19/05/2025
Thứ Hai
tuần 5 Phục Sinh
Bài Ðọc I: Cv 14, 5-17
“Chúng tôi rao giảng cho các người bỏ các thần này mà trở
về với Thiên Chúa hằng sống”.
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, tại Icônia có phong trào người dân ngoại
và người Do-thái cùng các thủ lãnh của họ định ngược đãi và ném đá Phaolô và
Barnaba. Biết thế, hai ngài trốn sang các thành thuộc Lycaonia là Lystra, Ðerbê
và khắp vùng phụ cận, và rao giảng Tin Mừng ở đó.
Lúc ấy tại Lystra có người bại chân từ lòng mẹ, anh chỉ ngồi
và không hề đi được. Anh nghe Phaolô giảng dạy. Phaolô chăm chú nhìn anh, thấy
anh có lòng tin để được cứu chữa, nên nói lớn tiếng rằng: “Hãy chỗi dậy và đứng
thẳng chân lên”. Anh liền nhảy lên và bước đi. Dân chúng thấy việc Phaolô làm,
thì la to bằng tiếng Lycaonia rằng: “Các vị thần mặc lớp người phàm đã xuống với
chúng ta”. Họ gọi Barnaba là thần Giupitê và Phaolô là thần Mercuriô, vì chính
ngài giảng. Thầy sãi thần Giupitê ở ngoại thành, mang bò và vòng hoa đến trước
cửa: ông toan hợp cùng dân tế thần.
Nghe tin ấy, các tông đồ Barnaba và Phaolô liền xé áo mình
ra, xông vào đám dân chúng mà la lên rằng: “Hỡi các ngươi, các ngươi làm gì thế?
Chúng tôi cũng là loài hay chết, là người như các ngươi, là những kẻ rao giảng
cho các người bỏ các thần này mà trở về với Thiên Chúa hằng sống, Ðấng tạo
thành trời đất, biển cả và mọi vật trong đó. Trong các thế hệ trước đây, Người
đã để mặc cho mọi dân tộc đi theo đường lối riêng mình; dầu vậy, Người không hề
để thiếu sót những dấu chứng về Người, Người ban phát muôn ơn lành, cho mưa từ
trời xuống cho các ngươi và mùa màng hoa trái, cho các ngươi được no lòng phỉ dạ”.
Dầu nói thế, các ngài cũng phải vất vả lắm mới ngăn cản được dân chúng khỏi tế
các ngài.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 113B, 1-2. 3-4. 15-16
Ðáp: Lạy Chúa,
không phải cho chúng con, nhưng xin cho danh Ngài rạng sáng
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: Không phải
cho chúng con, lạy Chúa, không phải cho chúng con, nhưng xin cho danh Ngài rạng
sáng, vì đức từ bi, vì lòng trung tín của Ngài. Tại sao Chúa để chư dân người
ta nói: “Thiên Chúa của bọn này ở đâu?”
Xướng: Thiên Chúa
chúng tôi ngự trên trời, phàm điều chi Ngài ưng ý, Ngài đã thực thi. Thần tượng
của họ bằng bạc với vàng, đó là sự vật do tay loài người tác tạo.
Xướng: Anh em đã
được Chúa ban phúc lành, Chúa là Ðấng đã tạo thành trời đất. Trời là trời của
Chúa, còn đất thì Chúa đã tặng con cái loài người.
Alleluia: Cl 3, 1
Alleluia, alleluia! – Nếu anh em sống lại làm một với Ðức
Kitô, thì anh em hãy tìm kiếm những sự cao siêu trên trời, nơi Ðức Kitô đang ngự
bên hữu Thiên Chúa. – Alleluia.
Phúc Âm: Ga 14, 21-26
“Ðấng Phù Trợ mà Cha sẽ sai đến, Người sẽ dạy các con mọi
điều”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Ai nghe các
giới răn Thầy truyền và tuân giữ, người ấy là kẻ yêu mến Thầy, và ai yêu mến Thầy,
sẽ được Cha Thầy yêu mến, và Thầy cũng yêu mến và tỏ mình ra cho người ấy”.
Ông Giuđa, không phải Giuđa Iscariô, thưa Người rằng: “Lạy
Thầy, tại sao Thầy sẽ tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ cho thế gian?” Chúa
Giêsu trả lời: “Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy,
và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. Kẻ không yêu mến Thầy, thì không giữ lời
Thầy. Lời mà các con nghe, không phải là của Thầy, nhưng là của Cha, Ðấng đã
sai Thầy. Thầy đã nói với các con những điều này khi còn ở với các con. Nhưng Ðấng
Phù Trợ, là Thánh Thần, mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Người sẽ dạy
các con mọi điều và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các
con”.
Ðó là lời Chúa.
Chú giải về Tông Đồ Công vụ 14,5-18
Phao-lô và Ba-na-ba tiếp tục hành trình truyền giáo đầu tiên
của họ để truyền bá Phúc âm. Lần cuối chúng ta thấy họ ở thị trấn Iconium của
Ga-la-ti. Lúc đầu, họ đã thành công rực rỡ với công việc rao giảng của mình, và
chúng ta được kể (trong những câu trước phần đọc hôm nay) “rằng có rất nhiều
người Do Thái và người Hy Lạp đã tin theo”. Nhưng sau đó, như đã xảy ra ở
An-ti-ốt, một số người Do Thái từ chối chấp nhận thông điệp của họ đã tìm cách
kích động một số người Ngoại bang chống lại hai Sứ đồ. Mặc dù vậy, các môn đồ vẫn
kiên trì và “ở lại lâu dài và rao giảng cách dạn dĩ cho Chúa”. Thông điệp của họ
đã được xác nhận bằng các dấu hiệu và phép lạ do Đức Chúa Trời thực hiện thông
qua bàn tay chữa lành của họ.
Kết quả là mọi người đã chia rẽ ý kiến—những người, trước
đó, đã từ chối những gì họ phải nói, và những người bị thuyết phục bởi những
hành động dường như xác nhận thông điệp của các nhà truyền giáo. Và đó là tình
hình khi chúng ta bắt đầu phần đọc hôm nay.
Một lần nữa, như ở Antioch, một âm mưu của người Do Thái và
người ngoại bang đã cùng nhau tấn công hai vị Tông đồ và ném đá họ đến chết.
Ném đá là hình thức hành quyết của người Do Thái đối với tội phạm thượng. Trước
đó, chúng ta đã thấy số phận của Tê-pha-nô
vì những lời mà các nhà lãnh đạo Do Thái coi là hoàn toàn phạm thượng.
Khi Phao-lô
và Barnabas nghe được điều này, họ đã chạy trốn khỏi Iconium. Sau đó, họ đến
các thành phố Lystra và Derbe và vùng nông thôn xung quanh ở Lycaonia và tiếp tục
công bố Phúc âm tại những nơi này.
Lycaonia là một quận ở phía đông Pisidia và phía bắc dãy núi
Taurus ở đông nam Thổ Nhĩ Kỳ. Đây là một phần của tỉnh Galatia của La Mã.
Lystra là một thuộc địa của La Mã và dường như là quê hương của Ti-mô-thê, người mà chúng ta sẽ gặp trong
Hành trình truyền giáo thứ hai. Derbe cách Lystra khoảng 100 km (60 dặm). Các sự
kiện trong bài đọc hôm nay diễn ra ở Lystra; chúng ta sẽ gặp Phao-lô ở Derbe vào
ngày mai.
Khi đến Lystra, Phao-lô
nhìn thấy một người đàn ông ở đó, người "què từ khi sinh ra", đang lắng
nghe ông giảng. Thấy ông là người có đức tin, Phao-lô ra lệnh cho ông đứng dậy,
và ông đã đứng dậy ngay lập tức. Ông đã hoàn toàn khỏi chứng không đi lại được.
Những người chứng kiến vô cùng kinh ngạc và ngay lập tức
thấy các Sứ đồ là những vị thần trong hình dạng con người: Ba-na-ba là thần
Zeus và Phao-lô là thần Hermes (người mà người La Mã gọi là 'Mercury'), người
phát ngôn của các vị thần.
Phiên bản Kinh thánh
quốc tế mới bình luận:
“Zeus là vị thần bảo trợ của thành phố, và đền thờ của ông ở
đó. Những người đến dâng lễ vật cho thần Zeus dường như đã quyết định dâng lễ vật
cho Phao-lô và Ba-na-ba thay thế. Việc xác định thần Zeus với Ba-na-ba có thể
chỉ ra rằng ngoại hình của ông ấn tượng hơn và Phao-lô được xác định là thần
Hermes (thần Mercury của La Mã) vì ông là người phát ngôn.”
Sự cố này có thể bắt nguồn từ một truyền thuyết cổ xưa kể về
một chuyến viếng thăm được cho là của thần Zeus và thần Hermes đến cùng một khu
vực chung. Tuy nhiên, không ai nhận ra họ ngoại trừ một cặp vợ chồng già. Vì vậy,
người dân Lystra quyết tâm không để sự thiếu sót như vậy xảy ra nữa.
Ngay cả vị tư tế
của đền thờ thần Zeus địa phương, nằm ngay bên ngoài cổng thành, cũng đang chuẩn
bị dâng lễ vật để tôn vinh họ. Kinh hoàng, các Tông đồ xé quần áo của họ, một dấu
hiệu cho thấy sự bất bình của họ và là cách thể hiện nỗi đau khổ lớn lao của
người Do Thái. Họ khẳng định rằng họ là những con người bình thường.
Sau đó, Phao-lô nói với đám đông và nói với họ rằng sứ mệnh
của ông, cùng với Ba-na-ba, chính xác là dẫn dắt mọi người tránh xa những mê
tín dị đoan thờ ngẫu tượng như vậy để tin vào:
… Đức Chúa Trời hằng sống,
là Đấng đã tạo nên trời, đất, biển và mọi vật trong đó.
Khi rao giảng chống lại niềm tin vào nhiều vị thần (mà hầu hết
những người nói tiếng Hy Lạp tin theo), Phao-lô thường đối chiếu Đức Chúa Trời
thật với Đức Chúa Trời giả, Đức Chúa Trời hằng sống với các thần tượng bất lực
và kêu gọi thay đổi tấm lòng.
Phao-lô muốn nói với họ về Đức Chúa Trời hằng sống duy nhất,
là nguồn gốc của mọi thứ trên trời và dưới đất. Trong khi để cho Dân Ngoại đi
theo con đường riêng của họ, Đức Chúa Trời đã ban cho họ chứng ngôn dồi dào về
sự hiện diện của Ngài—Ngài ban cho:
… mưa từ trời và mùa
màng bội thu, và làm cho các ngươi no đủ thức ăn và lòng các ngươi vui mừng.
Phao-lô nói với họ về Nguồn gốc thực sự của mọi điều tốt
lành này. Nhưng dân chúng không dễ bị thuyết phục và hầu như không thể ngăn cản
họ thực hiện kế hoạch dâng lễ vật cho hai Sứ đồ.
Ở đây chúng ta thấy thêm hai yếu tố nữa trong công việc của
chúng ta cho Chúa Kitô:
• Sự ngược đãi ở một nơi có nghĩa là thông điệp được mang đến
nơi khác. Chúng ta thấy điều này xảy ra thường xuyên trong Công vụ Tông đồ.
• Trong khi sự ngược đãi thường là số phận của người làm việc
cho Chúa Kitô và Phúc âm của Người, thì một cái bẫy thậm chí còn nguy hiểm hơn
có thể là sự tâng bốc của mọi người.
Chúng ta thấy điều này trong cuộc đời của chính Chúa Giêsu,
người đôi khi chạy trốn khỏi những tình huống như vậy (xem Gioan 6,15). Ở đây chúng ta thấy Phao-lô và
Ba-na-ba kiên quyết từ chối một tình huống có vẻ thuận lợi mà họ có thể bị cám
dỗ để khai thác. Như chúng ta sẽ thấy vào ngày mai, thật may là họ đã không làm
vậy.
Chú giải về Gioan 14,21-26
Chúa Giê-su
tiếp tục lời nhắn nhủ từ biệt của mình với các môn đồ tại Bữa Tiệc Ly. Những ai
thực sự yêu mến Ngài là những người thực hiện những lời dạy mà Ngài đã ban cho
họ. Chỉ lời nói thôi thì không đủ. Khi có tình yêu thương thực sự từ các môn đồ,
Chúa Giê-su sẽ đáp lại tình
yêu thương đó và mặc khải chính mình cho các môn đồ. Ngài sẽ làm điều này bằng
cách đến với Chúa Cha để ngự
trong người đó.
Bây giờ đến lượt Giu-đa đặt câu hỏi. Giu-đa,
trong bài đọc được gọi là "Giu-đa
(không phải Iscariot)", cũng được gọi là "Giu-đa con trai của Gia-cô-bê". Ông được liệt kê trong số
Mười Hai trong Luca 6,16 và ông xuất hiện một lần nữa (trong một danh sách)
trong Tông Đồ Công vụ 1,13.
Người ta tin rằng ông là 'Ta-đê-ô'
trong Mát-thêu 10,3 và Mác-cô 3,18.
Ông muốn biết tại sao Chúa Giê-su chỉ mặc khải chính mình cho các môn đồ của mình chứ
không phải cho thế gian. Chúa Giê-su
trả lời khá ngắn gọn, nhưng về cơ bản, Người đang nói rằng bất kỳ ai đáp lại
Chúa Giê-su bằng tình yêu chắc
chắn sẽ trải nghiệm được tình yêu của Chúa Giê-su (luôn ở đó). Theo định nghĩa, "thế gian" trong Phúc
âm của Gio-an bao gồm những
người quay lưng lại với Chúa Giê-su,
sứ điệp và tình yêu của Người:
Ai không yêu mến Ta
thì không giữ lời Ta, và lời mà các con nghe không phải của Ta nhưng là của
Cha, Đấng đã sai Ta.
Chúa Giê-su
một lần nữa nhắc nhở các môn đồ của mình rằng mọi điều Người truyền đạt cho họ
cuối cùng đều đến từ Chúa Cha
chứ không chỉ từ Người. Người là Đấng trung gian; Người là Con Đường; Người là
Lời của Thiên Chúa. Và sau đó, sau khi Người ra đi, vai trò này sẽ được Chúa
Thánh Thần, Đấng Bảo Trợ đảm nhiệm.
Từ "paraclete" (tiếng Hy Lạp, parakletes) có nhiều nghĩa. Nó có thể có nghĩa là luật sư bào chữa
tại tòa án, người đứng bên cạnh bị cáo và hỗ trợ bị cáo trong việc đưa ra vụ
án. Nó có nghĩa là bất kỳ người nào đứng bên cạnh bạn và hỗ trợ và an ủi bạn.
(Xem 2 Cô-rinh-tô 1,3-7, trong một đoạn văn ngắn, từ parakletes, trong nhiều dạng khác nhau của tiếng Hy Lạp gốc, được sử
dụng 7 hoặc 8 lần theo nghĩa là ‘an ủi’ và ‘hỗ trợ’.) Thánh Linh sẽ đóng vai
trò đó trong Giáo hội sau khi Chúa Giê-su trở về với Cha của Người—và Thánh
Linh vẫn tiếp tục vai trò đó.
Vai trò của Thánh Linh là giúp các môn đồ ghi nhớ tất cả những
gì Chúa Giê-su đã nói với họ. Ngài là tiếng nói bên trong của Chúa, Đấng sẽ dẫn
dắt những ai lắng nghe đến sự trọn vẹn của chân lý (điều mà không ai có được
vào bất kỳ thời điểm nào). Thánh Linh sẽ giúp họ hiểu được ý nghĩa trọn vẹn của
Đấng Ki-tô đối với họ và đối
với thế giới. Thánh Linh sẽ cho họ thấy rằng Đấng Ki-tô là sự ứng nghiệm của Kinh thánh, và sẽ
giúp họ hiểu sâu sắc hơn nữa ý nghĩa của cuộc đời Chúa Giê-su, hành động của
Người và ‘dấu hiệu’ của Người.
Tất cả những điều này các môn đồ hầu như không hiểu ở giai
đoạn này—một sự thiếu hụt vẫn tiếp tục cho đến ngày nay.
https://livingspace.sacredspace.ie/e1052g/
Suy niệm: Bỏ điều hão huyền
Con người thiện chí. Nhưng dễ rơi vào những điều hão huyền.
Dân chúng và các tư tế đền thờ thần Dớt tại Ly-cao-ni-a là một bằng chứng. Họ
nghĩ tưởng về thần thánh theo phạm trù khái niệm họ tự đặt ra. Quả quyết
Phao-lô và Bar-na-ba là thần Dớt và thần Hẹc-mét. Trong khi đó không tin lời của
chính đương sự nói. Nên Phao-lô khuyên nhủ họ phải từ bỏ những điều hão huyền để
trở về với Thiên Chúa là đường ngay nẻo chính.
Thực ra không ai có thể biết Thiên Chúa. Trừ khi Thiên Chúa
tỏ mình cho. Thiên Chúa vượt xa mọi tầm hiểu biết của con người. Vượt xa mọi
khái niệm của con người. Vượt xa mọi điều con người có thể suy nghĩ và mường tượng
ra. Nhưng Thiên Chúa cũng không thể tỏ mình cho bất cứ ai. Thiên Chúa không tỏ
mình một cách vô lý cưỡng ép. Nhưng chỉ có thể tỏ ra với những điều kiện phải
có. Điều kiện đó là tình yêu.
Thiên Chúa là Tình Yêu. Chỉ những ai yêu mới đón nhận được
Thiên Chúa. Không phải yêu lý thuyết nhưng là yêu thực sự cụ thể. Đó là tuân giữ
giới răn như Chúa Giêsu đòi hỏi: “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy
mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ đượ Cha của Thầy yêu mến. Thầy
sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy”. Thiên Chúa tình yêu tỏ
mình ra cho người có tình yêu. Và chỉ người có tình yêu mới hiểu và đón nhận được
Thiên Chúa là Tình Yêu.
Còn hơn cả tỏ mình ra, Thiên Chúa sẽ ở lại và kết hợp với ta
trong tình yêu. “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến
người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy”. Đó chính là lúc
ta cảm nhận được tình yêu thực sự. Đó chính là ta đón nhận được tình yêu thực sự.
Tình yêu cụ thể. Tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa. Tình yêu tuyệt hảo giữa Cha
và Con trong sự hợp nhất của Chúa Thánh Thần.
Ta hãy từ bỏ những điều hão huyền. Lối sống hão huyền. Mơ ước
hão huyền. Tình yêu hão huyền. Hạnh phúc hão huyền. Yêu mến và tuân giữ Lời
Chúa ta sẽ có tình yêu thực sự. Được Thiên Chúa Ba Ngôi Tình Yêu đến ở với ta,
ta sẽ cảm nhận được tình yêu thực sự. Sẽ có niềm vui chan chứa. Sẽ hưởng hạnh
phúc vĩnh cửu.
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét