Công đồng Nixêa và Hệ lụy Lớn lao
Vũ Văn An 10/Aug/2025
a Byzantine fresco in
the basilica of St. Nicholas in Demre, Turkey
Charles Yost, giáo sư Lịch sử Trung cổ tại Đại học
Hillsdale, trên trang mạng của Real Clear Religion
(https://www.realclearreligion.org/articles/2025/07/30/the_council_of_Nixêa_and_the_great_complication),
ngày 30 tháng 7, 2025 viết rằng: Trong chương mười sáu của Tin Mưng Mátthêu,
Chúa Giêsu thành Nadarét hỏi các môn đệ: "Các con bảo Thầy là ai?". Gần
300 năm sau, tại Công đồng Nixêa, phương Tây đã trả lời rằng Chúa Kitô không ai
khác chính là Thiên Chúa được sinh ra bởi Thiên Chúa — "Thiên Chúa bởi
Thiên Chúa, Ánh sáng bởi Ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật... đồng
bản thể với Chúa Cha." Sau đó, không gì có thể trở lại như cũ. Không thể
có chiều kích nào của đời sống và hoạt động con người thoát khỏi những hệ lụy của
lời tuyên xưng đó.
Tuy không đi xa đến mức nói rằng Công đồng Nixêa đã nói lên lời cuối cùng về
cách chúng ta dung hòa nhân tính bề ngoài của Chúa Kitô với thiên tính của Người
— chắc chắn là không — nhưng mọi xã hội sau này tự xưng là Kitô giáo đều phải vật
lộn với những tiêu chuẩn cao ngất ngưởng mà Chúa Kitô đã đặt ra trong Bài giảng
trên núi. Kể từ Công đồng Nixêa, những nỗ lực tiếp theo của phương Tây trong việc
cai trị, trên chiến trường, trên giường ngủ và tại chợ búa đã trở nên phức tạp
hơn bởi các mối Phúc Thật.
Không gì có thể trở lại như cũ.
Hệ lụy của việc đưa Chúa Kitô-Thiên Chúa vào chính trị không bắt nguồn từ bất cứ
sự phản đối nào của La Mã đối với tôn giáo — nghệ thuật trị quốc của La Mã luôn
thấm nhuần thần tính — mà từ sự xa cách rõ ràng của Chúa Kitô đối với chính trị.
Mặc dù, theo Công đồng Nixêa, Chúa Kitô đồng nhất với Thiên Chúa Toàn Năng,
nhưng trong suốt thời gian thi hành sứ vụ trên đất, Người dường như đã từ bỏ mọi
tham vọng cai trị giống như Thiên Chúa. Các môn đệ của Người đã làm Người khó
chịu bằng cách tranh giành nhau những vị trí danh giá bên hữu Người (Mt 20:21),
làm phiền Người về việc khôi phục Vương quốc Đa-vít (Công vụ 1:6), và bày tỏ sự
kinh ngạc trước tấm gương tự hạ mình mà Người đã dành cho họ khi cúi xuống rửa
chân (Ga 13:8). Sự thống trị là một điều tốt đẹp đối với dân ngoại, Chúa Kitô
đã nói với các môn đệ của Người, nhưng trong số các ngươi, hãy để sự lãnh đạo của
các ngươi là sự phục vụ (Mt 20:25-28). Điều này có ích gì cho một hoàng đế, người
theo bản năng ngước mắt lên trời để tìm một hình mẫu thiên đàng cho sự cai trị
của mình, và bản mộ tả công việc của người đó chỉ là… thống trị? Nhưng vấn đề này
đã cung cấp nền tảng cho lý thuyết chính trị sau này của phương Tây, nơi một
hình mẫu mới về chính phủ như một nhà lãnh đạo phục vụ bắt chước Chúa Kitô đã
được phát triển và quyền lực chính trị được diễn đạt và biện minh tương tự như
Chúa Kitô, Đấng vừa là Đức Chúa Trời vừa là Con Người, vừa là Vua vừa là Tôi Tớ.
Những hệ lụy về thần tính của Chúa Kitô chắc chắn đã làm phức tạp thêm hoạt động
chiến tranh, một mệnh lệnh hiện sinh cho sự tồn vong của bất cứ nền văn minh
nào. Việc tiêu diệt kẻ thù không nằm trong chương trình nghị sự của Chúa Kitô,
và lệnh truyền của Người về việc đưa má bên kia dường như không mang lại nhiều
sự an ủi cho người lính Kitô giáo. Không phải là người La Mã hậu Nixêa đã
nghiêm túc xem xét chủ nghĩa hòa bình - ít nhất không phải là vấn đề chính sách
đế quốc - nhưng thật khó để tưởng tượng họ có được Đế quốc của mình ngay từ đầu
nếu Công đồng diễn ra sớm hơn một nghìn năm. Đối với Thánh Augustinô thành
Hippo (khoảng 354-430), quy mô của Đế quốc không phải là điều mà một Kitô hữu có
thể khoe khoang: nó trải dài qua nhiều thế kỷ đau khổ và đổ máu của con người.
Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là nó nên bị bỏ rơi cho kẻ thù. Như Thánh
Augustinô đã biết, xã hội chính trị là cần thiết trong một thế giới sa ngã và
đôi khi phải được bảo vệ khỏi những kẻ gian ác.
Một số nhà văn Kitô giáo thậm chí còn phát triển một cái nhìn lạc quan hơn về
thành tựu của La Mã dựa trên sức mạnh quân sự. Theo nhà thơ Kitô giáo
Prudentius (khoảng 348-413), sự trỗi dậy của La Mã để giành quyền bá chủ thế giới
ngay từ đầu đã là một âm mưu thần thánh nhằm mục đích bình định thế giới để chuẩn
bị cho việc tiếp nhận Tin mừng. Đế quốc đã tạo bối cảnh cho những người Kitô hữu
sống cuộc đời của họ trong sự thanh thản, và kết luận tự nhiên là bổn phận của
người Kitô hữu là phải duy trì nền văn minh này.
Những nỗ lực như vậy để vạch ra một lộ trình giữa tấm gương của Chúa Kitô và mệnh
lệnh của thanh kiếm đã làm nảy sinh “lý thuyết chiến tranh chính nghĩa”, và nếu
lịch sử sau này có cung cấp bất cứ hiểu biết nào, thì kiểu tự vấn này hầu như
không cản trở nền văn minh La Mã Kitô giáo, vốn đã tồn tại thêm một thiên niên
kỷ nữa. Nhưng mọi cuộc thuyết trình hiện đại viện dẫn “tính tương xứng” hay
“phương sách cuối cùng” vẫn dựa trên cái phanh thần học mà Công đồng Nixêa đã áp
dụng cho cỗ xe của đế quốc.
Bằng cách định nghĩa Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa, Công đồng Nixêa cũng mở ra
cánh cửa cho Tin Mừng xâm nhập vào sự hối hả, nhộn nhịp của cuộc sống thường nhật,
vốn cấu thành nên chính bản chất của nền văn minh, bình diện mà những người
bình thường hằng ngày cố gắng sống và hòa hợp. Giờ đây, khi Thiên Chúa đã được
mặc khải giữa loài người trong Chúa Kitô, cánh cửa đã mở ra cho những người
phàm trần gặp gỡ Thiên Chúa ở chợ búa, tại tòa án, trong trại lính, và thậm chí
trong hành lang của cung điện hoàng gia. Và chính những cuộc gặp gỡ này – nơi
thế giới và tất cả sự huy hoàng của nó đột nhiên được đưa đến những chiều kích
đúng đắn trong viễn cảnh vĩnh cửu – đã tạo nên phương Tây như chúng ta vẫn biết.
Các cuộc tranh luận hiện tại ở phương Tây về nạn ăn cắp tiền lương, cho vay đến
ngày lãnh lương oặc chính sách tị nạn, nơi các giá trị Tin mừng thường được nhắc
đến, phản ảnh sự rút lui của các vị thần cũ và nền luân lý trực quan của họ
(“làm hại kẻ thù và giúp đỡ bạn bè”) khỏi thương mại và tòa án để ủng hộ đạo đức
hoàn toàn bất tiện của các mối Phúc Thật—một kỳ tích chỉ đáng thử nghiệm bao
lâu người rao giảng những Phúc Thật đó chính là Thiên Chúa, như công đồng thế kỷ
thứ tư này đã tuyên bố.
Sự can thiệp của Công đồng Nixêa đôi khi được coi là sự tha hóa của Kitô giáo bởi
các định chế công cộng và sự biến đổi của nó thành một công cụ đơn thuần cho những
con người co quyền lực. Nhưng có lẽ chúng ta nên đổ lỗi cho Chúa Kitô về điều
này. Nếu Người không ám chỉ rằng Người là một điều gì đó hơn cả một con người
bình thường — như Người đã làm, một cách rụt rè nhưng khiêu khích, trong suốt
các sách Tin Mừng— thì có lẽ nhân cách và sứ điệp của Người sẽ không bao giờ trở
thành mối quan tâm của các hoàng đế, thẩm phán và tướng lĩnh, những người luôn
hướng lên trời để tìm kiếm nguồn gốc quyền lực của họ. Và nếu những con người
cao quý này vẫn xa cách, thì còn hy vọng gì về một phương Tây nơi các doanh
nhân, cảnh sát và binh lính có thể đối diện với cái bóng của Chúa Kitô?
Mười bảy thế kỷ trôi qua, di sản của Công đồng Nixêa vẫn tiếp tục làm phức tạp
cuộc sống của chúng ta. Nó kêu gọi mọi nhà cầm quyền biện minh cho quyền lực bằng
sự phục vụ, mọi vị tướng hãy cân nhắc đổ máu bằng các Mối Phúc, và mọi thương
gia cân nhắc lợi nhuận với tình yêu thương tha nhân. Nhân dịp kỷ niệm 1,700 năm
Công đồng, chúng ta nên chú ý hơn đến những căng thẳng và mâu thuẫn tưởng chừng
như đã được nó khơi dậy ở phương Tây. Việc suy gẫm về những hệ lụy của Công đồng
đó sẽ góp phần làm suy yếu những quan niệm hời hợt và dễ dãi về “đạo đức phương
Tây” và phơi bày những căng thẳng sáng tạo nằm sâu thẳm trong di sản phương Tây
của chúng ta. Nhưng có một điều chắc chắn: các cuộc đàm phán không kết thúc bằng
tuyên bố của những giám mục tụ họp 1,700 năm trước tại Nixêa, bên bờ Hồ Iznik.
Tất nhiên, họ đã định nghĩa đức tin - một kỳ tích không hề nhỏ. Nhưng một người
quan sát du hành thời gian có thể đã gợi ý với họ rằng, giờ đây họ đã thành
công trong việc tuyên bố một người bị đóng đinh là “Thiên Chúa thật bởi Thiên
Chúa thật”, thì cuộc đàm phán thực sự - trong chính phủ, gia đình và cuộc sống
của chúng ta - mới chỉ bắt đầu.
https://vietcatholic.net/News/Html/297379.htm
.jpg)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét