành Jerusalem hiện giờ. Ông mang bánh và rượu ra để chỉ bữa ăn giao ước với
Abraham. Ông chúc phúc cho Abram và nói: “Xin Thiên Chúa Tối Cao, Đấng dựng nên
trời đất, chúc phúc cho Abram! Chúc tụng Thiên Chúa Tối Cao, Đấng đã trao vào
tay ông những thù địch của ông!” Ông Melchizedek phải quyền thế hơn Abram, vì
ông chúc phúc cho Abram và lãnh nhận “một phần mười tất cả chiến lợi phẩm” từ
Abram.
1.2/ Thánh Vịnh 110:1-4: Thánh Vịnh này được làm bởi vua David và nói về ngày đăng quang của Đức Kitô như sau: Sấm ngôn của Đức Chúa ngỏ cùng Chúa Thượng tôi: “Bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị, để rồi bao địch thù, Cha sẽ đặt làm bệ dưới chân con.” Từ Sion, Đức Chúa sẽ mở rộng quyền vương đế của Ngài: Giữa lòng địch quân, xin Ngài làm bá chủ. Đức Chúa phán bảo rằng: “Ngày đăng quang con nắm quyền thủ lãnh, vẻ huy hoàng rực rỡ tựa thần linh. Ngay trước lúc hừng đông xuất hiện, tự lòng Cha, Cha đã sinh ra Con.” Đức Chúa đã một lần thề ước, Người sẽ chẳng rút lời, rằng: “Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Melchizedek.”
1.2/ Thánh Vịnh 110:1-4: Thánh Vịnh này được làm bởi vua David và nói về ngày đăng quang của Đức Kitô như sau: Sấm ngôn của Đức Chúa ngỏ cùng Chúa Thượng tôi: “Bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị, để rồi bao địch thù, Cha sẽ đặt làm bệ dưới chân con.” Từ Sion, Đức Chúa sẽ mở rộng quyền vương đế của Ngài: Giữa lòng địch quân, xin Ngài làm bá chủ. Đức Chúa phán bảo rằng: “Ngày đăng quang con nắm quyền thủ lãnh, vẻ huy hoàng rực rỡ tựa thần linh. Ngay trước lúc hừng đông xuất hiện, tự lòng Cha, Cha đã sinh ra Con.” Đức Chúa đã một lần thề ước, Người sẽ chẳng rút lời, rằng: “Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Melchizedek.”
Có rất nhiều điểm trùng hợp giữa hai trình thuật mà tác giả Thư Do-thái nêu
lên: Đức Kitô là Thượng Tế đến muôn đời theo phẩm trật Melchizedek, chứ không
phải là Thượng Tế theo phẩm trật Aaron hay Levi, được thiết lập ít nhất 430 năm
sau Abraham. Chức tư tế của Đức Kitô được làm bởi lời thề của Thiên Chúa cao trọng
hơn chức tư tế theo dòng dõi Levi, cha truyền con nối. Lễ vật của Đức Kitô cao
trọng hơn lễ vật của tư tế dâng hằng ngày hay Thượng Tế dâng mỗi năm một lần.
Ngài chỉ dâng một lần là đủ vì Ngài dâng chính máu của Ngài chứ không phải máu
của các con vật… (x/c Thư Do Thái, chương 7-8) Nói tóm, Đức Kitô là Thượng tế của
giao ước mới, hoàn hảo hơn giao ước cũ. Ngài đến để hủy bỏ toàn bộ chức tư tế
cũ và lễ vật hy sinh của giao ước cũ.
1.3/ Qumran 11Q13: Đây là tài liệu khám phá tại Qumran, hang 11, nói về nhân
vật Melchizedek như sau:
“Ông sẽ xuất hiện trong Năm Thánh sau cùng. Melchizedek sẽ trả lại cho dân
chúng những gì thuộc về họ. Ông sẽ công bố cho họ Năm Thánh, và sẽ giải phóng họ
khỏi nợ nần và tất cả các tội của họ. Bắt đầu Năm Thánh, Ông sẽ công bố chiếu
chỉ này; sau đó đến Ngày Xá Tội (sau giai đoạn thứ 10 của Năm Thánh), Ông sẽ đền
tội cho tất cả các “con của ánh sáng” và những người được tiền định cho
Melchizedek. Vì đây là thời gian ấn định là “Năm hồng ân của Melchizedek.” Bằng
quyền năng, Ông sẽ xét xử dân thánh của Thiên Chúa và sẽ thiết lập một vương quốc
công chính, như đã được viết về ông trong Thánh Vịnh: “Một nhân vật giống như Đức
Chúa đã thay thế Ngài trong công hội của Thiên Chúa; giữa các sứ thần, ông phân
xử” (Psa 82:1). Kinh Thánh cũng nói về ông: “Hãy nhận chỗ cao nhất trên Trời: Một
thiên sứ? sẽ phân xử con người” (Psa 7:7-8). Melchizedek sẽ thi hành việc báo
thù theo chỉ thị của Thiên Chúa. Ông cũng giải phóng tất cả các tù nhân khỏi
tay của Belial và tất cả quyền lực của quỉ thần với nó.”
Ngôn sứ Isaiah đề cập đến Năm Hồng Ân mà Đức Kitô xác định àm chỉ về Ngài: “Thần
khí của Đức Chúa là Chúa Thượng ngự trên tôi, vì Đức Chúa đã xức dầu tấn phong
tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công
bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố một
năm hồng ân của Đức Chúa, một ngày báo phục của Thiên Chúa chúng ta” (Isa
61:1-2).
2/ Bài đọc II: Truyền thống của Giáo Hội về bí tích Thánh Thể
2/ Bài đọc II: Truyền thống của Giáo Hội về bí tích Thánh Thể
Thư Corintô là tài liệu sớm nhất (50-60 AC) nói về việc cử hành Lễ Bẻ Bánh hay
Lễ Tình Yêu (tiệc Agapê) trong cộng đoàn sơ khai. Các Tin Mừng đều viết sau Thư
Corintô (60-100 AC).
Phaolô viết: “Thật vậy,
điều tôi đã lãnh nhận từ nơi Chúa, tôi xin truyền lại cho anh em: trong đêm bị
nộp, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ ra và nói: “Anh
em cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em; anh em hãy làm như Thầy
vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy.” Cũng thế, cuối bữa ăn, Người nâng chén và nói:
“Đây là chén Máu Thầy, Máu đổ ra để lập Giao Ước Mới; mỗi khi uống, anh em hãy
làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy.”
Thật vậy, cho tới ngày
Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu
chết.” Hai điều chúng ta cần nghiên cứu trong trình thuật này:
2.1/ Tưởng Niệm: “Anh em
hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy.”
Tưởng niệm trước tiên là nhớ đến tình yêu của Chúa Giêsu đã làm cho các môn đệ
trong suốt cuộc đời tại thế, và nhất là tình yêu hy hiến mà Ngài đã làm cho các
ông trong Cuộc Khổ Nạn – Cái chết trên đồi Golgotha – và sự Phục Sinh vinh hiển
của Ngài. Tưởng niệm cũng là lúc các môn đệ nhớ lại những gì Chúa Giêsu dạy và
các ông phải làm: Noi gương Đức Kitô, các ông cũng phải chết đi cho các tín hữu
để tỏ tình yêu cho Thiên Chúa và cho tha nhân.
Thánh Phaolô nhắc lại những điều này để khiển trách các tín hữu Corintô đã
không dự tiệc theo như lòng Chúa Giêsu mong muốn. Họ coi đó như là một buổi dạ
tiệc hay bữa ăn thông thường. Các tín hữu Corintô đã làm tổn thương đến đức bác
ái khi họ chia nhóm theo giai cấp giầu nghèo, không đợi nhau và đoàn kết khi cử
hành Lễ Bẻ Bánh. Nói tóm, Ngài khiển trách họ đã biến Lễ Bẻ Bánh thành buổi hội
họp chỉ để ăn uống!
2.2/ Loan truyền: “Mỗi lần
ăn Bánh và uống Chén này, anh em loan truyền Chúa đã chịu chết.”
Loan truyền trước hết là loan truyền ơn cứu độ được Đức Kitô thực hiện qua cái
chết của Ngài. Bằng máu của Ngài đổ ra trên Thập Giá, Thiên Chúa đã tha các tội
của nhân loại đã xúc phạm đến Ngài. Khi con người được sạch tội, họ được giao
hòa với Thiên Chúa, và xứng đáng lãnh nhận ơn cứu độ là cuộc sống đời đời. Hy lễ
của Đức Kitô vẫn tái diễn mỗi ngày trên bàn thờ vì con người vẫn phạm tội và cần
được tha thứ, dù Lễ Tế của Ngài chỉ thực hiện một lần là có công hiệu suốt đời,
vì đó là Máu của con Thiên Chúa.
3/ Phúc Âm: Những chuẩn bị trước cho việc lập Bí-tích Thánh Thể
Đây là trình thuật được tường thuật cả bốn Thánh Ký. Riêng Gioan, trình thuật
này được tiếp nối bằng diễn từ về Thánh Thể trong suốt chương 6. Gioan không tường
thuật sự kiện Chúa Giêsu thành lập bí tích Thánh Thể trong Bữa Tiệc Ly; nhưng
chương 6 chứa đựng tất cả những gì Chúa Giêsu muốn mặc khải về bí tích Thánh Thể
và các phản ứng của con người.
3.1/ Chúa Giêsu quan tâm
đến nhu cầu ăn uống cũng như tinh thần của dân chúng.
Có thể nói trình thuật của Luca hôm nay như một Thánh Lễ: Chúa tập họp dân
chúng từ khắp nơi lại để giảng dạy và chữa lành (tương ứng với Phụng Vụ Lời
Chúa). Sau đó là phần cho dân chúng ăn (Phụng Vụ Thánh Thể).
Ba điều chúng ta cần để ý đến trong trình thuật hôm nay: Thứ nhất, Chúa động
lòng xót thương dân chúng. Ngài không chỉ bằng lòng với việc dạy dỗ; nhưng còn
lo đến kiếm của ăn cho dân. Thứ hai, Ngài truyền cho các môn đệ phải kiếm lương
thực cho dân ăn dẫu các ông phản đối. Sau cùng, đây là một phép lạ: Từ năm chiếc
bánh và hai con cá, Chúa đã phân phát cho các môn đệ để các môn đệ cho dân ăn
no nê mà vẫn còn dư 12 thúng đầy. Phép lạ này phải có liên quan đến bữa tiệc
Thánh Thể, vì chỉ một thân thể của Chúa Giêsu được bẻ ra để nuôi biết bao người
ăn no nê mà vẫn còn dư.
3.2/ Công thức truyền
phép trong bí tích Thánh Thể: “Bấy giờ Đức
Giêsu cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời
chúc tụng, bẻ ra và trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho đám đông.” Có thể
nói đây là một công thức truyền phép của tiệc Thánh Thể mà các môn đệ đã dần dần
quen thuộc. Họ chỉ cần nhìn cử chỉ và điệu bộ Chúa làm, họ nhận ra là chính
Chúa Giêsu, như hai môn đệ trên đường đi Emmaus của Lucas, hay như các môn đệ
bên bờ hồ Galilee trong Gioan, chương 21.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Bí-tích Thánh Thể là bí tích tình yêu mà Thiên Chúa đã chuẩn bị và mặc khải
cho con người từ thời tổ phụ Abraham. Sau khi đã nhận được tình yêu Thiên Chúa,
chúng ta cũng phải mang tình yêu này vào cuộc sống để yêu thương tha nhân như
Thiên Chúa yêu thương chúng ta.
– Bí-tích Thánh Thể là bí tích hiệp nhất mọi người trong cùng một thân thể của
Đức Kitô. Chúng ta đừng để chia rẽ xảy ra trong gia đình và cộng đoàn.
– Bí-tích Thánh Thể là bí tích tạ ơn. Chúng ta cần nhận ra tất cả những ơn lành
của Thiên Chúa đã làm cho chúng ta, nhất là ơn cứu độ đến từ Đức Kitô qua hiến
lễ trên đồi Golgotha của Ngài.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
23/06/2019 – CHÚA NHẬT TUẦN 12 TN – C
Mình và Máu Chúa Ki-tô
Lc 9,11b-17
HIỆU QUẢ CỦA THÁNH THỂ
“Bấy giờ Đức Giê-su cầm lấy năm cái bánh và hai con cá,
ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho môn đệ để các ông dọn
ra cho đám đông.” (Lc 9,16)
Suy niệm: Phép lạ Đức Giê-su hóa bánh và cá ra nhiều là hình ảnh báo trước về việc
Ngài sẽ thiết lập Bí tích Thánh Thể. Từ năm chiếc bánh và hai con cá, Ngài làm
phép lạ hóa ra vô số cho hơn năm ngàn người no nê, dư dật; cũng vậy, Thánh Thể
Ngài là tấm bánh được bẻ ra cho muôn người được no thỏa, dư đầy. Ai ăn cá và
bánh ngày ấy rồi cũng đã chết; còn ai lãnh nhận Thánh Thể Ngài cũng sẽ chết,
nhưng cái chết ấy là ngưỡng cửa để bước vào cõi sống đời đời. Cả hai phép lạ,
phép lạ ngày ấy tại thảm cỏ ven hồ Ti-bê-ri-a và phép lạ diễn ra trên bàn thờ hằng
ngày, đều cho ta thấy Chúa của ta là một vị Chúa quyền năng, cao cả, nhưng Ngài
đã dùng quyền năng ấy để phục vụ cho con người, vì lòng yêu thương con người,
yêu thương cho đến cùng (Ga 13,1).
Mời Bạn: Đức Hồng y Ph.Xav. Nguyễn Văn Thuận chia sẻ: “Mình Máu Thánh Chúa,
phương dược chữa xác cứu hồn, là thang thuốc trường sinh bất tử. Nhờ rước Thánh
Thể, tôi được an ủi và can đảm tràn ngập cõi lòng.” Bạn cũng sẽ vậy thôi! Nhờ
siêng năng rước Mình Máu Thánh Chúa, bạn được an ủi, niềm vui, thêm lòng mến
Chúa yêu người.
Sống Lời Chúa: Tôi rước Thánh Thể Chúa mỗi khi tham dự thánh lễ, và đọc
kinh Rước lễ thiêng liêng hàng ngày.
Cầu nguyện: Lạy Đức Chúa
Giê-su, con tin thật Chúa ngự trong Phép Mình Thánh, con kính mến Chúa trên hết
mọi sự, cùng ước ao chịu lấy Chúa trong linh hồn con. Vì bây giờ con chẳng chịu
Chúa thật được, thì xin Chúa ngự vào linh hồn con cách thiêng liêng. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
Ngài cầm bánh bẻ ra -
(23.6.2019 Chúa Nhật 22 TN - Lễ Mình và Máu Thánh Chúa Kitô)
Suy niệm:
Ăn uống là chuyện bình thường của mọi sinh vật.
Khi tôi ăn uống, đồ ăn thức uống trở thành
tôi.
Tôi sống, tôi hoạt động, tôi lớn lên,
nhờ chút rau xanh, cá tươi, đậu trắng.
Tôi được nuôi bằng trời cao, đất rộng và biển
cả.
Từ lâu Ðức Giêsu mang một khát vọng lớn,
đó là nuôi sống linh hồn con người,
nuôi mọi tín hữu thuộc mọi thời đại,
và nuôi họ bằng chính bản thân Ngài,
bằng cái chết và sự sống của Ngài.
Ngài có mắc bệnh hoang tưởng không?
Cái chết trên thập giá và sự phục sinh vinh hiển
cho ta thấy Ðức Giêsu là con người bình thường
khi Ngài cử hành bữa Tiệc Ly tối hôm đó.
Ngài muốn ta tham dự vào cuộc Vượt Qua của
Ngài,
Ngài muốn trở thành đồ ăn thức uống cho ta;
thành đồ ăn bằng cách biến tấm bánh thành Thịt
Mình Ngài,
thành thức uống bằng cách biến rượu nho thành
Máu Ngài.
Như thế ai ăn Tấm Bánh và uống Chén Rượu
đã được Ngài biến đổi nhờ quyền năng Thánh Thần,
người ấy nên một với Ngài.
Không phải Ngài trở thành người ấy,
cho bằng người ấy trở thành Ngài.
“Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy.”
Mỗi thánh lễ là một lần nhớ đến và làm sống lại
hy tế duy nhất năm xưa trên Núi Sọ.
Bí tích Thánh Thể là một sáng kiến của Tình
Yêu.
Tình Yêu luôn có nhiều sáng kiến bất ngờ và kỳ
diệu.
Cần ngắm nhìn cử chỉ bẻ bánh của Ðức Giêsu,
Tấm bánh trở thành Tấm Thân Ngài
được bẻ ra và trao hiến trên thập giá.
Trong bài Tin Mừng hôm nay,
Ðức Giêsu đã bẻ bánh để môn đệ phát cho dân.
Bẻ ra và trao đi trở thành phép lạ nhân lên
mãi.
“Anh em hãy cho họ ăn đi.”
Như các môn đệ, chúng ta cũng lúng túng và bất
lực
trước cơn đói của con người hôm nay,
đói cơm bánh, đói tình thương, đói được tôn trọng.
Nếu chúng ta dám trao cho Ðức Giêsu
tất cả những gì chúng ta có, dù chỉ là nhỏ
nhoi;
nếu chúng ta chịu để cho Ngài bẻ ra,
và làm vỡ tan mọi tính toán ích kỷ,
thì chúng ta có thể nuôi được cả thế giới.
Thỉnh thoảng bạn nên cầu nguyện trước Thánh Thể.
Bạn có thể học được nhiều điều.
Con Thiên Chúa vinh quang rất mực,
lại khiêm tốn hiện diện dưới dạng tấm bánh
mong manh, lặng lẽ, đơn sơ.
Tấm bánh không biết nói, không sống cho mình.
Tấm bánh hiện diện là để cho người ta thưởng
thức,
và tan biến ngay sau khi được hưởng dùng.
Chúng ta có thể bắt chước
lối hiện diện ấy của Chúa Giêsu Thánh Thể
không?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
có một ngọn đèn dầu gần Nhà
Tạm,
ngọn đèn đỏ mời con dừng bước
chân,
và nhắc con về sự hiện diện
của Chúa.
Con mong sự hiện diện ấy lan
toả khắp nơi,
để đâu đâu cũng thấy những
ngọn đèn đỏ.
Nơi xóm nghèo mùa mưa nhớp
nháp,
nơi lớp học tình thương lúc
chiều tà,
nơi những trung tâm phục hồi
nhân phẩm,
nơi bảo sanh viện nâng niu sự
sống của trẻ thơ,
nơi khách sạn năm sao, nơi
quán bia đầu ngõ,
nơi các tiệm cho mướn băng
video,
nơi tình yêu trong ngần của
đôi bạn trẻ...
Nhưng lạy Chúa, trước hết,
xin cho đời con là một ngọn
đèn,
xin cho chúng con là những
ngọn đèn màu đỏ,
mời người ta dừng lại, trầm
tư,
và gặp được Chúa.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
23 THÁNG SÁU
Một Sự Soi Dẫn Từ
Trên
Sự quan phòng của
Thiên Chúa và sự tự do của con người không hề đối nghịch nhau. Đúng hơn,hai
đàng hỗ tương mật thiết cho nhau. Hai thực tại ấy bộc lộ một mối hiệp thông yêu
thương – trong đó Thiên Chúa tôn trọng và cùng làm việc với ý chí tự do của
chúng ta. Chẳng hạn, khi suy xét đến vận mệnh tương lai của mình, chúng ta tìm
thấy nơi mạc khải thần linh – nhất là nơi Đức Kitô – một sự soi sáng quan phòng
giúp chúng ta thấy đường lối cứu độ và ý muốn của Chúa Cha.
Chính Thiên Chúa thực
hiện sự soi sáng đó, tuy rằng Ngài vẫn giữ mầu nhiệm này hoàn toàn kín nhiệm đối
với chúng ta. Nhìn từ một viễn tượng như thế, ta thấy sự quan phòng của Thiên
Chúa không phủ nhận sự hiện diện của sự dữ và đau khổ trong cuộc sống con người.
Đúng hơn, sự quan phòng ấy trở thành một điểm tựa giúp ta có thể hy vọng cả
trong những nỗi khổ đau, và thậm chí nó cho phép chúng ta thoáng thấy được bằng
cách nào ta có thể rút điều tốt ra từ cái xấu.
Công Đồng Vatican II
đã nêu bật cho ta thấy sự quan phòng của Thiên Chúa khi Công Đồng qui chiếu đến
sự tiến triển của thế giới sẽ xảy ra khi vương quốc Thiên Chúa triển nở, khi
Công Đồng vén mở ra sự thường hằng và khôn ngoan của Thiên Chúa tình yêu. “Ai
khôn ngoan hãy hiểu những điều này; ai thận trọng thì hãy nhận biết. Đường lối
của Chúa thì ngay thẳng, trong đường lối đó người công chính bước đi, nhưng kẻ
tội lỗi thì vấp ngã” (Hs 14,10).
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 23/6
Chúa Nhật X Thường
Niên
Mình và Máu Chúa
Kitô
St 14, 18-20; Cr
11, 23-26; Lc 9, 11-17.
LỜI SUY NIỆM: “Chính anh em
hãy cho họ ăn.”
Các Tông đồ của Chúa Giêsu sau khi rao giảng trở về, đã thuật lại những thành
công tốt đẹp mà các ông đã thực hiện được. Nhưng đến khi các ông phải đối đầu với
thực tại về cơm bánh của dân chúng, các ông đã muốn trốn tránh trách nhiệm. Điều
này Chúa Giêsu không thể chấp nhận, nên Người bảo: “Chính anh em hãy cho họ ăn”
Lạy Chúa Giêsu, Xin cho các chủ chăn ngày nay biết lắng nghe lời Chúa hôm nay.
Đặc biệt đối với những người đang đói khát Mình Máu Thánh Chúa. Xin Chúa cho
các ngài mau mắn phục vụ đến tận nơi cho những người này.
Mạnh Phương
23 Tháng Sáu
Khối Ðá Cẩm Thạch
Một lần kia các phụ
nữ giàu có sinh sống tại thành phố Firenze, miền bắc nước Italia nảy ra sáng kiến
góp một khối đá cẩm thạch lớn và thuê một nhà điêu khắc tạc thành bức tượng nào
tùy ý, mà ông nghĩ là dân chúng sẽ ưa thích để làm quà cho thành phố.
Nhưng có lẽ đây
không phải là một nhà điêu khắc tượng có biệt tài hay vì khối đá bị sẻ không
đúng theo quy luật điêu khắc, nên sau khi nghiên cứu một thời gian, ông ta
không biết dùng khối đá để tạc tượng gì nên đành bỏ cuộc với lời quả quyết:
“Ðây là một khối đá vô dụng”.
Kể từ ngày ấy, khối
đá cẩm thạch quý giá bị bỏ ngoài trời mặc cho mưa sa tuyết phủ. Một nhà điêu khắc
khác cũng được mời đến xem khối đá, nhưng sau khi nhìn ngắm và có người thử
phác họa vài nét nháp trên giấy, tất cả đều bỏ đi với cùng một ý kiến của nhà
khắc tượng đầu tiên.
Cho đến một ngày
kia, Michelangelo, nhà điêu khắc và kiến trúc thời danh có dịp ghé thăm thành
phố nhà. Không rõ có ai lưu ý ông về khối đá hay ông tình cờ khám phá ra, nhưng
ông cảm thấy muốn tạc một bức tượng được tạc từ khối đá mà ai cũng cho là vô dụng.
Ông đo mọi kích thước.
Ông bỏ hàng ngày để nhìn ngắm khối đá để tìm hứng. Bỗng chốc ông thấy thật rõ
ràng một bức tượng mà ông xác tín là dân chúng thành Firenze sẽ rất mến mộ. Ông
nhìn thấy hình chàng thanh niên David vai mang cái ná bắn đá, tay cầm những hòn
sỏi, trong tư thế sẵn sàng ra chiến đấu với tên khổng lồ Goliát.
Những nhà khắc tượng
khác đồng ý cho rằng: đây là một khối đá vô dụng.
Nhưng dưới cặp mắt
của Michelangelo khối đá ấy đã mang hình ảnh chàng thanh niên David, vị anh
hùng dân tộc Do Thái và lập tức ông lấy dụng cụ bắt tay vào việc, mặc cho những
người tạc tượng khác lắc đầu mỉm cười ngụ ý nói rằng: đây là thật công dã
tràng.
Nhưng Michelangelo
vẫn miệt mài làm việc, gác ngoài tai những tiếng thị phi. Rồi cuối cùng, mỗi
nhát búa, mỗi cái đục đẽo làm nổi hẳn một bức tượng chàng David hiên ngang,
oanh liệt, mà trải qua bao thế kỷ vẫn làm say mê hàng vạn du khách, trố mắt đứng
nhìn một kỳ công tuyệt tác của nghệ thuật điêu khắc.
Không ai trong chúng
ta là khối đá vô dụng khi được chọn để tạc thành những bức tượng tín hữu Kitô sống
động dưới những nhát búa, nét đục của Chúa Giêsu.
Lời Chúa và sự hiện diện
của Ngài muốn tạo chúng ta thành những Kitô hữu xứng với danh gọi, nghĩa là giống
Chúa Giêsu.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét