29/09/2019
Chúa Nhật 26 Thường Niên năm C
(phần I)
BÀI ĐỌC I: Am 6, 1a. 4-7
“Các ngươi đã mê đắm và ca hát, giờ đây các ngươi bị
lưu đày.
Trích sách Tiên tri Amos.
Chúa toàn năng phán: “Khốn cho các
ngươi là những kẻ phú quý ở Sion, và tự kiêu trên núi Samaria. Các ngươi đã nằm
ngủ trên giường ngà, mê đắm trên ghế dài: ăn chiên con trong đoàn và bê béo
trong đàn; và ca hát theo tiếng đàn cầm thụ; người ta nghĩ mình như Đavit, có
những nhạc khí, dùng chén lớn uống rượu, lấy dầu hảo hạng xức lên mình, và chẳng
thương hại gì đến nỗi băn khoăn của Giuse; vì thế, giờ đây họ phải lưu đày và
đi đầu các kẻ lưu đày; những buổi yến tiệc của các kẻ buông tuồng sẽ không còn
nữa”. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 145, 7. 8-9a. 9bc-10
Đáp: Linh hồn tôi ơi, hãy ngợi khen Chúa (c. 2a).
Xướng:
1) Chúa là Đấng trả lại quyền lợi cho
người bị ức, và ban cho những người đói được cơm ăn. Thiên Chúa cứu gỡ những
người tù tội. – Đáp.
2) Thiên Chúa mở mắt những kẻ đui mù;
Thiên Chúa giải thoát những kẻ bị khòm lưng khuất phục; Thiên Chúa yêu quý các
bậc hiền nhân; Thiên Chúa che chở những khách kiều cư. – Đáp.
3) Thiên Chúa nâng đỡ những người mồ
côi quả phụ, và làm rối loạn đường nẻo đứa ác nhân. Thiên Chúa sẽ làm vua tới
muôn đời, Sion hỡi, Thiên Chúa của ngươi sẽ làm vua tự đời này sang đời khác. –
Đáp.
BÀI ĐỌC II: 1 Tm 6, 11-16
“Con hãy gìn giữ huấn lệnh cho tới ngày Chúa lại đến”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi Timôthêu.
Hỡi người của Thiên Chúa, hãy theo đuổi
đức công chính, lòng đạo hạnh, đức tin, đức ái, đức nhẫn nại, đức hiền lành.
Con hãy chiến đấu trong cuộc chiến đấu chính nghĩa của đức tin. Hãy cố đoạt lấy
sự sống đời đời mà con đã được kêu gọi tới và cũng vì đó, con đã mạnh dạn tuyên
xưng đức tin trước mặt nhiều nhân chứng. Cha chỉ thị cho con trước mặt Thiên
Chúa, Đấng làm cho muôn vật được sống, và trước mặt Đức Giêsu Kitô, Đấng đã làm
trước mặt Phongxiô Philatô, lời tuyên xưng thẳng thắn, con hãy giữ gìn huấn lệnh
đó cho tinh tuyền và không thể trách được, cho tới ngày Chúa chúng ta là Đức
Giêsu Kitô lại đến, mà đến thời đã định, Đấng phúc lộc và quyền năng duy nhất sẽ
tỏ ra, Người là Thiên Chúa, Vua các vua và Chúa các chúa, Đấng độc nhất trường
sinh bất tử, Người ngự trong ánh sáng siêu phàm, không một ai trong loài người
đã xem thấy hay có thể xem thấy: (kính chúc) vinh dự và quyền năng cho Người
muôn đời. Amen! Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 1, 14 và 12b
Alleluia, alleluia! – Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa
đang nghe, Chúa có lời ban sự sống đời đời. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 16, 19-31
“Ngươi đã được sự lành, còn Ladarô gặp toàn sự khốn
khổ”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng những người
biệt phái rằng: “Có một nhà phú hộ kia vận toàn gấm vóc, lụa là, ngày ngày yến
tiệc linh đình. Lại có một người hành khất tên là Ladarô, nằm bên cổng nhà ông
đó, mình đầy ghẻ chốc, ước được những mụn bánh từ bàn ăn rớt xuống để ăn cho đỡ
đói, nhưng không ai thèm cho. Những con chó đến liếm ghẻ chốc của người ấy.
Nhưng xảy ra là người hành khất đó chết và được các Thiên Thần đem lên nơi lòng
Abraham. Còn nhà phú hộ kia cũng chết và được đem chôn. Trong hoả ngục, phải chịu
cực hình, nhà phú hộ ngước mắt lên thì thấy đàng xa có Abraham và Ladarô trong
lòng Ngài, liền cất tiếng kêu la rằng:
” ‘Lạy Cha Abraham, xin thương xót tôi
và sai Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước để làm mát lưỡi tôi, vì tôi phải quằn
quại trong ngọn lửa này’. Abraham nói lại: ‘Hỡi con, suốt đời con, con được
toàn sự lành, còn Ladarô gặp toàn sự khốn khổ. Vậy bây giờ Ladarô được an ủi ở
chốn này, còn con thì chịu khốn khổ. Vả chăng, giữa các ngươi và chúng tôi đây
đã có sẵn một vực thẳm, khiến những kẻ muốn từ đây qua đó, không thể qua được,
cũng như không thể từ bên đó qua đây được’.
“Người đó lại nói: ‘Đã vậy, tôi nài
xin cha sai Ladarô đến nhà cha tôi, vì tôi còn năm người anh em nữa, để ông bảo
họ, kẻo họ cũng phải sa vào chốn cực hình này’. Abraham đáp rằng: ‘Chúng đã có
Môsê và các tiên tri, chúng hãy nghe các ngài’. Người đó thưa: ‘Không đâu, lạy
cha Abraham, nhưng nếu có ai trong cõi chết hiện về với họ, thì ắt họ sẽ hối cải’.
Nhưng Abraham bảo người ấy: ‘Nếu chúng không chịu nghe Môsê và các tiên tri,
thì cho dù kẻ chết sống lại đi nữa, chúng cũng chẳng chịu nghe đâu’ “. Đó là lời
Chúa.
Suy Niệm : Trở lại và thay đổi nếp sống
Bài sách Amos trong Chúa Nhật trước đã nói đến những
con người buôn bán muốn làm giàu bằng cách bóc lột người nghèo. Hôm nay nhà
tiên tri nói đến hạng người đã khá giả và đang có thế lực, mà người phú hộ
trong bài Tin Mừng Luca là một tiêu biểu. Giáo huấn của Chúa dạy chúng ta không
nên bắt chước những người này, nhưng hãy nghĩ đến tương lai dành cho những người
như Lazarô, để chúng ta theo. Lời thư gửi cho Timôthê mà biết đặt tầm quan trọng
vào công việc nào ở trần gian này? Vậy chúng ta hãy quan sát nếp sống của những
con người đầy đủ ở trong xã hội, định mệnh dành cho họ, và cách thức chúng ta
phải sống để được tương lai khác họ.
1. Nếp
Sống Của Những Con Người Ðầy Ðủ
Một lần nữa chúng ta lại nghe tiếng nói của tiên tri
Amos. Ông là dân quê ở miền Nam nước Do Thái, được Chúa chọn đi tuyên sấm ở miền
Bắc. Từ một nếp sống bình dị nơi thôn dã, ông đã thấy mình đứng trước một xã hội
buôn bán tấp nập. Không phải ông không muốn thích nghi với đời sống mới, nhưng
con mắt của người được Chúa chọn nhận ra ngay những nguy hiểm của nếp sống chạy
theo tiền bạc. Người ta cạnh tranh lừa đảo, bóc lột nhau để mà làm giàu. Nhưng
để làm gì?
Bài sách hôm nay mô tả nếp sống của hạng người đầy đủ
trong xã hội. Nói đúng hơn, đây là giai cấp chiếm ưu thế và được biệt đãi. Họ
ung dung cậy dựa vào các thành phần kiên cố ở bờ cõi. Tức là họ đang tin vào trật
tự an ninh của xứ sở. Pháp luật và quân đội đang bảo vệ họ, vì họ đang là giai
cấp thống trị. Người dân phải đến với họ và họ xét xử mọi công việc.
Bề ngoài, người ta thấy họ như vậy, nhưng bên trong
họ đang sống thế nào? Amos viết: "Họ đang nằm trên giường ngà, thõng thượt
trên các sập gụ". Ðây không phải là hình ảnh quen thuộc nơi dân Do Thái. Nếp
sống này rõ ràng lai căng. Nó bắt chước Hy Lạp, dân ngoại. Nó chứng tỏ lớp người
đứng đầu dân đã mất tinh thần dân tộc. Và đối với Amos, như vậy là mất tất cả
tinh thần đạo đức. Israen không có tôn giáo riêng ư? Và tôn giáo này có cả một
luật pháp với nhiều điều khoản quy định nếp sống xã hội. Bỏ nếp sống này để du
nhập phong tục ngoại lai, há chẳng phải là đã bỏ niềm tin vào Thiên Chúa và đạo
của Người rồi sao? Không phải bọn họ đã theo đạo nào khác, đạo mới của họ chỉ
là nếp sống ươn ái trong chè chén nhậu nhẹt. Chính vì vậy mà Amos dùng những từ
ngữ có màu sắc tôn giáo để tiếp tục mô tả nếp sống của họ.
Ông viết: họ ăn chiên cừu cùng bê nhốt chuồng, họ
nghêu ngao họa theo tiếng đàn, tự bày nhạc khí theo Ðavít, họ uống rượu cả tô
và xức dầu thượng hạng.
Chiên, cừu, bê là những vật thường được dùng để dâng
lễ; nay nằm trên bàn ăn của hạng giàu có. Và để phòng ăn của họ trở nên như đền
thờ, họ nghêu ngao dạo nhạc như Ðavít. Họ dùng rượu và xức dầu thượng hạng như
các tư tế vào dịp lễ lớn. Ít nhất họ cũng đã mang các thứ quen dùng trong đền
thờ ra mà ăn uống. Ðạo của họ bây giờ nằm trong những thứ này. Và vì thế Amos
muốn dùng những từ ngữ vừa diễn tả nếp sống thực tế của họ, vừa đồng thời khẳng
định tôn giáo của họ bây giờ là thế đó. Với những con người đã đầy đủ, Chúa của
họ bây giờ là "cái bụng" cũng như đối với những kẻ đang làm giàu: tiền
mới là chúa tể. Và đối với cả hai hạng người, nhân dân, đồng bào không còn là
gì nữa. Sống chết mặc bay; Giuse có tang thương, Ephraim có đau ốm, cũng chẳng
thèm biết. Tương lai dân tộc có làm sao, họ cũng chẳng để ý.
Nhưng họ dại và ngốc. Ðó là những tĩnh từ quen thuộc
dùng trong Kinh Thánh để nói về họ, định mệnh sẽ đến chộp lấy họ đang lúc bất
ngờ nhất. Và ở đây Amos nói: họ sẽ là những người bị bắt đi lưu đày đầu tiên; họ
sẽ cầm đầu đoàn người bị phát lưu, vì khi các thành trì bảo vệ quyền lợi của
giai cấp thống trị sụp đổ, bọn này sẽ là những nạn nhân đầu tiên và khốn nạn nhất.
Amos nói như vậy thì chưa đưa sang bình diện tôn
giáo. Ông đã có quan niệm tôn giáo để quan sát và phân tích nếp sống trụy lạc của
giai cấp có của và thống trị. Nhưng khi nói về định mệnh, tương lai của hạng
người này, ông vẫn chỉ chờ một cuộc đổi thay xã hội và những hình phạt trần
gian. Chúng ta sẽ không thấy như vậy trong bài Tin Mừng là mạc khải sẽ đầy đủ
hơn.
2. Ðịnh
Mệnh Của Những Người Giàu Có
Chúng ta ai cũng thuộc nằm lòng câu chuyện người phú
hộ và Lazarô ăn mày. Nhưng chưa chắc chúng ta đã hiểu như nhau và nhất là biết
hiểu đúng ý của tác giả Luca.
Thánh Luca kể rằng có một người phú hộ ăn mặc gấm
tía và lụa mịn, ngày ngày yến tiệc linh đình. Nếp sống của ông ta làm cho chúng
ta nhớ lại bài sách của Amos. Và quả thật, ông ta chỉ biết ăn uống, chứ đâu có
để mắt tới đồng bào, đồng loại gì... Có người ăn mày tên là Lazarô, nằm ở cổng
nhà ông chỉ mong được miếng thừa nào trên bàn của ông liệng xuống mà vẫn không
được. Cũng là hai con
người, nhưng là hai thân phận. Tác giả Luca không cần mô tả thêm con người giàu
có. Ðã có Amos kể thay rồi. Ngòi bút của Luca chú ý hơn để vẽ hình ảnh người ăn
mày.
Ðây là lần duy nhất trong tác phẩm, Luca đã đặt cho nhân vật trong bài dụ
ngôn một tên. Thế nên chúng ta đừng nghĩ đây là một tên thật, và muốn đồng hóa
với Lazarô em của Mátta và Maria. Hai chị em này đâu có nghèo đến nỗi bắt em phải
đi ăn xin; Lazarô trong tác phẩm của Gioan (chương 1) không lở lói, hôi thối đến
nỗi người ta phải khiêng vứt ở cổng nhà người phú hộ. Ðàng khác, dụ ngôn không
phải là những câu chuyện có thật, mà chỉ là những câu chuyện có khả năng xảy ra
để giúp chúng ta có một bài học đạo đức.
Nhưng tại sao tác giả Luca lại muốn gọi tên người ăn mày là Lazarô? Ðể
chúng ta liên tưởng đến người em trai của hai chị em Mátta và Maria được Chúa
thương cho sống lại? Và như vậy Luca muốn báo trước số phận tốt đẹp chung cuộc
của người ăn xin. Và khi mô tả Lazarô lở lói, bị vứt ở cổng nhà người phú hộ,
có lẽ tác giả muốn lấy lại hình ảnh ông Yob và xác định đây là con người nghèo
khó công chính, bị bạc đãi ở đời này nhưng chỉ là tạm thời, vì chung cuộc tương
lai sẽ rất tốt. Hơn nữa, trong tiếng Do Thái, từ ngữ Lazarô có nghĩa là
"Thiên Chúa cứu giúp". Tác giả Luca muốn nói rằng: những con người
nghèo khó là những kẻ đang cần được và sẽ được Thiên Chúa cứu giúp; họ là thành
phần được Người quan tâm, chiếu cố và yêu mến. Và Người sẽ bắt tất cả mọi sự phục
vụ những con người này, nên ở đây ngay bầy chó hoang, thường chỉ đi xâu xé, thế
mà đối với Lazarô chúng cũng dễ thương lạ lùng, đến liếm các ung nhọt cho ông.
Và điều này càng nói lên ác tâm bất nhẫn của người phú hộ hơn nữa.
Như vậy, việc giới thiệu hai nhân vật đã xong. Tác giả Luca nói đến câu
chuyện xảy ra. Lazarô chết và được các Thiên Thần đưa lên dự tiệc ngay nơi lòng
Abraham; còn người nhà giàu cũng chết và được tống táng. Chỉ hai câu nói thôi,
nhưng đầy ý nghĩa. Người Do Thái quan niệm rằng các người công chính sau khi chết,
sẽ được các thiên thần đưa lên trời dự tiệc, giữa cộng đoàn dân Chúa có tổ phụ
Abraham chủ tọa. Và ai cũng được yêu, càng được ngồi gần vị tổ phụ. Kiểu nói
"ngồi trong lòng Abraham" chỉ muốn diễn tả chỗ ngồi đặc biệt và tình
âu yếm ấy. Số phận của Lazarô đã đổi thay hoàn toàn. Không do một biến động
chính trị như Amos đã gợi đến trong bài sách hôm nay. Cũng không như tác giả
sách Yob đã nói rằng ông này được lại hết mọi sự ở đời này và được gấp trăm, gấp
nghìn. Ở đây việc đổi thay số phận xảy ra ở bên kia thế giới, sau khi con người
đã chết. Ðó là bình diện Nước Trời chứ không còn phải trong phạm vi trần gian.
Chúng ta hãy đọc tiếp để thấy quan niệm của tác giả Luca về đời sau và định
mệnh chung cuộc của hai nhân vật trong bài dụ ngôn. Vậy, Lazarô được đưa lên trời,
còn người phú hộ thì được đem đi tống táng. Một người ở trên và một người ở dưới.
Kẻ ở dưới ngước mắt lên thấy hạnh phúc người ở trên. Thấy mình đang nóng nảy
trong lửa, còn Lazarô thì đang an thái nơi lòng của Abraham; kẻ khổ sở tự nhiên
phải buột miệng kêu lên. Xin Cha Abraham nói với Lazarô nhỏ xuống cho một chút
nước để đỡ khổ. Nhưng y đã không hiểu gì. Và Abraham phải cắt nghĩa: bây giờ sự
đổi thay đã dứt khoát và hố sâu ngăn cách giữa hai thế giới hạnh phúc và khổ sở
không thể bắc cầu được nữa. Kẻ xưa khổ thì nay sướng và kẻ xưa sướng thì nay khổ.
Chứ không như ngày xưa khi ở trên mặt đất kẻ sướng có thể đến với kẻ khổ mà
chia sẻ... Nhưng vì đã không muốn làm việc ấy, nên giờ đây y đừng hy vọng bắt
được nhịp cầu hiệp thông...
Câu chuyện dĩ nhiên có thể chấm dứt ở chỗ này. Và đã có nhiều bài học cho
chúng ta. Ngoài những quan niệm về đời sau như: định mệnh của người lành kẻ dữ
đã khác nhau ngay từ sau khi chết và trước ngày phán xét chung; định mệnh ấy đã
dứt khoát không thay đổi được nữa vì đã hết thời có thể lập công phúc; ở đây
khi mô tả sự thay đổi số phận của hai người trong khi sống và sau khi chết, tác
giả Luca có ý diễn tả một giáo huấn thông thường của Ðức Giêsu, đó là việc Nước
Trời được dành cho những kẻ nghèo khó; vì Thiên Chúa sẽ cứu giúp họ và kẻ tự
mãn ở đời này sẽ ra đi tay không về đời sau.
Nhưng tác giả Luca đã không dừng lại ở những điểm này. Người muốn kêu gọi
người ta "trở lại". Ðặc biệt ở đây, Người muốn nói với những người Do
Thái có Abraham là tổ phụ. Họ phải thay đổi đường lối để không bị loại ra khỏi
Nước Trời sau này. Tác giả Luca biết rõ họ rất cứng lòng. Trước đây khi Ðức
Giêsu còn đang giảng đạo họ đòi phải thấy phép lạ điềm thiêng. Người bảo họ sẽ
chẳng được xem dấu lạ nào, ngoài dấu hiệu của tiên tri Giona, tức là ngoài sự
kiện chính Người sẽ sống lại ngày thứ ba sau khi chịu chết. Nay việc đó đã xảy
ra rồi; thế mà Luca vẫn thấy họ cứng lòng. Nên hôm nay, tác giả đau đớn dùng miệng
Abraham mà nói: dẫu cho có ai sống lại từ cõi chết, chúng cũng chẳng ngã lẽ
đâu! Và đối với người Do Thái, chỉ còn lại hy vọng là họ hãy nghe Môsê và các
tiên tri. Ấy là chưa kể chính mầu nhiệm Ðức Giêsu chịu chết và phục sinh, muốn
hiểu được cũng phải tựa vào lời sách thánh kể từ Môsê cho tới các tiên tri, như
chính Chúa sống lại đã làm như thế để giúp đỡ các đức tin của các tông đồ.
Như vậy bài Tin Mừng Luca hôm nay có những ý tưởng mà thoạt nghe chúng ta
đã chưa nhận ra. Người đã không thuật lại câu chuyện Ðức Giêsu đã kể, một cách
đơn giản đâu. Vẫn biết khi kể chuyện người phú hộ và Lazarô ăn mày, Chúa đã có
ý kêu gọi thính giả của Người là người Do Thái, phải trở lại. Chúa cũng đã muốn
thúc giục họ tin vào Môsê và các tiên tri vì các ông này vẫn làm chứng về Người.
Nhưng chắc chắn khi Chúa nói: dẫu có ai sống lại từ cõi chết chúng cũng chẳng
ngã lẽ đâu, người nghe lúc bấy giờ chưa hiểu một cách thấm thía như tác giả
Luca sẽ hiểu sau này và như chúng ta vừa trình bày ở trên.
Dù sao ý tưởng chính của tác giả vẫn là muốn kêu gọi người ta trở lại và
thay đổi nếp sống chỉ biết có cái bụng của mình mà không nghĩ đến ai. Thực ra
đó cũng là ý của Amos khi ông dùng hình phạt lưu đày để đe dọa những kẻ sống đầy
đủ mà ích kỷ. Chỉ có điều ông chưa nghĩ đến đời sau và bình diện Nước Trời một
cách sâu sắc như tác giả Luca. Nhưng có như vậy Tân Ước mới hoàn tất Cựu Ước!...
Tuy nhiên Tân Ước nơi các sách Tin Mừng, tức là giáo huấn đầy đủ của Chúa Giêsu
cũng còn cần phải được triển khai. Và hôm nay tác giả thư Timôthê giúp chúng ta
thi hành giáo huấn của Chúa.
3. Nếp Sống
Và Ðịnh Mệnh Của Chúng Ta
Tác giả đi từ chỗ nhất trí với Amos và Luca, tức là người của Thiên Chúa
thì phải lánh xa nếp sống của những kẻ tham lam tiền của và giàu có dư dật (xem
6,7-11a). Thay vào đó hãy theo đuổi công chính và đạo đức. Và cho được như vậy
phải sống ba nhân đức: tin, cậy, mến. Riêng Timôthê, tuổi còn trẻ và đang đứng
đầu giáo đoàn, hãy bắt chước lòng từ tâm của Chúa Giêsu và đó là tư cách Phúc
Âm của những người giữ trọng trách trong Hội Thánh.
Nếp sống đạo đức như vậy chính là nếp sống đức tin, một nếp sống đòi phải
phấn đấu rất nhiều. Nhưng có nhiều lý do có thể trở thành động lực thúc đẩy người
của Thiên Chúa trong cuộc chiến chính nghĩa này. Nào là sự sống đời đời đang chờ
họ ở trên bình diện Nước Trời; nào là lời hứa đáp trả tiếng Chúa gọi mà họ đã
tuyên xưng trước mặt Chúa và ở giữa cộng đồng các thánh. Nhưng nhất là gương
sáng của Ðức Giêsu Kitô đã tuyên chứng trước mặt Philatô. Chính Người sẽ lại xuất
hiện trong ngày sau hết để làm sáng tỏ giá trị của hết mọi người.
Những lý lẽ này là những đề tài để suy niệm không cùng. Nhưng tất cả đều
qui về Ðức Giêsu Kitô. Tác giả bài thư Timôthê bảo chúng ta cứ chiêm ngưỡng Người
thì thấy phải đổi mới đời sống như thế nào...
Chúng ta sắp thể hiện mầu nhiệm của Người trên bàn thờ. Ðặc biệt chúng ta
sẽ nhờ đến cuộc tuyên chứng của Người trước mặt Philatô, tức là cuộc tử nạn
vinh hiển của Người. Người đã can đảm quảng đại "vượt qua" như thế
nào để chúng ta bắt chước mà từ bỏ đời sống cũ và mặc lấy tinh thần mới. Nếu
trước đây chúng ta còn ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân mình ở đời này, thì từ nay
chúng ta cố gắng hơn vừa vươn lên bình diện Nước Trời và hướng về đời sau, vừa
phải quảng đại và bác ái nghĩ đến tha nhân và xã hội. Ðó là những mặt không thể
thiếu trong nếp sống mới và các bài Kinh Thánh hôm nay muốn chúng ta đem thực
hành nhờ ơn Chúa.
(Trích
dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức
cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời
Chúa Mỗi Ngày
Chúa
Nhật 26 Thường Niên, Năm C
Bài
đọc: Amo 6:1a, 4-7; 1 Tim
6:11-16; Lk 16:19-31.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải biết quản lý của cải Thiên Chúa ban.
Bài học giáo dục về việc xử dụng tiền
của đúng chỗ và đúng mức rất cần cho cuộc sống, vì đại đa số con người qua bao
thời đại đều không biết bài học này. Hậu quả là không biết bao nhiêu người rơi
vào cám dỗ của bẫy tiền mà quỉ thần đã khôn khéo giăng ra, để rồi phải chịu những
hậu quả tai hại cho bản thân, cho gia đình, cho xã hội và Giáo Hội, cả đời này
và đời sau.
Các bài đọc hôm nay rất cần thiết để
các tín hữu chúng ta học hỏi và suy xét, để rồi rút ra những bài học cụ thể cho
chính mình trong cách xử dụng tiền của và giáo dục những người chúng ta có
trách nhiệm.
Trong bài đọc I, ngôn sứ Amos cảnh cáo
vua chúa và những nhà lãnh đạo trong cả hai vương quốc Israel và Judah, đã lạm
dụng chức quyền để lãng phí tiền của vào những cuộc vui chơi trác táng, mà
không chịu hoàn thành sứ vụ được trao là lo cho dân hiểu biết Thiên Chúa và mưu
cầu cơm no áo ấm cho mọi người trong nước. Trong bài đọc II, thánh Phaolô
khuyên môn đệ của mình hãy tránh xa mọi cám dỗ bất chính do lòng ham mê tiền của
gây ra, và biết dùng thời giờ để luyện tập nhân đức để giành cho được cuộc sống
đời đời mà Thiên Chúa đã hứa cho các tín hữu trong ngày Đức Kitô quang lâm.
Trong Phúc Âm, thánh Lucas đưa ra câu truyện của hai nhân vật: ông đại phú và
anh dân nghèo Lazarô, để nhắc nhở mọi người hãy biết sống làm sao để đạt hạnh
phúc đời đời, vì cuộc sống đời sau là phản ngược của cuộc sống đời này.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Khốn cho những
ai chẳng biết đau lòng trước cảnh nhà Giuse sụp đổ!
1.1/ Người giầu làm những việc vô nghĩa.
Ngôn sứ Amos viết những lời khiển
trách nặng nề này tại vương quốc Israel cho cả vua chúa và các nhà lãnh đạo tại
hai vương quốc Judah và Israel, khi cả hai vương quốc này chưa bị thất thủ và
lưu đày: “Khốn cho những kẻ sống yên ổn tại Sion, và sống an nhiên tự tại trên
núi Samaria.” Sion là thủ đô của vương quốc Judah và Samaria là thủ đô của
vương quốc Israel. Những nhà lãnh đạo tại Sion nghĩ họ đã có Đền Thờ Jerusalem,
nơi Thiên Chúa ngự trị; vì thế, sẽ không có quyền lực nào có thể phá nổi Nhà của
Đức Chúa. Những nhà lãnh đạo của Samaria cũng nghĩ tương tự như thế, vì chính
Thiên Chúa đã ra lệnh tách quốc gia ra làm đôi, và họ cũng có đền thờ của Đức
Chúa tại Bethel bảo vệ. Họ nghĩ là quốc gia cứ an vui như vậy mãi để họ tiếp tục
hưởng thụ của cải họ đang có. Hai điều mà ngôn sứ Amos liệt kê:
(1) Giầu có làm con người tốn của vào
những việc vô ích: Giường là chỗ để nghỉ ngơi dưỡng sức, con người chỉ cần một
khung giường và một tấm phản, hay một tấm nệm cho những ai sợ đau lưng; chứ con
người không cần một giường làm bằng ngà voi, hay gỗ quí, hay cẩn xà cừ. Tất cả
những thứ phụ thuộc đó chỉ là để phô trương sự giàu có của mình. Theo phong tục
Do-thái, giết chiên non hay bê béo thường là để làm của lễ hy sinh hay tiếp đón
khách quí; chứ không phải là điều làm thường xuyên hay mỗi ngày.
(2) Giầu có làm con người tốn thời gian cho việc hưởng thụ: Phú quí sinh lễ nghĩa hay ăn no rồi rửng mỡ. Thay vì phải dùng thời giờ cho những việc dạy dỗ và quản trị dân chúng, sau khi đã no say, họ lại quay qua đàn hát để giải trí. Họ sáng chế nhạc cụ để ca hát những bài ca đã nghe được trong cung điện các nơi, như để biểu lộ sự giàu sang hưởng thụ của triều đại mình.
(2) Giầu có làm con người tốn thời gian cho việc hưởng thụ: Phú quí sinh lễ nghĩa hay ăn no rồi rửng mỡ. Thay vì phải dùng thời giờ cho những việc dạy dỗ và quản trị dân chúng, sau khi đã no say, họ lại quay qua đàn hát để giải trí. Họ sáng chế nhạc cụ để ca hát những bài ca đã nghe được trong cung điện các nơi, như để biểu lộ sự giàu sang hưởng thụ của triều đại mình.
1.2/ Họ chẳng biết đau lòng trước cảnh
nhà Giuse sụp đổ: Nhà Giuse mà ngôn sứ Amos dùng ở đây
ám chỉ sự sắp sụp đổ của cả hai vương quốc. Theo ông, hai tội to lớn mà vua
chúa và toàn dân đã xúc phạm đến Thiên Chúa:
(1) Bỏ quên Thiên Chúa: Vua chúa và
các nhà lãnh đạo đã chạy theo tiền của và bỏ quên Thiên Chúa. Họ không còn nghĩ
đến những lời dạy bảo của Thiên Chúa; vì nếu nghĩ tới, họ sẽ không dám làm như
vậy.
(2) Bất công xã hội: Giầu có thường
liên quan đến bất công xã hội. Một số những bất công ngôn sứ Amos đã liệt kê
trong những chương trước như: thâm lạm công quĩ, ăn của hối lộ, lấy của người
nghèo, mua bán gian lận…
Hậu quả là cả hai vương quốc sẽ bị
quân thù phương Bắc san phẳng và đem đi lưu đày. Vua chúa và những nhà lãnh đạo
sẽ là những người dẫn đầu trong cuộc lưu đày và họ sẽ nhận ra tội lỗi của họ đã
xúc phạm đến Thiên Chúa. Những lời tiên báo của ngôn sư Amos đã trở thành hiện
thực khi vương quốc miền bắc bị thất thủ năm 721 BC bởi Assyria, và vương quốc
miền Nam bị thất thủ năm 587 BC. bởi tay vua Babylon.
2/ Bài đọc II: Hãy tuân giữ
điều răn của Chúa mà sống cho tinh tuyền, không chi đáng trách.
2.1/ Cách sống của người môn đệ Chúa: Phaolô gọi Timothy, môn đệ của mình, với một danh
xưng cao trọng là “người của Thiên Chúa.” Trong Cựu Ước, Moses và các ngôn sứ
được gọi là người của Thiên Chúa. Mục đích của Phaolô là khuyên Timothy phải sống
đúng với danh xưng này, người của Thiên Chúa phải sống khác với người của thế
gian. Phaolô liệt kê những điều Timothy phải làm:
(1) Hãy tránh xa những cám dỗ mà giầu
có mang lại: Dựa vào những gì Phaolô đã nói trước trình thuật hôm nay, “những
điều đó” chỉ lòng lo lắng những sự đời này và bỏ quên Thiên Chúa để chạy theo
những cám dỗ của tiền bạc mang lại.
(2) Hãy cố gắng luyện tập nhân đức: để
trở nên người công chính, đạo đức, giàu lòng tin và lòng mến, hãy gắng sống nhẫn
nại và hiền hoà. Khi không chịu ảnh hưởng của tiền của, các tín hữu sẽ có khôn
ngoan và nhiều thời gian để học hỏi và luyện tập nhân đức theo những đòi hỏi của
Thiên Chúa.
(3) Hãy giành cho được sự sống đời đời:
Đây là lý do cao trọng và trên hết mà các tín hữu phải luôn nhớ mình được kêu gọi
để đạt tới. Thánh Phaolô có lẽ nhắc lại lời tuyên xưng của Timothy khi chịu
phép Rửa Tội là bỏ tà thần và mọi quyến rũ bất chính của nó, đồng thời tuyên
xưng đức tin vào Thiên Chúa và cuộc sống đời đời. Thánh Phaolô cũng cho Timothy
một mẫu gương để Timothy noi theo là gương của Đức Kitô. Ngài đã can đảm tuyên
nhận mình là “Vua dân Do-thái;” cho dẫu lời tuyên xưng này đem lại bản án tử
hình cho Ngài.
(4) Hãy tuân giữ điều răn của Chúa mà
sống cho tinh tuyền, không chi đáng trách.
2.2/ Đức Kitô sẽ xuất hiện và ban phần
thưởng là cuộc sống đời đời. Thánh Phaolô
cũng nhắc lại hai điều cốt cán của đức tin: (1) Đức Kitô sẽ trở lại để phán xét
con người: Con người sẽ phải trả lời với Ngài và chịu trách nhiệm cho những gì
họ đã làm trên trần gian. (2) Thiên Chúa là Đấng duy nhất mà mọi người phải hướng
về, chứ không phải là của cải thế gian hay bất kỳ điều gì khác.
3/ Phúc Âm: Hậu quả của hai lối sống trái ngược nhau
3.1/ Cuộc sống đời này
(1) Lối sống vô tâm của phú gia: Quần
áo chỉ là vật dùng để che thân, trong khi người nghèo không có quần áo đủ để mặc,
ông nhà giàu mặc “toàn lụa là gấm vóc.” Lương thực giúp cho con người có đủ
dinh dưỡng để sinh sống, trong khi người nghèo không có một bữa ăn no, ông nhà
giàu “yến tiệc linh đình hằng ngày.”
(2) Cuộc sống đau khổ nhưng tin tưởng
nơi Thiên Chúa của Lazarô: Lazarô không những nghèo còn mang bệnh tật đau đớn
trên mình. Ông nằm trước cổng ông nhà giàu, thèm được ăn những thứ trên bàn ăn
của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc
anh ta.
Chúng ta không thể suy tán những gì
trình thuật không đề cập tới, chúng ta chỉ có thể chú trọng đến hai tội của ông
nhà giàu: (1) Ông không quan tâm gì đến nhu cầu của tha nhân: Lazarô nằm trước
cửa nhà ông, khi ra vào lui tới ông đều gặp; nhưng ông đã quá hững hờ, vô tâm,
vô cảm trước sự thiếu thốn và nỗi đau của đồng loại. (2) Ông không nghĩ gì đến
cuộc sống đời sau hay kể gì đến lời dạy của Thiên Chúa; nếu ông nghĩ, ông sẽ
không làm như thế.
Thế rồi người nghèo này chết, và được
thiên thần đem vào lòng ông Abraham. Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem
chôn.
3.2/ Cuộc sống đời sau: là ngược hẳn lại những gì của cuộc sống đời này.
(1) Của ông nhà giàu: Ông không một
chút quan tâm gì đến sự nghèo đói và đau đớn vì ghẻ lở của Lazarô, chưa bao giờ
ông bố thí cho Lazarô một mẩu bánh; thế mà giờ đây ông lại xin: “Lạy tổ phụ
Abraham, xin thương xót con, và sai anh Lazarô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ
trên lưỡi con cho mát; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm!” Chúa Giêsu đã từng
nói: Anh dùng đấu nào đong cho tha nhân Thiên Chúa cũng dùng đấu ấy đong lại
cho anh.
(2) Của Lazarô: Tên tiếng Do-thái là
Eleazar, có nghĩa: Thiên Chúa là nguồn hy vọng của con. Tổ phụ Abraham cắt
nghĩa rõ ràng về hậu quả của hai lối sống cho ông nhà giàu và cho Lazarô: “Con
ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi; còn Lazarô
suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, Lazarô được an ủi nơi đây, còn
con thì phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực
thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có
qua bên chúng ta đây cũng không được.”
3.3/ Làm sao trị bệnh vô tâm, hờ hững? Ông nhà giàu vẫn còn thương nhớ đến tình ruột thịt
nên nài nỉ tổ phụ Abraham: “Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh Lazarô đến
nhà cha con, vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ,
kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này!” Tổ phụ Abraham đáp: “Chúng đã có
Moses và các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó.”
Đây là lời cảnh tỉnh cho những người
vô tâm, hờ hững. Không phải khi thấy phép lạ xảy ra hay người chết hiện về là một
người thay đổi lối sống. Họ phải chịu khó bỏ giờ học hỏi và nghiên cứu những lời
dạy của Moses và các ngôn sứ, để hiểu rõ và sau đó mang ra áp dụng trong cuộc sống
hằng ngày. Bệnh vô tâm hững hờ không trị liệu bằng các phép lạ; nhưng là bắt đầu
bằng việc biết sự thật và sống theo sự thật.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Của cải Thiên Chúa ban là của chung
cho mọi người được hưởng. Con người không được ích kỷ để chỉ biết tiêu xài cho
mình, mà không biết quan tâm đến những người nghèo khổ chung quanh. Chúng ta
hãy có tinh thần tương thân tương ái để giúp đỡ những anh chị em túng nghèo.
Giúp đỡ họ được kể là giúp đỡ chính Thiên Chúa.
– Hãy luyện tập để có trái tim biết
rung động và dạy cho con cái có lòng thương xót người nghèo. Nếu không, trái
tim dần sẽ trở thành chai đá không còn biết cảm thương đồng loại nữa. Một trái
tim như thế sẽ gây nhiều khổ đau cho chính mình và cho tha nhân.
– Thiên Chúa không luận phạt sự giầu
có, Ngài cũng không biểu dương sự nghèo đói; điều Ngài muốn nhấn mạnh là phải
biết quản lý khôn khéo sự giầu có Ngài ban cho để mưu cầu lợi ích cho bản thân ở
đời này và nhất là cho cuộc sống đời đời mai sau.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
29/09/2019
– CHÚA NHẬT TUẦN 26 TN – C
Lc
16,19-31
NIỀM
TIN LÀ GIẢI PHÁP
“Mô-sê
và các ngôn sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng
chịu tin.” (Lc 16,31)
Suy niệm: Phân hóa giàu – nghèo vẫn luôn là vấn
nạn lớn của xã hội, khó có thể giải quyết tận căn. Đã có bao vĩ nhân, nhà cách
mạng với những quan điểm, triết thuyết mới mẻ mong thu hẹp khoảng cách ấy,
nhưng rốt cuộc ‘miêu lại hoàn mèo.’ Trong dụ ngôn La-da-rô và người phú hộ, Đức
Giê-su đã soi sáng cho vấn đề xã hội muôn thuở này. Với các tín hữu, niềm tin
vào sự sống đời sau giúp ta quảng đại chia sẻ, vui vẻ cho đi, thu hẹp khoảng
cách bất bình đẳng giữa người với người. Chỉ vì không đặt niềm tin vào Thiên
Chúa, con người đã để cho lòng tham của cải thế gian chiếm mất lòng họ, “mặc
toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình,” (c.19) đến độ không còn thấy
ai khác ngoài bản thân. Niềm tin chính là đôi mắt thần giúp ta nhìn thấy tha
nhân đang đau khổ, là chìa khóa hóa giải mọi khoảng cách giữa người với người.
Mời Bạn: “Chơi đi kẻo để xuân tàn, cái già xồng
xộc nó liền theo sau,” câu ca dao bình dân phản ảnh quan niệm của con người mọi
thời, người ta dễ cho phép mình hưởng thụ tối đa bất chấp sự khốn cùng của người
khác. Lương tâm Ki-tô hữu chúng ta nghĩ gì về tình trạng này?
Sống Lời Chúa: Tôi
tập nhìn thấy khuôn mặt Chúa Ki-tô nơi những người nghèo khổ, để luôn kính trọng,
quí mến và sẵn sàng làm những gì có thể hầu giúp họ vượt khó.
Cầu nguyện: “Lạy
Chúa, con được no nê mà vẫn thiếu ăn, vì bên con còn có người đói lả. Con
uống nước mà họng vẫn khô ran, vì bên con còn có người đang khát…” Xin Chúa
giúp con khỏa lấp mọi nỗi khốn cùng nơi anh chị em con. Amen. (theo
Myrtle Householder).
(5 Phút Lời Chúa)
Hai khuôn mặt trái ngược
nhau (29.9.2019 – Chúa nhật 26 Thường niên
năm C)
Suy Niệm
Dụ ngôn cho ta thấy hai khuôn mặt trái
ngược nhau:
một ông nhà giàu dư ăn dư mặc,
một anh nhà nghèo bệnh tật nằm đói lả,
không đủ sức xua đuổi những con chó đến quấy rầy.
Hai người ở gần nhau,
chỉ cách nhau một cái cổng vẫn thường khép,
nhưng lại thật xa nhau.
Ông nhà giàu biết mặt, biết tên anh nhà nghèo,
nhưng ông chẳng mảy may quan tâm,
vì ông bận tổ chức tiệc tùng và mời quan khách.
một ông nhà giàu dư ăn dư mặc,
một anh nhà nghèo bệnh tật nằm đói lả,
không đủ sức xua đuổi những con chó đến quấy rầy.
Hai người ở gần nhau,
chỉ cách nhau một cái cổng vẫn thường khép,
nhưng lại thật xa nhau.
Ông nhà giàu biết mặt, biết tên anh nhà nghèo,
nhưng ông chẳng mảy may quan tâm,
vì ông bận tổ chức tiệc tùng và mời quan khách.
Ladarô đã chết trong cảnh đói nghèo và
bệnh tật.
Ông nhà giàu cũng chết.
Cái chết đồng đều cho mọi người,
nhưng số phận sau cái chết lại khác nhau.
Không phải chỉ vì giàu mà ông nhà giàu bị phạt,
nhưng vì ông đã khép cửa và khép lòng,
đã ung dung hưởng thụ quyền sở hữu “hợp pháp”,
đã không chấp nhận chia sẻ điều mình có dư thừa.
Ông nhà giàu hẳn đã thấy Ladarô,
nhưng đã sống như thể không có anh ta,
vì ông loay hoay vun quén cho hạnh phúc của mình.
Không phải chỉ vì nghèo mà anh nhà nghèo được thưởng,
được hạnh phúc ngồi trong lòng tổ phụ Abraham,
nhưng vì anh chấp nhận số phận hẩm hiu của mình,
và trông cậy vào sự trợ giúp của Thiên Chúa.
Ông nhà giàu cũng chết.
Cái chết đồng đều cho mọi người,
nhưng số phận sau cái chết lại khác nhau.
Không phải chỉ vì giàu mà ông nhà giàu bị phạt,
nhưng vì ông đã khép cửa và khép lòng,
đã ung dung hưởng thụ quyền sở hữu “hợp pháp”,
đã không chấp nhận chia sẻ điều mình có dư thừa.
Ông nhà giàu hẳn đã thấy Ladarô,
nhưng đã sống như thể không có anh ta,
vì ông loay hoay vun quén cho hạnh phúc của mình.
Không phải chỉ vì nghèo mà anh nhà nghèo được thưởng,
được hạnh phúc ngồi trong lòng tổ phụ Abraham,
nhưng vì anh chấp nhận số phận hẩm hiu của mình,
và trông cậy vào sự trợ giúp của Thiên Chúa.
Thế giới văn minh lại càng đào sâu hố
ngăn cách
giữa nước giàu và nước nghèo,
giữa thiểu số người giàu và đa số người nghèo.
Chính tôi cũng giàu về một mặt nào đó:
giàu trí tuệ, giàu bạn bè, giàu thế lực,
giàu chỗ đứng trong xã hội, giàu đời sống thiêng liêng.
Hố sâu chỉ được lấp đầy
bằng cách mở tung cánh cửa yêu thương và chia sẻ,
nhìn nhận tài nguyên thế giới là của mọi người,
nhìn nhận quyền sống của từng người,
sống như một nhân vị, sống như con cái Thiên Chúa,
sống như anh chị em tôi.
giữa nước giàu và nước nghèo,
giữa thiểu số người giàu và đa số người nghèo.
Chính tôi cũng giàu về một mặt nào đó:
giàu trí tuệ, giàu bạn bè, giàu thế lực,
giàu chỗ đứng trong xã hội, giàu đời sống thiêng liêng.
Hố sâu chỉ được lấp đầy
bằng cách mở tung cánh cửa yêu thương và chia sẻ,
nhìn nhận tài nguyên thế giới là của mọi người,
nhìn nhận quyền sống của từng người,
sống như một nhân vị, sống như con cái Thiên Chúa,
sống như anh chị em tôi.
Mỗi người chúng ta đều có một Ladarô
chờ ngoài cửa,
nếu chúng ta mở cửa và mời người đó đồng bàn,
thì chúng ta sẽ trở nên người giàu có thực sự,
và trưởng thành viên mãn trong nhân cách.
nếu chúng ta mở cửa và mời người đó đồng bàn,
thì chúng ta sẽ trở nên người giàu có thực sự,
và trưởng thành viên mãn trong nhân cách.
Dù người chết hiện về, dù kẻ chết sống
lại
cũng chẳng làm chúng ta hết chai đá.
Chỉ Lời Chúa mới khiến chúng ta sám hối ăn năn,
mở lòng trước tha nhân và Thiên Chúa (x. 1Ga 3,17).
cũng chẳng làm chúng ta hết chai đá.
Chỉ Lời Chúa mới khiến chúng ta sám hối ăn năn,
mở lòng trước tha nhân và Thiên Chúa (x. 1Ga 3,17).
Cầu Nguyện
Lạy Chúa,
xin cho con nhìn thấy
những người nghèo ở quanh con,
ở trong gia đình con, đang cần đến con.
Bất cứ ai đang cần đến con đều là người nghèo,
xin cho con thấy Chúa trong họ.
xin cho con nhìn thấy
những người nghèo ở quanh con,
ở trong gia đình con, đang cần đến con.
Bất cứ ai đang cần đến con đều là người nghèo,
xin cho con thấy Chúa trong họ.
Dần dần con hiểu rằng
cả người giàu cũng nghèo,
nghèo vì cần thấy đời họ có ý nghĩa.
Dần dần con chấp nhận rằng
cả bản thân mình cũng nghèo
và cần đến người khác.
Lắm khi con cần một nụ cười,
một ánh mắt,
một lời thăm hỏi đỡ nâng.
cả người giàu cũng nghèo,
nghèo vì cần thấy đời họ có ý nghĩa.
Dần dần con chấp nhận rằng
cả bản thân mình cũng nghèo
và cần đến người khác.
Lắm khi con cần một nụ cười,
một ánh mắt,
một lời thăm hỏi đỡ nâng.
Cám ơn Chúa vì đã dựng nên chúng con
ai cũng nghèo về một mặt nào đó
và ai cũng cần đến người khác.
Như thế là chúng con được mời gọi sống cho nhau,
làm cho nhau thêm giàu có.
Cám ơn Chúa vì Chúa cũng nghèo,
vì Chúa rất cần đến chúng con
để hoàn thành công trình cứu độ.
ai cũng nghèo về một mặt nào đó
và ai cũng cần đến người khác.
Như thế là chúng con được mời gọi sống cho nhau,
làm cho nhau thêm giàu có.
Cám ơn Chúa vì Chúa cũng nghèo,
vì Chúa rất cần đến chúng con
để hoàn thành công trình cứu độ.
Xin cho con
khiêm tốn nhận mình nghèo để nhận lãnh
can đảm nhận mình giàu để hiến trao. Amen.
khiêm tốn nhận mình nghèo để nhận lãnh
can đảm nhận mình giàu để hiến trao. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy
Nâng Tâm Hồn Lên
29 THÁNG CHÍN
Một Cuộc Bắt Đầu Mới Trong Đức Kitô
Chiều hôm trước ngày chịu tử nạn Thập
Giá, Đức Kitô đã nói với các tông đồ: “Thánh Thần… sẽ làm chứng về Thầy; và cả
anh em nữa cũng sẽ là những chứng nhân…” (Ga 15,26-27, RSV).
Những lời này cũng còn nhắm nói với từng
người đến lãnh nhận Bí Tích Thêm Sức. Bí tích này là một dấu chỉ của một cuộc bắt
đầu mới trong Đức Kitô. Ý thức về sức mạnh của Chúa Thánh Thần và ý thức về di
sản tông truyền phong phú vẫn còn tiếp tục trong Giáo Hội từ thế hệ này sang thế
hệ khác, các bạn trẻ không thể tách mình ra khỏi ân huệ này. Không, các bạn
không đứng ngoài!
Nguyện xin Chúa Thánh Thần tác động
trong tâm hồn các bạn, như Ngài đã tác động trong tâm hồn các tông đồ xưa khi
các ngài được sai đi loan báo Tin Mừng. Các bạn hãy ý thức về ân sủng của Thiên
Chúa mà các bạn đã lãnh nhận! Hãy kiên vững trong đức tin của các bạn và hãy mạnh
mẽ tuyên xưng đức tin ấy! Hãy sống theo những chân lý của đức tin ấy! Hãy nhớ rằng
Thiên Chúa muốn được tôn thờ cách đích thực. Ngài muốn các bạn tôn thờ Ngài
trong Thánh Thần và chân lý (Ga 4,23).
Quả thực, đây là một mầu nhiệm vĩ đại.
Thiên Chúa là Thánh Thần!
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
Lời
Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 29/ 9
Chúa Nhật XXVI thường niên
Am 6, 1a.4-7; 1Tm 6, 11-16; Lc 16, 19-31.
LỜI SUY NIỆM: “Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có
một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên
đó có qua bên chúng ta đây cũng không được.”
Cái vực thẳm lớn đã ngăn cách bên này và bên kia không còn có thể qua lại được,
đó là thái độ dững dưng trước hoàn cảnh của người đồng loại đang chịu những bất
hạnh. Chính sự dững dưng, đã tạo cho con người thiếu tình thương và sự quan tâm
đến người khác và các tạo vật chung quanh mình; tạo cho mình sự ích kỷ, chỉ biết
có mình.
Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mọi thành phần trong Giáo Hội hôm nay đừng dững dưng những
lời giáo huấn của Đức Thánh Cha Phanxicô.
Mạnh Phương
Gương
Thánh Nhân
NGÀY 29-09 CÁC TỔNG LÃNH THIÊN THẦN MICAE, GABRIEL, RAPHAEL
Giáo huấn của Giáo hội về thế giới thần
thiêng rất giản dị và không thay đổi, là có một thế giới như vậy, trong đó gồm
có cả thần lành và thần dữ và ảnh hưởng đến thế giới chúng ta. Trong kinh Tin
Kính, chúng ta vẫn tuyên xưng rằng việc tạo dựng được thể hiện gồm có “muôn vật
hữu hình và vô hình”.
Còn về ảnh hửơng của thế giới vô hình,
của các thần thiêng đối với chúng ta, chỉ cần nhớ lại biến cố cám dỗ Eva tại vườn
địa đàng và biến cố truyền tin cho Đức Mẹ. Trong lịch sử như Thánh kinh trình
bày, thế giới thần thiêng được tỏ lộ trong bối cảnh những thiên thể đến thế giới
này để thi hành thánh ý Thiên Chúa hay để truyền đạt lời Chúa cho loài người.
Thiên thần theo nguyên ngữ là sứ giả. Thánh Gregiriô thu nhặt nhiều đoạn khác
nhau để xếp các thiên thần thành 9 phẩm.
Riêng phẩm tổng lãnh được 1Tx 4,16 nhắc
đến. Nhưng Thánh kinh chỉ nêu tên 3 vị tổng lãnh là: Micae, Gabrie, và Raphae
mà thôi. Nhắc đến tên các Ngài, chúng ta cũng cần phải ghi nhớ lời dặn dò của
thánh Grêgôriô Cả: “tên các thiên thần là danh xưng chỉ các chức phận chứ không
chỉ bản tính”. Mica để có nghĩa là “ai bằng Thiên Chúa”. Gabrie có nghĩa là “uy
lực của Thiên Chúa”. Raphe có nghĩa là “thầy thuốc của Thiên Chúa”. Lần dở lại
thánh kinh, chúng ta sẽ thấy rõ phận vụ mỗi đấng thực hiện và dĩ nhiên các phận
vụ ấy liên quan đặc biệt đối với loài người chúng ta.
Người Do thái vẫn coi tổng lãnh thiên
thần Micae là đấng bảo trợ đặc biệt. Trong Kitô giáo, Ngài cũng là đấng bảo trợ
đặc biệt Giáo hội. Chúng ta coi Ngài là đấng thống soái đạo binh trên trời, dựa
theo lời kể của thánh Gioan: “Một cuộc chiến dữ dội xảy ra trên trời, tổng lãnh
thiên thần Micae cùng với các đồng bạn giao chiến cùng con rồng, con rồng và
các đồng đảng chống lại mãnh liệt. Song chúng không sao thắng nổi và chúng mất
địa vị trên trời. Con rồng lớn tức là con rắn xưa kia, thường gọi là ma quỉ hay
là satan. Kẻ lừa dối thiên hạ, bị quăng xuống đất cùng với đồng đảng của nó”
(Kh 12,7-9)
Tổng lãnh thiên thần Gabrie được sai đến
với Đức trinh nữ Maria ở Nazareth để nói rõ cho Mẹ biết định mệnh của mẹ (Lc
1,23). Ngài cũng đến với Zacaria để nói cho biết việc sinh hạ của Gioan tẩy giả
(Lc 1,11-19). Chính Ngài đã tiên báo cho Daniel biết việc Đấng thiên sai đến
(Dn 9,21) . Nay Ngài được nhận làm đấng bảo trợ của nhân viên bưu điện và điện
thoại.
Tổng lãnh thiên thần Raphae là một
trong bảy vị tổng lãnh hầu cận trước nhan Thiên Chúa. Ngài đã thực hiện phận vụ
này trong câu chuyện Tobia sau khi Ngài giữ gìn trẻ Tobia trong một cuộc hành
trình xa và khi được chữa lành cho Tobia cha được sáng mắt. Trong Tân ước, tổng
lãnh thiên thần Raphael được đồng hoá với vị thiên thần đã khuấy nước trong hồ
gần Gierusalem và lại xuống hồ trước tiên khi nước mới sủi lên, thì bất cứ mắc
bệnh tật gì đều được khỏi cả (Ga 5,1-4).
(daminhvn.net)
29 Tháng Chín
Người
Ăn Cắp Cừu
Tại một miền quê bên Mỹ, vào thời kỳ lập
quốc. Có hai anh em nhà kia bị bắt quả tang đang ăn cắp cừu. Dân trong làng đã
mở tòa án nhân dân để trừng phạt.
Sau khi nghị án, mọi người đã đồng
thanh cho khắc trên trán của tội nhân hai chữ viết tắt S.T có nghĩa là “Người
ăn cắp cừu”.
Một trong hai người ăn trộm không chịu
nổi sự sỉ nhục đã trốn sang một vùng đất khác để chôn chặt dĩ vãng của mình.
Nhưng anh không thể xóa nhòa được hai chữ viết tắt trên trán của mình. Bất cứ một
người lạ mặt nào cũng đều tra hỏi anh về ý nghĩa của hai chữ ấy. Lại một lần nữa,
không chịu nổi sự nhục nhã, anh đã rời bỏ nơi cư ngụ mới để tiếp tục lang thang
và cuối cùng mòn mỏi trong cay đắng, anh đã bỏ mình nơi đất khách quê người.
Nếu người anh của mình đã bị sự nhục
nhã gặm nhấm đến độ phải trốn suốt cả đời mình, thì người em lại tự nói với
mình: “Tôi không thể bỏ trốn chỉ vì ăn cắp mấy con cừu. Tôi phải ở lại đây và
tôi phải tạo lại sự tin cẩn nơi những người xung quanh và nơi chính tôi”.
Với quyết tâm đó, anh đã trở lại trong
xứ của mình. Và không mấy chốc, anh đã xây dựng cho mình một sự nghiệp cũng như
danh thơm của một người thanh liêm chính trực.
Nhưng cho dù năm tháng có qua đi, hai
chữ S.T vẫn còn ghi đậm trên vầng trán của anh… Ngày kia, có một người lạ mặt hỏi
một cụ già trong làng về ý nghĩa của hai chữ viết tắt ấy. Cụ già suy nghĩ một hồi
rồi trả lời: “Tôi không nhớ rõ lai lịch của hai chữ viết tắt ấy, nhưng cứ nhìn
vào cuộc sống của người đó, tôi nghĩ rằng hai chữ viết ấy có nghĩa là Thánh thiện”.
Một thi sĩ người Ấn Ðộ đã gửi tặng cho
Ðài Phát Thanh Chân Lý những vần thơ sau đây:
“Hãy tin nơi bạn, vì bạn là hình ảnh của
Thiên Chúa.
Hãy tin ở công việc của bạn vì một
công việc chính trực là một lời cầu nguyện.
Hãy tin ở ngày hôm nay vì mỗi phút chứa
đựng một dịp may để phụng sự Chúa.
Hãy tin ở những người xung quanh của bạn
vì bạn hữu là điều quan trọng cho một cuộc sống hạnh phúc.
Hãy tin ở hiện tại vì hôm qua đã qua
đi và ngày mai sẽ không bao giờ đến.
Hãy tin ở lòng thương của Chúa vì Ngài
tha thứ cho bạn. Và bạn hãy tha thứ cho chính mình”.
Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về
chúng ta và Ngài mời gọi chính chúng ta cũng đừng thất vọng về chính mình. Mỗi
một may mắn là một dịp để chúng ta dâng lời cảm tạ và chúc tụng Chúa. Mỗi một
thất bại va đau khổ là khởi đầu của một nguồn ơn dồi dào hơn. Mỗi một vấp phạm
là bàn đạp để chúng ta vươn cao hơn. Bởi vì trong tất cả mọi sự, Thiên Chúa
luôn yêu thương chúng ta.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét