29/09/2019
Chúa Nhật 26 Thường Niên năm C
(phần II)
Phụng Vụ Lời Chúa: Chúa Nhật 26 Thường
niên năm C
Am 6,1a.4-7; 1 Tm 6,11-16; Lc 16,19-31
THIÊN
CHÚA ỦI AN NGƯỜI KHỐN CÙNG TRONG NGÀY SAU HẾT
“Bây giờ, Ladarô được an ủi nơi đây,
còn con thì phải chịu khốn khổ” (Lc 16,25)
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài đọc I (Am 6,1a.4-7)
Chúng ta đang ở năm 750 tCN và Israel (vương quốc phía Bắc) đang
thời cực thịnh cả về kinh tế lẫn chính trị. Khía cạnh tôn giáo cũng phát triển
không kém: các đền đài phủ kín người tín hữu và khách hành hương; họ đến dâng lời
cầu nguyện và những lễ phẩm. Các tư tế được vua trả lương hậu hĩnh chưa từng
có. Và vì thế có lý do để người ta tạ ơn Chúa và tán dương nhà vua vì những
thành quả đạt được.
Tuy nhiên, có một người đàn ông không hiệp cùng với ca đoàn tán
dương nền chính trị của vua Giarópam II, đó là ngôn sứ Amos, một người chăn
chiên trong sa mạc ở miền Nam của Bétlehem, miền Giuđa. Amos đưa ra những
lời công kích kịch liệt, vì cho rằng đất nước đang giàu có và thịnh vượng,
nhưng chỉ đúng cho một số người mà thôi. Những người nghèo chân lấm tay bùn
đang bị bóc lột nặng nề, và những kẻ yếu thế cô thân bị đối xử cách bất công.
“Chúng bán người công chính để lấy tiền, bán kẻ nghèo khổ với giá một đôi giày.
Chúng đạp đầu kẻ yếu thế xuống bùn đen, và xô người khiêm hạ ra khỏi đường lộ”
(Am 2,6-7).
Trước bối cảnh này, ngôn sứ Amos đã lên tiếng tố cáo chống
lại vua Giarópam II, các tư tế, những người chủ và người giàu có, và
Amos đã cảnh báo họ về một hệ quả phải xảy tới là kiếp lưu đày đối với những
việc làm xấu xa của họ.
2. Bài đọc II (1 Tm 6,11-16)
Trong những khuyến dụ của thánh Phaolô gởi cho Timôthê, thì những
lời trong bài đọc hôm nay nhắm đến đời sống cá nhân của Timôthê hơn
là ở khía cạnh mục vụ, đó là kiên trì với những nhân đức căn bản, tiếp tục chiến
đấu cho đức tin.
Sự kiên trì đó dựa trên nền tảng ơn kêu gọi mà qua đó, Timôthê
đã đáp trả bằng việc tuyên xưng niềm tin của mình vào Đức Kitô; chính niềm tin
sống động ấy làm cho Timôthê ngày càng trở nên giống Đức Kitô hơn.
Tác giả bức thư đã đặt những lời khuyến dụ này trong viễn cảnh về
sự trở lại của Chúa Kitô; điều này đã thúc đẩy tác giả thốt ra những lời vinh tụng
ca ở cuối đoạn, và chắc chắn, nó cũng được sử dụng trong các hội đường và cả
các cộng đoàn Kitô hữu.
3. Bài Tin Mừng (Lc 16,19-31)
Dụ ngôn, theo cách thường thấy của thánh Luca, đã đặt để hai
hình ảnh đối lập nhau là người đàn ông giàu có (không gọi là xấu) với anh
Ladarô nghèo khó.
Sứ điệp của dụ ngôn là: Thiên Chúa ân thưởng cho người nghèo khó
và trừng phạt kẻ giàu sang vô cảm trước đồng loại. Đây cũng là lời dạy của Tám
Mối Phúc (6,2-23) và của một số dụ ngôn khác.
Ở đây ta còn thấy đề tài bữa tiệc, trước tiên là cảnh yến tiệc của
người giàu có, và sau đó là khung cảnh đối lập của anh nghèo Ladarô trong lòng
tổ phụ Ápraham giống như khung cảnh của Gioan với Chúa Giêsu trong bữa tiệc ly
(Ga 13,23). Rõ ràng đây là bữa tiệc thiên quốc (xem thêm bữa tiệc trong dụ ngôn
người cha nhân hậu Lc 15,11-32).
Giữa người giàu có và anh Ladarô nghèo khó có một vực thẳm lớn.
Vực thẳm này được tạo nên từ cách hành xử của người giàu có với anh Ladarô khi
còn tại thế (x. 16,9-13) và không thể vượt qua được. Điều này cho thấy phán xử
của Thiên Chúa không thể thay đổi được, và số phận được ấn định ở một nơi mà
con người không thể thoát ra được.
Lời Chúa đủ để cho ai muốn lắng nghe Người. Thật vô ích khi cố gắng
sai phái những vị sứ giả khác đến với người không chịu vâng nghe tiếng Chúa.
Đây là một lời mời gọi hãy biết thành tâm đón nhận Lời Chúa.
II. GỢI Ý SUY NIỆM
1. Bất công xã hội luôn là một sự dữ mà Thiên Chúa, qua lời các
ngôn sứ của Người, luôn lên án. Vậy trong vai trò ngôn sứ của mình, tôi cảm thấy
thế nào mỗi lần tôi bắt gặp những bất công đó trong cuộc sống?
2. Vật lộn để sinh tồn trong cuộc sống này đã khó, nhưng vật lộn
để sinh tồn trong cuộc sống mai hậu còn khó hơn nhiều. Qua bức tâm thư của
Phaolô, tôi thấy tôi cần phải làm gì và phải như thế nào trong đời sống đức tin
để được sự sống đời đời?
3. Dụ ngôn ông nhà giàu và anh Ladarô nghèo khó là một
lời mời gọi cho tất cả chúng ta, nhất là những người được Chúa ban cho có điều
kiện trong cuộc sống này, biết lưu tâm và mở lòng trước những gia cảnh khốn
cùng của những người con cái Chúa trong cuộc sống hằng ngày, vì chính những điều
ta sống hôm nay là quyết định cho tương lai của chúng ta trong cuộc sống mai hậu.
Đâu là tâm tình của tôi khi chính tôi lâm cảnh ngặt nghèo? Đâu là thái độ của
tôi khi tôi thấy bao cảnh người cơ khổ?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh
chị em thân mến! Thiên Chúa hằng yêu thương và bảo vệ những người bé mọn
thấp hèn; Người cũng muốn tất cả chúng ta biết quan tâm và cư xử bác ái với
nhau. Với quyết tâm thực thi lời Chúa dạy, cộng đoàn chúng ta cùng tha thiết
dâng lời cầu xin:
1. “Chúng đã có Môsê và các ngôn sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị
đó.” Chúng ta cùng cầu xin cho các vị chủ chăn trong Hội Thánh luôn được ơn
Chúa soi sáng và nâng đỡ, để các ngài chu toàn bổn phận qui tụ, chăm sóc và hướng
dẫn đoàn chiên mà Chúa đã ủy thác.
2. Sự ích kỷ góp phần làm gia tăng nạn nghèo đói. Chúng ta cùng
cầu xin cho các quốc gia phát triển và những cá nhân thành đạt, biết quảng đại
chia sẻ của cải vật chất cùng những thành tựu khoa học, nhằm đẩy lui đói nghèo
bệnh tật và thăng tiến đời sống con người.
3. Thánh Phaolô nhắn nhủ: “Con hãy chiến đấu trong cuộc chiến
chính nghĩa của đức tin.” Chúng ta cùng cầu xin cho mọi Kitô hữu, cách riêng những
người đang chịu bách hại vì đức tin, luôn can đảm vượt qua mọi thử thách và
trung thành tuân giữ lề luật Chúa.
4. Đức tin được năng động nhờ đức ái. Chúng ta cùng cầu xin cho
mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn khắc ghi lời Chúa dạy, biết sống tinh
thần trách nhiệm đối với tha nhân bằng việc quan tâm đáp ứng những nhu cầu vật
chất lẫn tâm linh của người chung quanh.
Chủ tế: Lạy
Chúa, xin nhận lời chúng con cầu nguyện, và ban Thánh Thần giúp chúng con hết
lòng thực thi giới răn “mến Chúa yêu người” trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống.
Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
Sợi Chỉ
Đỏ Chúa Nhật 26 TN C
Chủ đề :
Người
giàu và người nghèo
Người phú hộ và người ăn mày
(Lc 16,19-31)
Sợi chỉ đỏ :
– Bài đọc I : Ngôn sứ Amos công kích những người giàu
– Đáp ca : Thiên Chúa yêu thương và bênh vực người nghèo
– Tin Mừng : Dụ ngôn người phú hộ và kẻ ăn mày tên Ladarô
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Kiếm tiền và sử dụng tiền là những vấn đề rất quan trọng trong
cuộc sống. Bởi thế, hôm Chúa nhựt tuần trước Chúa Giêsu đã đề cập đến tiền bạc
rồi, và hôm nay Ngài lại đề cập đến nó một lần nữa. Ngài khuyến cáo chúng ta rằng
tiền bạc có thể trở thành một mối nguy, một cản trở chúng ta vào Nước Trời.
Một lần nữa, chúng ta hãy xin lỗi Chúa vì những lầm lỡ đã phạm
trong vấn đề tiền bạc.
II. Gợi ý sám hối
– Chúng ta coi trọng những người giàu và coi khinh những người
nghèo.
– Chúng ta làm ngơ không giúp đỡ những kẻ túng thiếu.
– Nhiều lần chúng ta đã xử dụng tiền bạc một cách phung phí
không hợp lý.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc
I (Am 6,1a.4-7)
Ngôn sứ Amos tung ra những lời đả kích rất nặng đối với những
người giàu : họ lo hưởng thụ, ăn uống, rượu chè, ca hát mà không quan tâm
gì đến số phận của đất nước đang lâm nguy.
2.
Đáp ca (Tv
145)
Ca tụng tình thương của Chúa dành cho những người nghèo khổ về mọi
phương diện : đói khát, bị áp bức, tù tội, tật nguyền, đặc biệt là những
cô nhi quả phụ.
3.
Tin Mừng (Lc
16,19-31)
Người phú hộ trong dụ ngôn này đã quen cậy dựa vào tiền bạc của
cải. Khi ông chết thì những chỗ ông cậy dựa cũng tiêu tan luôn cho nên ông rơi
vào cảnh rất khốn khổ. Ladarô là một người nghèo không có chỗ dựa ở trần gian
nên hoàn toàn cậy dựa vào Chúa, nhờ đó sau khi chết đã được hưởng hạnh phúc
trong vòng tay Thiên Chúa (qua hình ảnh tổ phụ Abraham).
Dụ ngôn này còn muốn gởi một lời nhắn nhủ đến những người
giàu : họ nên sớm thấy sai lầm của họ khi đặt niềm cậy trông vào những giá
trị trần thế, để kịp thời quay về trông cậy vào Chúa. Đừng chờ đến khi chết, thấy
rõ đâu là chỗ dựa vững chắc rồi mới sám hối, vì tới lúc đó, mọi việc đều không
thể đảo ngược được.
4.
Bài đọc II (1
Tm 6,11-16) (Chủ đề phụ)
Những lời khuyên Phaolô gởi cho môn đệ mình là Timôtêô. Phaolô
nhấn mạnh đến việc trau dồi các nhân đức tin, mến, nhẫn nại và hiền hòa.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Đừng quá hững hờ
Xem ra người phú hộ trong Tin Mừng chẳng có tội gì để đáng phạt
muôn đời trong hỏa ngục : Ông không gian tham, không trộm cắp, không bóc lột…
Cuộc đời ông ngày này qua ngày khác chỉ có ăn uống linh đình và mặc lụa là gấm
vóc, nghĩa là chỉ có hưởng thụ cái tài sản giàu sang do ông làm ra, mà hưởng thụ
như vậy là chính đáng chứ có gì là tội đâu ? Tội không giúp đỡ Ladarô chăng ?
Nếu ta đọc kỹ Tin Mừng từng chữ thì sẽ thấy rằng Ladarô đã không mở miệng một lời
để xin ông ta giúp đỡ, Ladarô chỉ âm thầm ao ước được ăn những miếng bánh rơi.
Nhưng vì chỉ âm thầm ao ước, mà không nói ra cho nên không ai biết mà cho.
Nhưng tại sao lại không biết ? Thưa vì không để ý. Ở cạnh
bên nhau mà không thấy nhau, không biết nhau, không giúp đỡ nhau thì thật là
quá vô tình, quá hờ hững. Tội của người phú hộ chính là tội hững hờ đó. Hoàn cảnh
của Ladarô quá khốn khổ thế mà người phú hộ vẫn hững hờ đến nỗi Ladarô phải chết
vì đói đang khi ông ta lại quá dư thừa, thành ra tội hững hờ của người phú hộ
trở thành tội nặng làm cho ông ta đáng phạt trong hỏa ngục.
Chúng ta vừa khám phá ra một điểm đặc biệt của Tin Mừng :
chúng ta không chỉ phạm tội do việc làm, do lời nói, do ý tưởng, mà còn có thể
phạm tội do quá hững hờ với người khác nữa, và tội hững hờ này trong những hoàn
cảnh quan trọng cũng có thể trở thành tội trọng.
Trong phim “Những đứa trẻ khốn khổ” có một cảnh rất thương
tâm : một cô gái nhà nghèo lên tỉnh tìm việc làm và bị dụ dỗ đến có con.
Vì phải làm việc suốt ngày nên cô không thể nuôi con mà phải gởi cho một người
chủ quán nuôi giúp. Người chủ quán này không có lương tâm, lợi dụng hoàn cảnh của
cô để bóc lột : nay hắn gởi thư đòi tiền, mai hắn lại đòi một số tiền
khác. Người mẹ trẻ không có tiền nên chỉ biết nhịn ăn nhịn mặc, hết tiền cô cắt
mái tóc đem bán, hết tiền lại nhổ từng cái răng đêm bán nữa… và cô trở thành
rách rưới, ốm o, xấu xí. Nhưng cô càng gầy ốm, rách rưới, xấu xí thì cũng bị những
người khác khinh khi, ghét bỏ. Cảnh cô bị đuổi khỏi sở làm, co ro trong chiếc
áo rách chạy giữa trời đông tuyết lạnh, thỉnh thoảng dừng lại ôm ngục ho xù xụ…
với cảnh cả một đám đông người xúm lại đánh đập cô, xô cô té ngả xuống đất và
nhào vô xâu xé cô… những cảnh như thế làm cho chúng ta xem mà không khỏi cảm thấy
thương tâm. Tại sao ta cảm động ? Vì ta đã biết hoàn cảnh của cô ấy và khi
ta thấy cô bị hành hạ như vậy thì thương tâm. Còn những người kia, những người
hành hạ cô, tại sao họ không thương tâm ? Thưa vì họ không hiểu hoàn cảnh
của cô, họ cùng ở một đường phố, cùng làm chung một sở nhưng không hiểu hoàn cảnh
của cô. Họ quá hững hờ.
Chắc chắn có rất nhiều lần chúng ta cũng hững hờ như vậy.
* 2. Giấy thông hành nước trời
Ngày Xưa, bên Tàu có một ông vua tự cho mình là người yêu nước
thương dân, nhưng lại chẳng bao giờ để ý đến cảnh khổ của dân chúng. Trái lại,
ông chỉ biết đến yến tiệc linh đình, trang hoàng cung điện, xây cất dinh thự,
sưu tầm những kỳ hoa dị thảo, để mong được nở mày nở mặt với lân quốc.
Một hôm, nhà vua nghe nói ở một ngôi chùa trong nước có một loại
hoa hồng quí hiếm, từng bông hoa to đẹp rực rỡ, bao phủ cả một khu vườn. Nhà
vua báo tin cho vị sư trụ trì là ông sẽ đến thăm để biết thứ hoa hồng quí lạ.
Khi được tin báo và được biết giờ vua sẽ đến, vị sư liền cắt tất cả những đoá hồng
xinh tươi đổ vào hố rác chỉ để lại một bông duy nhất đang thắm nở.
Vào đến vườn, nhà vua lấy làm lạ vì thực tế khác hắn với tin đồn.
Khi biết được sự việc, nhà vua hỏi vị sư tại sao làm như thế. Vị sư từ tốn trả
lời :
– Thưa bệ hạ, nếu thần để tất cả các hoa nở rộ trên cành, bệ hạ
sẽ không thưởng thức được vẻ đẹp của từng bông hoa. Vì thần biết bệ hạ chỉ có
thói quen nhìn đám đông chứ không để ý đến từng cá nhân.
*
Thiên Chúa của chúng ta không có thói quen chỉ nhìn đám đông,
nhưng Người quan tâm đến từng con người. Thiên Chúa yêu thương con người không
có tính cách chung chung, nhưng Người chăm sóc cho từng người một. Mỗi một con
người là một nhân vị, có nhân phẩm cao quí. Mỗi một con người là một tác phẩm
tuyệt vời của Người, với những ơn riêng mà người khác không có được Mỗi một con
người là một bông hồng rực rỡ sắc mầu, thơm ngát hương hoa.
Người phú hộ trong bài Tin Mừng hôm nay sở dĩ phải trầm luân
muôn kiếp, vì ông đã không nhìn người nghèo khó Ladarô với cái nhìn ấy. Thậm
chí ông cũng chẳng thèm nhìn con người khốn khổ ngày ngày lê lết bên cổng nhà
ông.
Người phú hộ phải “chịu cực hình” không phải vì
ông nhiều của cải, nhưng vì ông đã không san sẻ của cải cho người thiếu thốn,
ngay cả những của thừa thãi trên bàn tiệc cũng chẳng đến tay người nghèo.
Người phú hộ phải tống xuống biển lửa không phải vì ông đã làm
ra nhiều của cải, nhưng vì ông đã quá cậy dựa vào tiền của, trong khi người
nghèo khó chỉ biết cậy dựa vào Chúa ; Ladarô có nghĩa là “Thiên
Chúa giúp đỡ”.
Vậy tội của người phú hộ chính là tội làm ngơ, tội phớt lờ, tội
không nhìn, không nghe, không thấy những Ladarô đang van xin cứu giúp trong cơn
túng quẫn cùng cực. Tội của người phú hộ chính là tội thiếu sót, tội đã không
làm những gì lẽ ra mình phải làm cho một ai đó đang cần trợ giúp. Bác sĩ Albert
Schweitzer, người đã bán hết gia tài kếch xù của ông, xây một bệnh viện và dấn
thân cứu giúp những con người cùng khổ nhất Châu Phi đã đặt ra câu hỏi cho
chính mình : “Làm sao chúng ta có thể sống hạnh phúc trong khi có
biết bao người đang đau khổ ?”.
Sẽ có một ngày tất cả chúng ta bước vào một thế giới mà giấy
thông hành không phải !à tiền của nhưng chính là tình yêu. Chỉ có những ai
yêu mến Thiên Chúa và thương yêu anh em mới được bước vào.
Sẽ có một ngày người phú hộ chẳng còn yến tiệc linh đình, chẳng
còn trận vui tới sáng, trận cười suốt đêm, nhưng sẽ phải đuổi khỏi bàn tiệc và
lao xuống hoả hào muôn kiếp.
Sẽ có một ngày người Ladarô nghèo khó chẳng còn lê lết dưới đất
đen, không còn nhặt những miếng bánh vụn nơi bàn tiệc người phú hộ, nhưng sẽ được
nâng lên “trong lòng Ápraham” vui hưởng hạnh phúc muôn đời.
Lời giảng của Đức Thánh Cha Gioan Phao lô II trong chuyến viếng
thăm Hoa Kỳ lần đầu tiên ngày 2.10.1979 đáng cho chúng ta suy nghĩ : “Chúng
ta không thể thờ ơ vui hưởng của cải và tự do của chúng ta nếu bất cứ ở vùng
nào đó, người nghèo khó Ladarô của thế kỷ 2O vẫn còn đang đứng chờ chúng ta
ngoài cửa… Các bạn đừng bao giờ bằng lòng với hành vi chỉ cho họ những mẩu bánh
vụn nơi bàn tiệc. Các bạn chỉ nên lo lắng cho đủ phần chính yếu của cuộc sống
mà thôi chứ đừng tìm cách sống cho sung túc dư dật, để nhờ đó các bạn có thể
giúp đỡ những người nghèo khổ. Đồng thời, các bạn hãy đối xử với họ như những
thực khách trong gia đình các bạn”.
*
Lạy Chúa, thánh Tôm Aquinô đã dạy : “Những ngươi giàu có đã
đánh cắp của người nghèo khó khi họ tiêu xài phung phí những của cải dư thừa”.
Xin cho chúng con biết san sẻ cho nhau, để trời đất này trở nên sung túc và yêu
thương, vì giàu có thật là yêu thương và nghèo nàn thật là ích kỷ.
Xin dạy chúng con bí quyết làm giàu bằng cách chia sẻ cho nhau
những của cải Chúa ban. Amen. (TP)
* 3. Những thế giới khác nhau
Một ngày mùa hè, một người đàn ông ngồi trong văn phòng có gắn
máy điều hòa. Nhìn qua cửa sổ, ông thấy bên ngoài có một thanh niên đang lao động.
Anh này làm việc một cách rất uể oải và chậm chạp, chốc chốc lại buông tay ngồi
nghỉ. Ông thầm nghĩ : cái anh chàng này lười biếng quá. Ông mở cửa bước ra
xem. Vừa ra ngoài ông đụng ngay cái nóng hừng hực của mùa hè. Sức nóng làm mồ
hôi ông toát ra và khiến mọi năng lực của ông như tan biến đâu mất. Ông cảm thấy
rất uể oải. Lúc đó ông mới hối hận vì đã vội nghĩ xấu cho người thanh niên nọ :
nếu ông cũng phải lao động ngoài trời dưới cái nóng như thế thì chắc chắn ông
cũng không làm gì hơn người thanh niên đó được.
Người đàn ông và người thanh niên trên ở rất gần nhau, chỉ cách
nhau một cánh cửa, thế nhưng họ thuộc hai thế giới khác hẳn nhau. Vì thuộc hai
thế giới khác nhau nên người đàn ông không hiểu được và không thông cảm được với
người thanh niên. Chỉ khi ông bước ra khỏi thế giới mình đề đi vào thế giới của
người thanh niên thì ông mới hiểu và mới cảm thông.
Người phú hộ và Ladarô trong dụ ngôn hôm nay cũng thế. Họ thuộc
hai thế giới khác hẳn nhau :
– Một bên mặc toàn lụa là gấm vóc ; bên kia rách rưới tả
tơi.
– Một bên ngày ngày yến tiệc linh đình ; bên kia thì một mụn
bánh cũng không có.
– Một bên sống trong biệt thự ; bên kia nằm trước cổng nhà.
– Tóm lại một bên như sống ở thiên đàng trần thế ; còn bên
kia như sống ở hỏa ngục trần gian.
Hai người ở sát cạnh nhau nhưng hoàn toàn xa cách nhau. Thậm chí
người phú hộ còn không biết tới sự hiện diện của Ladarô.
Hai bức tranh quá đối chọi này gọi cho chúng ta vài suy
nghĩ :
a/ Thiên Chúa và loài người cũng thuộc về hai thế giới khác nhau
vô cùng. Nhưng Con Thiên Chúa đã ra khỏi thế giới của Ngài để bước vào thế giới
chúng ta. Thật là một tình thương to lớn vô cùng !
b/ Có rất nhiều người ở bên cạnh chúng ta nhưng thuộc về một thế
giới khác hẳn chúng ta cho nên chúng ta không hiểu họ, không nhận ra họ, thậm
chí không ý thức đền sự hiện diện của họ. Có khi nào chúng ta chịu khó ra khỏi
thế giới của mình để bước vào thế giới của họ chưa ?
* 4. Sự giàu có thật và sự nghèo nàn thật
Một người nhà giàu lái một chiếc xe Mercedes bóng láng đến bãi đậu
xe. Một cậu bé khoảng 11 tuổi ngắm nhìn chiếc xe bằng một ánh mắt ngạc nhiên và
thèm muốn. Câu chuyện bắt đầu :
– Thưa ông, chiếc xe này của ông hả ?
– Vâng.
– Chà, nó đẹp quá. Ông mua bao nhiêu vậy ?
– Chẳng dấu gì cháu, tôi không có mua. Anh tôi tặng tôi đó.
– Nghĩa là ông không phải tốn một xu nào hết mà có được chiếc xe
này ?
– Đúng vậy.
Cậu bé trầm ngâm một lúc rồi nói “Ước gì cháu…”
Câu nói bỏ lửng. Người nhà giàu cố đoán phần sau của câu nói.
Ông đoán cậu bé định nói “Ước gì cháu cũng có một người anh
như thế”. Nhưng thật bất ngờ, cậu bé nói “Ước gì cháu sẽ là một
người anh như thế”.
Rồi người nhà giàu suy nghĩ : Tuy mình có một chiếc xe sang
trọng, có một người anh giàu có, nhưng lòng mình thì quá nghèo nàn. Còn cậu bé
tuy ăn mặc tầm thường nhưng tấm lòng cậu ấy giàu hơn mình nhiều, bởi cậu bé chỉ
nghĩ đến việc cho đi.
Người giàu thật là người biết cho ; người nghèo thật là người
chỉ biết nhận.
Người giàu thật là người có rất ít nhu cầu nên luôn cảm thấy đủ ;
người nghèo thật là người có quá nhiều nhu cầu nên luôn cảm thấy thiếu.
Sự giàu có thật là giàu trong tâm hồn ; sự nghèo nàn thật
là một tâm hồn trống rỗng.
Bởi vậy cái giàu vật chất hay đi đôi với cái nghèo tâm hồn. Và
đó cũng chính là cái nguy hiểm của vật chất :
– Nó khiến ta quá chú ý đến cái “có” mà quên xây dựng cái “là” của
mình.
– Mà những cái “có” ấy chỉ là vật chất và ngoại tại, nên chúng dễ
khiến ta lơ là với những giá trị tinh thần và cuộc sống nội tâm.
– Quá quan tâm đến vật chất, chúng ta còn có thể bị chúng che mờ
cặp mắt không còn nhìn thấy tha nhân và Thiên Chúa.
* 5. Bắt đầu từ đâu ?
Một người nhà giàu nằm mơ thấy một đám rất đông những người
nghèo và những người bệnh tật đang kêu xin giúp đỡ. Cảnh tượng ấy khiến ông xúc
động và hạ quyết tâm sẽ đi tìm để giúp những người ấy.
Sáng hôm sau ông lên xe đi tìm. Vừa ra khỏi cửa nhà, ông gặp
ngay một người ăn mày đang ngửa tay xin tiền. Ông định dừng xe lại, nhưng tự
nghĩ hãy đi thêm để biết thêm. Chiếc xe chạy qua những con đường, những khu chợ,
những quãng trường… Càng đi ông càng thấy những người nghèo khổ đông quá. Trong
đầu ông bắt đầu vẽ ra rất nhiều dự án để cứu giúp rất nhiều hạng người. Nhưng
ông bối rối chưa biết phải bắt đầu từ đâu. Đến chiều, ông quay xe về nhà, và gặp
lại người ăn mày trước cổng, với cũng một tư thế ấy và những lời van xin ấy. Tối
hôm đó ông lại nằm mơ và lại nghe thấy những tiếng kêu xin cứu giúp. Nhưng lần
này những tiếng ấy không xuất phát từ đám đông, mà từ chính người ăn mày nằm
trước cổng nhà ông. Và ông hiểu ra : phải bắt đầu từ chính người ăn mày ấy.
Mẹ Têrêsa Calcutta nói : “Tôi luôn nghĩ rằng tình thương phải
bắt đầu từ gia đình mình trước, rồi đến khu xóm, đến thành phố… Yêu thương những
người ở xa thì rất dễ, nhưng yêu thương những người đang sống với mình hoặc đang
ở sát cửa nhà mình mới là khó. Tôi không đồng ý với những cách làm ồn ào. Tình
thương phải bắt đầu từ một cá nhân : muốn yêu thương một người, bạn phải
tiếp xúc với người đó, gần gũi với người đó”. Mẹ Têrêsa còn kể : “Lần kia
tôi đi dự một hội nghị ở Bombay về việc cứu giúp những người nghèo. Đến cửa
phòng hội, tôi thấy một người đang hấp hối. Tôi đưa người ấy về nhà, sau đó người
ấy chết, chết vì đói. Đang lúc đó bên trong phòng hội, hàng trăm người đang
hăng hái bàn luận về nạn đói và về vấn đề lương thực : làm thế nào để có
lương thực, để có cái này, để có cái kia… Đang lúc họ vạch ra kế hoạch cho cả
15 năm, thì người này phải chết vì đói”. Mẹ nói tiếp : “Tôi không bao giờ
nhìn những đám đông như là trách nhiệm của tôi. Tôi chỉ nhìn đến những cá nhân,
bởi vì mỗi lần tôi chỉ yêu thương được một người, mỗi lần tôi chỉ nuôi được một
người. Tôi đã đưa một người về nhà, nhưng nếu tôi không đưa một người ấy về nhà
thì tôi đã không đưa 42.000 người về nhà. Toàn thể công việc của tôi chỉ là một
giọt nước trong đại dương. Nhưng nếu tôi không góp một giọt nước ấy thì đại
dương sẽ thiếu đi một giọt”.
6.
Một chuyện khác
Một tu sĩ kia vào một ngôi làng. Ông sắp sửa ngả lưng xuống một
gốc cây để ngủ qua đêm thì một người dân làng đến nói :
– Xin ngài cho tôi viên ngọc quý ấy đi.
– Viên ngọc nào ?
– Đêm qua tôi mơ nghe thấy một tiếng nói bảo tôi rằng nếu tôi đi
ra ngoài rìa làng thì sẽ gặp một tu sĩ và tu sĩ ấy sẽ cho tôi một viên ngọc.
Vị tu sĩ lục lọi trong túi xách, lấy ra một vật gì đó, hỏi :
– Có phải là cái này không ? Nếu phải thì ông hãy cầm lấy.
Người dân làng sung sướng vô cùng vì đó quả thật là một viên ngọc
lớn hơn mọi viên ngọc mà ông đã từng thấy. Đêm đó ông không ngủ được. Sáng hôm
sau ông trở lại chỗ cũ nói với vị tu sĩ :
– Ngài hãy cầm lại viên ngọc của ngài đi. Thay vào đó xin ngài
cho tôi một thứ quý hơn nữa.
– Thứ gì ?
– Là thứ đã khiến ngài có thể đưa cho tôi một viên ngọc quý một
cách dễ dàng như thế.
Lời bàn : Tâm hồn bên trong của
người ta càng giàu thì nhu cầu bên ngoài của người ta càng ít và người ta cũng
ước muốn càng ít.
7.
Mảnh suy tư
Sự giàu có thật được đo không phải bởi những thứ người ta thu
tích, mà bởi những thứ người ta cho đi.
Sự giàu đáng giá nhất là giàu trong tâm hồn.
Khi ta đóng cửa lòng mình lại là lúc ta bắt đầu chết ;
Khi ta mở cửa lòng ra là lúc ta bắt đầu sống (FM)
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế : Anh chị em thân mến, chúng ta cùng hướng lòng lên Thiên
Chúa là “Cha của người nghèo” và dâng lên Người những lời nguyện xin tha thiết
của chúng ta :
1. Hội
thánh luôn bênh vực những người nghèo khổ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho
các vị mục tử / luôn quan tâm giúp đỡ những ai túng thiếu nghèo nàn.
2. Hằng
năm vẫn còn biết bao người lớn cũng như trẻ em / chết đói ở nhiều nơi trên
thế giới / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các dân tộc được phát triển /
để hết thảy mọi người thoát được cảnh đói nghèo.
3. Đức
bác ái đòi buộc người Kitô hữu phải chia sẻ tình thương và cơm áo / cho những
người nghèo khổ bất hạnh / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu /
biết rộng rãi giúp đỡ những ai đói rách bần cùng.
4. Vui
với người vui và khóc cùng người khóc / là bổn phận của những ai tin
Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết
cố gắng sống theo lời nhắn nhủ của thánh Phaolô tông đồ.
Chủ tế : Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nói : Phúc thay ai xót
thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương. Xin cho chúng con biết hết
lòng yêu thương tha nhân như chính Chúa đã yêu thương chúng con. Chúa hằng sống
và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy Cha : Khi chúng ta cầu nguyện
“Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày”, chúng ta hãy nghĩ đến những người
nghèo túng và xin Chúa dùng chính chúng ta làm những người giúp đỡ những người
khốn khổ ấy.
– Sau kinh Lạy Cha : “Lạy Cha, xin cứu chúng
con khỏi mọi sự dữ, xin cho xã hội này sớm thoát cảnh nghèo đói,
xin đoái tho cho những ngày chúng con đàng sống được bình an…”
VII. Giải tán
Trong tuần này, chắc chắn anh chị em sẽ gặp những người nghèo,
những người bệnh… Tuy anh chị em không dư dả gì, nhưng đừng quá thờ ơ như người
phú hộ bị Chúa Giêsu chê trách trong bài Tin Mừng hôm nay.
Lm.
Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio Divina: Chúa Nhật XXVI Thường
Niên (C)
Sunday 29 September, 2019
Lectio Divina | Lection Divina Năm C
Dụ ngôn về người hành khất Lazarô và nhà
phú hộ
Cả hai chỉ ngăn cách bởi một cánh cửa đóng
Lc 16:19 – 31
1. Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy sai Thần Khí Chúa đến giúp chúng con đọc
Kinh Thánh với cùng tâm tình mà Chúa đã đọc cho các môn đệ trên đường
Emmau. Trong ánh sáng của Lời Chúa, được viết trong Kinh Thánh, Chúa đã
giúp các môn đệ khám phá ra được sự hiện diện của Thiên Chúa trong nỗi đau buồn
về bản án và cái chết của Chúa. Vì thế, cây thập giá tưởng như là sự kết
thúc của mọi niềm hy vọng, đã trở nên nguồn mạch của sự sống và sự sống lại.
Xin Chúa hãy tạo trong chúng con sự thinh lặng để chúng con có
thể lắng nghe tiếng Chúa trong sự Tác Tạo và trong Kinh Thánh, trong các sự kiện
của đời sống hằng ngày và trong những người chung quanh, nhất là những người
nghèo khó và đau khổ. Nguyện xin Lời Chúa hướng dẫn chúng con để, giống
như hai môn đệ từ Emmau, chúng con cũng sẽ được hưởng sức mạnh sự phục sinh của
Chúa và làm chứng cho những người khác rằng Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng
con như nguồn mạch của tình anh em, công lý và hòa bình. Chúng con cầu
xin vì danh Chúa Giêsu, con của Đức Maria, Đấng đã mặc khải cho chúng con về
Chúa Cha và đã sai Chúa Thánh Thần đến với chúng con. Amen.
2. Bài Đọc
a) Chìa khóa dẫn đến bài đọc:
Trong Chúa Nhật thứ 26 Thường Niên tuần này, phần Phụng Vụ đặt
trước chúng ta dụ ngôn về người hành khất Lazarô, ngồi trước cổng nhà người phú
hộ. Bài dụ ngôn này là một tấm gương trung thực, trong đó nó không chỉ phản
ảnh tình trạng xã hội vào thời của Chúa Giêsu, mà còn cả trong xã hội chúng ta ở
thế kỷ thứ 21. Bài dụ ngôn là một sự tố giác mạnh mẽ và triệt để của tình
trạng này, bởi vì nó cho thấy rõ rằng Thiên Chúa nghĩ trái ngược với người đời.
Trong dụ ngôn có ba nhân vật: người hành khất, người phú hộ và Tổ Phụ
Abraham. Người hành khất có tên nhưng không lên tiếng. Anh ta hầu
như không hiện hữu. Bạn hữu của người ấy chỉ là những con chó nhỏ liếm
các vết thương cho anh ta. Người phú hộ thì không có tên, nhưng luôn lên
tiếng và nài nỉ. Người đó muốn trở nên người công chính, nhưng ông ta không
thành công. Tổ Phụ Abraham là cha của cả hai, yêu thương cả hai, và ngài
đã kêu gọi người phú hộ đang trong hỏa ngục nhưng ngài đã không thành công
trong việc giúp người phú hộ thay đổi ý nghĩ và tự hoán cải. Trong bài đọc,
bạn hãy cố gắng chú ý tới cuộc đối thoại giữa người phú hộ và Tổ Phụ Abraham, đến
những lời đối đáp của người phú hộ và của Tổ Phụ Abraham.
b) Phân đoạn bài Tin Mừng để trợ giúp cho bài đọc:
Lc 16:19-21: Tình cảnh của cả hai người trong đời này
Lc 16:22: Tình cảnh của hai người trong đời sau
Lc 16:23-26: Cuộc đối thoại thứ nhất giữa người phú hộ và
ông Abraham
Lc 16:27-29: Cuộc đối thoại thứ hai giữa người phú hộ và
ông Abraham
Lc 16:30-31: Cuộc đối thoại thứ ba giữa người phú hộ và
ông Abraham
c) Phúc Âm:
19 Khi ấy, Chúa
Giêsu phán cùng những người Biệt Phái rằng: “Có một nhà phú hộ kia vận
toàn gấm vóc, lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình. 20 Lại
có một người hành khất tên là Lazarô, nằm bên cổng nhà ông đó, mình đầy ghẻ chốc, 21 ước
được những vụn bánh từ bàn ăn rớt xuống để ăn cho đỡ đói, nhưng không ai thèm
cho. Những con chó đến liếm ghẻ chốc của người ấy. 22 Nhưng
xảy ra là người hành khất đó chết và được các thiên thần đem lên lòng
Abraham. Còn nhà phú hộ kia cũng chết và được đem chôn. 23 Trong
hỏa ngục phải chịu cực hình, nhà phú hộ ngước mắt lên thì thấy đàng xa có
Abraham và Lazarô trong lòng Ngài. 24 Liền cất tiếng
kêu la rằng: “Lạy Cha Abraham, xin thương xót tôi và sai Lazarô nhúng đầu
ngón tay vào nước để làm mát lưỡi tôi, vì tôi phải quằn quại trong ngọn lửa
này.” 25 Abraham nói lại: “Hỡi con, suốt đời
con, con được toàn sự lành, còn Lazarô gặp toàn sự khốn khổ. Vậy bây giờ
Lazarô được an ủi ở chốn này, còn con thì chịu khốn khổ. 26 Vả
chăng, giữa các ngươi và chúng tôi đây đã có sẵn một vực thẳm, khiến những kẻ
muốn từ đây qua đó, không thể qua được, cũng như không thể từ bên đó qua đây được.” 27 Người
đó lại nói: “Đã vậy, tôi nài xin cha sai Lazarô đến nhà cha tôi, 28 vì
tôi còn năm người anh em nữa, để ông bảo họ, kẻo họ cũng phải sa vào chốn cực
hình này.” 29 Abraham đáp rằng: “Chúng đã có
Môisen và các tiên tri, chúng hãy nghe các ngài.” 30 Người
đó thưa: “Không đâu, lạy cha Abraham! Nhưng nếu có ai trong cõi chết
hiện về với họ, thì ắt họ sẽ hối cải.” 31 Nhưng
Abraham bảo người ấy: “Nếu chúng không chịu nghe Môisen và các tiên tri,
thì cho dù kẻ chết sống lại đi nữa, chúng cũng chẳng chịu nghe đâu.”
3. Giây phút thinh lặng cầu nguyện
Để Lời của Chúa có thể thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.
4. Một vài câu hỏi gợi ý
Để giúp chúng ta trong việc suy gẫm cá nhân.
a) Điểm nào của bài Phúc Âm mà bạn thích nhất và điều
gì đã đánh động bạn nhất? Tại sao?
b) Hãy so sánh hoàn cảnh của người hành khất và người phú hộ
trước và sau khi chết. Hoàn cảnh của họ khi còn sống như thế nào?
Trạng huống của người hành khất và người phú hộ đã thay đổi ra sao sau khi chết?
c) Cái gì đã ngăn cách người hành khất với người phú hộ lúc
họ còn sống? Cái gì đã ngăn cách người phú hộ với người hành khất sau khi
họ chết?
d) Trong cuộc đối thoại giữa người phú hộ và Tổ Phụ Abraham,
người phú hộ đã xin gì và Abraham đã trả lời ra sao?
e) Trong dụ ngôn này, tình trạng chỉ thay đổi sau khi chết.
Có phải Chúa Giêsu muốn nói cho chúng ta biết rằng khi còn sống người hành khất
đã phải chịu tất cả mọi đau khổ để sau đó được phần thưởng trên Thiên
Đàng? Bạn nghĩ sao?
f) Có một số người cũng giống như người phú hộ trong dụ
ngôn, mong đợi phép lạ xảy ra để họ có thể tin vào Thiên Chúa. Nhưng Chúa
bảo hãy tin vào lời Môisen và các tiên tri. Và tôi, lòng tôi đang hướng về
phía nào: hướng về phép lạ hay về Lời Chúa?
g) Tôi đã đối xử với người nghèo khó ra sao? Đối với
tôi, họ có tên không?
5. Dành cho những ai muốn đào sâu vào chủ đề
a) Bối cảnh Phúc Âm:
i) Trong Tin Mừng của Luca, từ
Chương 9 (Lc 9:51), chúng ta tháp tùng Chúa Giêsu trên cuộc hành trình của Người
về Giêrusalem. Trong các chương 15 và 16 này, có thể nói, chúng ta đã lên
đến đỉnh, nửa đoạn đường của cuộc hành trình, từ đó có thể nhìn lại chặng đường
đã đi qua và quãng đường còn lại trước mặt. Hoặc, có nghĩa là, tại đỉnh đồi,
hay tại tâm điểm của Phúc Âm, chúng ta nhận thức rõ ràng hơn về hai chủ đề
chính qua Tin Mừng của Luca, từ đầu chí cuối. Trong chương 15, bài dụ
ngôn về người cha với hai người con mặc khải cho chúng ta biết lòng thương xót
và yêu mến của Thiên Chúa là Đấng đón nhận tất cả mọi người. Bây giờ ở
chương 16 giới thiệu cho chúng ta dụ ngôn người hành khất Lazarô để mặc khải về
thái độ chúng ta cần phải có trước vấn nạn nghèo đói và bất công xã hội.
ii) Mỗi khi Chúa Giêsu có điều
quan trọng muốn thông tri, Người kể hoặc nói một dụ ngôn, Người tạo ra một câu
chuyện phản ảnh đời sống thực của dân chúng. Do đó, trong thời gian nhìn
thấy các thực tế rõ ràng, Chúa hướng dẫn những người đang lắng nghe khám phá ra
những lời kêu nài vô hình của Thiên Chúa, hiện hữu trong đời sống. Một dụ ngôn
được cấu tạo để làm cho mọi người suy gẫm và ngẫm nghĩ. Đây là lý do tại
sao thật là quan trọng phải chú ý ngay cả đến các chi tiết nhỏ. Trong bài
dụ ngôn mà chúng ta đang suy gẫm, có ba người: Lazarô, người hành khất,
người duy nhất không nói lời nào. Tổ Phụ Abraham, người mà trong dụ ngôn
đại diện cho ý nghĩ của Thiên Chúa. Người phú hộ vô danh đại diện cho
giai cấp thống trị của chính quyền trong thời bấy giờ. Lazarô đại diện
cho tiếng than khóc của tầng lớp người nghèo khổ vào thời Chúa Giêsu, vào thời
Luca và vào mọi thời đại.
b) Lời bình giải về đoạn Phúc Âm:
Lc 16:19-21: Tình cảnh của người phú hộ và người
hành khất.
Ở đây chúng ta thấy có hai thái cực của xã hội. Một mặt là
sự giàu có quá mức. Mặt khác là những người nghèo không có bất kỳ tài sản
nào, không có bất cứ quyền hạn gì, người đầy những ghẻ chốc và lở loét, hôi hám
dơ bẩn, không ai muốn đến gần người ấy, ngoại trừ các con chó nhỏ đến liếm các
vết thương. Cả hai được ngăn cách chỉ với một cánh cửa: cánh cửa đóng kín
của nhà người phú hộ. Về phần người phú hộ không có sự thừa nhận, không
có sự thương xót cho nỗi khốn khổ của người hành khất nằm trước cửa nhà
ông. Nhưng trong dụ ngôn, người hành khất có tên, trong khi người phú hộ
lại không có. Tên của người hành khất là Lazarô, có nghĩa là Thiên
Chúa trợ giúp.
Qua người hành khất Thiên Chúa trợ giúp người
phú hộ; và người phú hộ có thể có tên của mình được viết trong Sách Hằng Sống.
Nhưng người phú hộ đã không để cho người hành khất giúp đỡ. Phần dẫn nhập của
bài dụ ngôn mô tả hoàn cảnh, là một tấm gương trung thực của những gì đã xảy ra
trong thời đại của Chúa Giêsu và của Luca, và đó cũng là hình ảnh những gì đang
xảy ra hôm nay!
Lc 16:22: Sự thay đổi mặc khải bởi sự thật được tiềm
ẩn
“Bấy giờ xảy ra là người hành khất đó chết và được các thiên thần
đem lên lòng Abraham. Còn nhà phú hộ kia cũng chết và được đem
chôn.” Trong dụ ngôn, người hành khất chết trước người phú hộ. Đây
là một lời cảnh báo cho người phú hộ. Cho đến khi người hành khất nằm trước
cửa nhà, còn sống, người phú hộ vẫn có thể được cứu rỗi. Nhưng sau khi
người hành khất chết đi, khí cụ cứu độ duy nhất của người phú hộ cũng chết.
Ngày nay, hằng triệu người nghèo khó chết, các nạn nhân của những quốc gia giàu
có của địa lý chính trị.
Người hành khất chết và được các thiên thần đem lên lòng
Abraham. Lòng Abraham là nguồn mạch sự sống, từ đó sinh
sản ra Dân của Thiên Chúa. Lazarô, người hành khất, thuộc về Dân của
Thiên Chúa, tạo thành một phần từ Dân của Abraham, mà từ đó bị loại trừ bởi vì
người ấy đã nằm tại cửa của người phú hộ. Người phú hộ nghĩ mình là con
cháu của Abraham, cũng qua đời và được đem chôn. Nhưng người phú hộ không
được ngồi lên lòng Abraham bởi vì ông ta không phải là con cháu của Abraham!
Lời giới thiệu của bài dụ ngôn kết thúc tại đây. Bây giờ bắt
đầu sự mặc khải của ý nghĩa của nó, qua ba cuộc đối thoại giữa người phú hộ và
Tổ Phụ Abraham.
Lc 16:23-26: Cuộc đối thoại thứ nhất giữa người
phú hộ khuyết danh và Tổ Phụ Abraham
Bài dụ ngôn giống như một cửa sổ mà Chúa Giêsu mở ra cho chúng
ta thấy khía cạnh bên kia của đời sống, phía bên Thiên Chúa. Đó không phải
là một câu hỏi về Thiên Đàng. Nó là một câu hỏi về khía cạnh thật sự của
đời sống chỉ được khám phá bởi đức tin và người phú hộ không có đức tin đã
không cảm nhận được. Tư tưởng thống trị đã ngăn cản ông ta khám phá ra điều
ấy. Và chỉ trong ánh sáng của sự chết thì cái tư tưởng ấy mới tự tan rã
trong tâm trí của người phú hộ, và giá trị đích thực của đời sống mới hiện ra với
ông ta. Về phần Thiên Chúa, không có tư tưởng và các tuyên truyền phỉnh gạt
của những người cầm quyền, những may mắn của họ sẽ bị thay đổi: Người phú
hộ sẽ chịu đau khổ, người hành khất lại được hạnh phúc. Người phú hộ, khi
thấy Lazarô trong lòng Abraham thì xin Lazarô ra tay giúp cho ông ta vơi đi sự
đau khổ. Trong ánh sáng của sự chết, người phú hộ khám phá ra rằng Lazarô
có thể là ân nhân duy nhất của mình. Nhưng bấy giờ đã quá muộn! Người
phú hộ khuyết danh là một người Do-Thái (hoặc Kitô hữu) “đạo đức”, biết ông
Abraham và gọi là Cha. Abraham trả lời và gọi người ấy
là con. Điều đó có nghĩa là, trong thực tế, đây là lời
của ông Abraham gửi đến những người giàu có đang còn sống. Đang lúc còn sống,
họ có thể có cơ hội trở nên con cái của ông Abraham, nếu họ mở cửa cho Lazarô,
cho người hành khất, người duy nhất nhờ danh thánh Chúa có thể cứu giúp họ.
Đối với người phú hộ, bị giam hãm trong cực hình, sự cứu rỗi bao gồm trong một
giọt nước mà Lazarô có thể cho ông ta. Trong thực tế, đối với người phú hộ,
sự cứu rỗi không chỉ gồm có một giọt nước từ tay Lazarô để làm mát lưỡi của người
ấy, mà đúng hơn là chính bản thân người ấy, người phú hộ, mở cửa nhà mình và ra
tiếp xúc với người hành khất. Chỉ bằng cách này thì mới có thể vượt qua
được hố sâu ngăn cách người ấy.
Trong câu trả lời của ông Abraham, sự thật về bốn tai ương hiện
ra trước mặt người phú hộ: (Lc 6:24-26)
“Nhưng khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có, vì các ngươi đã
được phần an ủi của mình rồi.”
“Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được no nê, vì các ngươi sẽ phải đói.”
“Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được vui cười, vì các ngươi sẽ phải sầu khổ khóc than.”
“Khốn cho các ngươi khi được mọi người ca tụng, vì các ngôn sứ giả cũng đã từng được cha ông họ đối xử như thế!”
“Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được no nê, vì các ngươi sẽ phải đói.”
“Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được vui cười, vì các ngươi sẽ phải sầu khổ khóc than.”
“Khốn cho các ngươi khi được mọi người ca tụng, vì các ngôn sứ giả cũng đã từng được cha ông họ đối xử như thế!”
Lc 16:27-29: Cuộc đối thoại thứ hai giữa người phú
hộ và ông Abraham
Người phú hộ khẩn khoản: “Đã vậy, tôi nài xin cha sai
Lazarô đến nhà cha tôi, vì tôi còn năm người anh em nữa!” Người phú hộ
không muốn anh em mình cũng phải sa vào chốn cực hình này. “Sai
Lazarô!” Lazarô, người hành khất, là người trung gian thật sự duy nhất giữa
Thiên Chúa và người phú hộ. Nhưng người phú hộ, khi còn sống đã không đếm
xỉa gì đến người khốn khổ Lazarô. Ông ta chỉ lo cho bản thân và anh em
mình. Ông ta không bao giờ ngó ngàng đến người nghèo khó! Giống như
người con trưởng trong “Dụ ngôn người Cha và hai người con trai” (Lc
15:25-30). Người con trưởng chỉ muốn có một bữa chè chén tưng bừng với
chúng bạn, và không muốn dự bữa tiệc mừng người em đã mất nay trở về. Câu
trả lời của ông Abraham đã rõ ràng: “Họ đã có Môisen và các tiên tri;
chúng hãy nghe các ngài!” Họ có Kinh Thánh! Người phú hộ đã có Kinh
Thánh. Ông ta thậm chí có thể thuộc lòng. Nhưng ông ta không bao giờ
nhận thức được là Kinh Thánh có liên quan đến người hành khất đã ngồi tại cửa
nhà mình. Chìa khóa để thông hiểu được ý nghĩa của Thánh Kinh và ơn cứu rỗi
là người hành khất Lazarô, ngồi trước cửa nhà người phú hộ!
Lc 16:30-31: Cuộc đối thoại thứ ba giữa ông
Abraham và người phú hộ
Người phú hộ vẫn cả quyết: “Không đâu, thưa Tổ Phụ
Abraham, nhưng nếu có ai trong cõi chết hiện về với họ, thì ắt họ sẽ hối cải!”
Người phú hộ thú nhận rằng mình đã sai, vì đã nhắc đến việc hối cải, mà đã
không bao giờ thực hiện lúc còn sống. Người ấy chỉ muốn một phép lạ, một
sự tái sinh! Nhưng việc sống lại loại này không hề có. Chỉ có việc
sống lại là việc Chúa Giêsu Phục Sinh đến với chúng ta qua thân xác của người
nghèo khó, kẻ mà không có bất cứ quyền lợi nào, không đất đai, không thức ăn,
không chỗ nương thân, không sức khỏe. Trong câu trả lời cuối cùng của ông
Abraham thật là chóng vánh và quả quyết: “Nếu chúng không chịu nghe
Môisen và các tiên tri, thì cho dù kẻ chết sống lại đi nữa, chúng cũng chẳng chịu
nghe đâu.” Và thế là kết thúc cuộc đối thoại!
c) Phần tìm hiểu thêm:
Do bối cảnh xã hội bất công vào thời đại của Chúa Giêsu:
Vào năm 64 trước tây lịch, đế quốc La-Mã xâm chiếm đất Paléstin
và áp đặt lên người dân một khoản thuế rất nặng nề. Các bậc thức giả ước
tính rằng trên dưới một nửa lợi tức gia đình phải dành ra để đóng thuế, các khoản
thuế của chính quyền La-Mã. Ngoài ra, đế quốc La Mã đã phối trí tổ chức lại
địa lý chính trị trong vùng. Trước khi cuộc xâm lăng của quân La-Mã, toàn
thể lãnh thổ, từ miền Tyrô đến vùng Siđon lên đến biên giới với Ai-Cập, được đặt
dưới sự cai quản của dòng họ Asmonê, thuộc dòng dõi Máccabê. Sau khi bị
xâm chiếm, chỉ còn lại ba vùng nằm dưới chính quyền của người Do-Thái: Giuđêa,
Pêrêra và Galilê. Để có thể duy trì sự kiểm soát trên dân tộc bị trị với
một sự mất mát tối thiểu và chi phí riêng của họ, đế chế La-Mã đã thâu dụng các
người Sa-đốc, các trưởng lão, một số người thu thuế và một phần các thày cả.
Vì vậy, tất cả thay đổi này do cuộc xâm lăng của La-Mã đã khiến cho hầu hết những
người Do-Thái đang sống ở các khu vực khác trong vùng phải di cư về Giuđêa và
Galilê. Hậu quả của việc này là: dân số trong vùng Giuđêa và Galilê đã
tăng lên gấp đôi và lợi tức gia đình bị giảm một nửa. Kế quả là: một mặt, sự
nghèo đói tăng từ từ, nạn thất nghiệp, nạn hành khất, đói nghèo cùng cực.
Còn mặt khác, việc giàu có quá mức của dân địa phương, dưới sự hỗ trợ của đế quốc
La-Mã. Hình ảnh trung thực của tình trạng này được diễn tả trong dụ ngôn người
hành khất Lazarô và người phú hộ không có lòng nhân ái.
Suy gẫm cuối về bài dụ ngôn
Người phú hộ có tất cả mọi thứ và tự mình sống cô lập, nhưng xa
lìa Thiên Chúa, mất sự giàu sang, mất sự sống, đánh mất chính bản thân, mất tên
tuổi, mất tất cả mọi thứ. Người hành khất không có gì nhưng có Thiên
Chúa, tìm được sự sống, có tên, đạt được tất cả. Người hành khất là
Lazarô, nghĩa là “Thiên Chúa trợ giúp”. Thiên Chúa đến với chúng ta trong
hình ảnh người hành khất ngồi bên cửa nhà chúng ta, để giúp chúng ta qua được
cái vực thẳm không thể vượt qua được tạo ra bởi những người giàu không có trái
tim. Lazarô cũng là Chúa Giêsu, người đày tớ và Đấng Thiên Sai nghèo, Người
đã không được chấp nhận, nhưng cái chết của Người đã làm thay đổi tận gốc rễ tất
cả mọi thứ. Và trong ánh sáng cái chết của người hành khất, tất cả mọi thứ
thay đổi.
Chốn hỏa ngục là tình trạng của những người không có Thiên
Chúa. Ngay cả khi người phú hộ nghĩ rằng ông ta có một tôn giáo và đức
tin, ông ấy không biết làm cách nào để được đến gần bên Chúa bởi vì đã không mở
cửa cho người nghèo khó như ông Giakêu đã làm (Lc 19:1-10).
6. Cầu Nguyện
Thánh Vịnh 15 (14): Lạy Chúa, ai được vào ngụ
trong nhà Chúa?
Lạy CHÚA, ai được vào ngụ trong nhà Chúa,
được ở trên núi thánh của Ngài?
được ở trên núi thánh của Ngài?
Là kẻ sống vẹn toàn, luôn làm điều ngay thẳng,
bụng nghĩ sao nói vậy,
miệng lưỡi chẳng vu oan, không làm hại người nào,
chẳng làm ai nhục nhã.
Coi khinh phường gian ác, trọng ai kính CHÚA TRỜI,
lỡ thề mà bị thiệt, thì cũng chẳng rút lời,
cho vay không đặt lãi, chẳng nhận quà hối lộ
mà hại đến người ngay.
Phàm ai làm những điều này
không hề nao núng chuyển lay bao giờ.
bụng nghĩ sao nói vậy,
miệng lưỡi chẳng vu oan, không làm hại người nào,
chẳng làm ai nhục nhã.
Coi khinh phường gian ác, trọng ai kính CHÚA TRỜI,
lỡ thề mà bị thiệt, thì cũng chẳng rút lời,
cho vay không đặt lãi, chẳng nhận quà hối lộ
mà hại đến người ngay.
Phàm ai làm những điều này
không hề nao núng chuyển lay bao giờ.
7. Lời nguyện kết
Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa về Lời Chúa đã giúp
chúng con hiểu rõ hơn ý muốn của Chúa Cha. Nguyện xin Thần Khí Chúa soi
sáng các việc làm của chúng con và ban cho chúng con sức mạnh để thực thi Lời
Chúa đã mặc khải cho chúng con. Nguyện xin cho chúng con, được trở nên giống
như Đức Maria, thân mẫu Chúa, không những chỉ lắng nghe mà còn thực hành Lời
Chúa. Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha trong sự hiệp
nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét