THỨ SÁU 06/12/2013
Thứ Sáu Tuần I Mùa
Vọng
Bài
Ðọc I: Is 29, 17-24
"Ngày
đó mắt người mù sẽ được xem thấy".
Trích
sách Tiên tri Isaia.
Ðây
Chúa là Thiên Chúa phán: Không còn bao lâu nữa, Liban sẽ trở nên lùm cây, và
lùm cây sẽ trở nên cánh rừng. Ngày đó, người điếc sẽ được nghe lời Sách Thánh,
và từ bóng tối, mắt người mù sẽ được xem thấy. Những người hiền lành sẽ càng
thêm vui mừng trong Chúa, và những kẻ nghèo khó sẽ nhảy mừng trong Ðấng Thánh của
Israel. Vì chưng, người ỷ thế sẽ thất bại, kẻ khinh người sẽ bị hổ ngươi, người
mưu toan gian ác sẽ bị tiêu diệt. Ðó là kẻ dùng lời nói để cáo gian người khác,
kẻ ra cửa thành mà đánh lừa người xử kiện, kẻ lấy sự nhỏ nhoi mà hiếp đáp người
công chính. Vì thế, Chúa, Ðấng cứu chuộc Abraham, phán cùng nhà Giacóp lời này:
Từ đây Giacóp sẽ chẳng còn phải hổ ngươi và đỏ mặt; nhưng khi xem thấy con cháu
mình là công trình của tay Ta, đang ca ngợi danh thánh Ta giữa nhà Giacóp, thì
chúng sẽ ngợi khen Ðấng Thánh của Giacóp và tuyên xưng Thiên Chúa Israel. Và
tâm trí lầm lạc sẽ được hiểu biết; người lẩm bẩm sẽ học biết lề luật.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 26, 1. 4. 13-14
Ðáp: Chúa là sự
sáng và là Ðấng cứu độ tôi (c. 1a).
Xướng:
1) Chúa là sự sáng, là Ðấng cứu độ, tôi sợ chi ai? Chúa là Ðấng phù trợ đời
tôi, tôi sợ gì ai? - Ðáp.
2)
Có một điều tôi xin Chúa, một điều tôi kiếm tìm, đó là tôi được cư ngụ trong
nhà Chúa suốt đời tôi, hầu vui hưởng sự êm đềm của Chúa, và chiêm ngưỡng thánh
điện của Ngài. - Ðáp.
3)
Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh.
Hãy chờ đợi Chúa, hãy sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và chờ đợi Chúa. -
Ðáp.
ALLELUIA: Is 45, 8
Alleluia,
alleluia! - Hỡi các tầng trời, hãy đổ sương mai; hỡi ngàn mây, hãy mưa Ðấng
Công Chính, đất hãy mở ra và trổ sinh Ðấng Cứu Chuộc. - Alleluia.
Phúc
Âm: Mt 9, 27-31
"Tin vào Chúa
Giêsu, hai người mù được chữa lành".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi
ấy, Chúa Giêsu đi ngang qua, có hai người mù chạy theo Chúa và kêu lớn tiếng rằng:
"Hỡi Con vua Ðavít, xin thương chúng tôi". Khi Chúa tới nhà, những
người mù tiến lại gần Chúa. Chúa Giêsu phán bảo họ: "Các ngươi có tin rằng
Ta có thể làm việc ấy không?" Họ thưa: "Lạy Thầy, có". Bấy giờ
Chúa sờ vào mắt họ và phán: "Các ngươi tin thế nào, thì hãy được như vậy".
Mắt họ liền mở ra, nhưng Chúa Giêsu truyền cho họ rằng: "Coi chừng, đừng
cho ai biết". Nhưng vừa ra đi, họ liền đồn tiếng Người trong khắp miền ấy.
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm:
Lòng
Tin Khiến Họ Ðược Chữa Lành
Roberto
Newman là một người mù từ lúc mới sinh, và mãi đến năm 50 tuổi, một cuộc giải
phẫu mới cho phép ông được thấy ánh sáng đầu tiên trong cuộc đời. Với ánh sáng,
toàn thể thế giới như thay đổi hẳn viễn tượng trong tâm trí ông với những điều
bấy lâu ông hằng tưởng tượng.
Khi
được phỏng vấn, ông đã trả lời tờ báo Chicago như sau: "Ðược nhìn thấy
mọi vật quả là một diễm phúc trên đời. Tôi không ngờ rằng một giáo thuyết đã dạy
tôi sẽ nhìn thấy mọi vật quanh tôi và đêm về tôi có thể nhìn ngắm các vì sao,
những vật thể li ti của dãy ngân hà trên thiên không diệu vời. Bạn sẽ chẳng bao
giờ thấy chúng tuyệt vời đến thế nào đối với tôi".
Nhận
xét của Roberto thật xác đáng. Những ai đã một lần mất đi ánh sáng trong cuộc đời
để rồi đánh giá trị của khả năng nhìn ngắm. Hôm nay thánh sử Matthêu cũng thuật
lại cho chúng ta câu chuyện hai người đang cần ánh sáng và cuộc tìm kiếm của họ.
Thật
vậy, ánh nắng chói chang của vùng sa mạc cùng với những cơn lốc thổi cát bụi mịt
mù và cách sống không mấy vệ sinh về đôi mắt đã khiến cho bệnh mù dễ dàng phát
sinh tại vùng Palestina. Chúng ta cũng phần nào thấy được điều này qua con số bị
mắc bệnh thường tìm đến với Chúa Giêsu. Tuy nhiên, dù có phải đông người mắc chứng
bệnh mù lòa thì không phải vì thế mà người mù lại an phận với kiếp mù lòa của họ,
nhưng cuộc sống của họ luôn luôn là một thao thức tìm kiếm ánh sáng, gặp được
cơ may có thể tìm thấy ánh sáng thì họ chẳng bao giờ bỏ lỡ cơ hội.
Người
mù Thành Giêricô đang ngồi ăn xin bên vệ đường, nhưng vừa nghe biết Chúa Giêsu
đi ngang qua, anh liền vội vàng lớn tiếng kêu xin: "Lạy Ngài xin cứu chữa
tôi". Những người chung quanh cản ngăn thì anh lại càng la to hơn để rồi một
khi đã nghe tiếng Chúa gọi, anh ta vứt bỏ tất cả để kịp đến với Ngài.
Hai
người mù trong trình thuật Tin Mừng hôm nay tuy không có những cử chỉ như người
mù Thành Giêricô, nhưng thái độ bền bỉ của họ cũng nói lên được tâm trạng khát
vọng sự sáng. Chúa Giêsu đã gặp họ dọc đường, họ lớn tiếng kêu xin Người nhưng
Ngài không chữa họ tại nơi đó, Ngài tiếp tục hành trình. Dù chưa được Chúa đáp
lời chữa ngay nhưng họ không thất vọng bỏ cuộc và vẫn tiếp tục theo Ngài. Về đến
nhà, họ tiến lại gặp Ngài để một lần nữa xin Ngài chữa lành. Câu hỏi Chúa Giêsu
đã đặt ra cho hai người mù là để gián tiếp diễn tả một câu hỏi khác: "Các
ngươi có tin Ta là Ðấng Cứu Thế không?" Vì theo các tiên tri khi thời Ðấng
Cứu Thế đến thì mọi bệnh tật sẽ được chữa lành như: người câm nói được, người
điếc được nghe, kẻ què được lành và người mù được thấy... Họ đáp:
"Có" và lòng tin đã khiến cho họ được chữa lành. Trước và sau khi được
chữa lành, người mù đều lớn tiếng. Lúc trước họ lớn tiếng vì lòng khát khao tìm
thấy ánh sáng, và lần sau họ cũng lớn tiếng với nỗi vui mừng đã được thấy ánh
sáng. Khi tìm được nỗi vui mừng thì dù Chúa Giêsu có ngăn cấm, họ vẫn cao rao
danh Ngài.
Thế
giới hôm nay cũng đang có những luồng ánh sáng và cơn lốc tối mù lý trí và
lương tâm con người, bệnh mù này còn nguy hiểm hơn bệnh mù thể xác. Vì lắm lúc
con người đang mù mà vẫn cứ tưởng là mình sáng, hoặc có quá nhiều người mù nên
con người lại lấy số đông để khỏa lấp cơn bệnh. Phần nào như tâm trạng của Tú
Xương: "Thiên hạ có khi đang ngủ cả, viêc gì mà thức một mình ta".
Ðể
chữa trị bệnh mù này cũng không dễ dàng gì, nó đòi hỏi con người phải có một
thái độ bền bỉ và vững tin vào Chúa Giêsu như hai người mù ở trên. Bước theo
Ngài nhưng nhiều lúc như bị Ngài bỏ quên không nhìn tới. Tha thiết tìm đến Ngài
thế mà chẳng được đoái hoài. Thất vọng để rồi buông xuôi bỏ cuộc thì con người
sẽ mãi mãi ở trong bóng tối, nhưng vững bước theo Ngài để rồi tuyên xưng Ngài
là Ðức Kitô thì con người sẽ tìm thấy ánh sáng, sẽ được nhìn ngắm những điều
tuyệt vời mà trước đấy họ chưa từng thấy và cũng chẳng ai có ngoài một mình
Thiên Chúa.
Ước
mong rằng trong Mùa Vọng này, mỗi người trong chúng ta sẽ hiểu được giá trị sự
sáng Chúa đã đem đến cho trần gian, cũng như biết rõ tình trạng mù lòa của mình
để rồi chúng ta sẽ tìm đến với Ngài, bất chấp mọi khó khăn trở ngại và nhờ vào
lòng tin, chúng ta sẽ được chữa lành.
(Veritas Asia)
Lectio: Mátthêu 9:27-31
Thứ Sáu, 6 Tháng 12, 2013
Tuần thứ nhất Mùa
Vọng
1. Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa là Cha của chúng con,
Trong Chúa Giêsu Kitô, Con của Chúa
Chúa mời gọi tất cả mọi người nhận biết và yêu mến Chúa
Và sống trong sự bình an vô tận của Chúa.
Để cho lòng sốt mến tiếp tục tồn tại trong chúng con
Để mang lại ánh sáng chân lý của Chúa
Và sự phong phú của cuộc sống và tình yêu của Chúa dành cho tất
cả mọi người,
Không phân biệt chủng tộc, ngôn ngữ hoặc văn hóa.
Nguyện xin cho tất cả mọi người trên thế gian đến để biết về
Chúa
Là Cha nhân hậu của tất cả mọi người
Nhờ anh của chúng con và là Đấng Cứu Thế
Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con.
2. Phúc Âm – Mátthêu 9:27-31
Khi ấy, Chúa Giêsu đi ngang qua, có hai người
mù chạy theo Chúa và kêu lớn tiếng rằng: “Hỡi Con vua Đavít, xin
thương chúng tôi.” Khi Chúa tới nhà, những người mù tiến lại gần
Chúa. Chúa Giêsu phán bảo họ: “Các ngươi có tin rằng Ta
có thể làm việc ấy không? Họ thưa: “Lạy Thầy, có.” Bấy
giờ, Chúa sờ vào mắt họ mà phán: “Các ngươi tin thế nào, thì hãy
được như vậy.” Mắt họ liền mở ra, nhưng Chúa Giêsu truyền cho họ
rằng: “Coi chừng, đừng cho ai biết.” Nhưng vừa ra đi, họ
liền đồn tiếng Người trong khắp miền ấy.
3. Suy Niệm
Một lần nữa, bài Tin Mừng hôm nay đặt trước
chúng ta cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu với sự đau khổ của loài người. Chúa
Giêsu không lùi bước, Người không lẩn tránh. Chúa chấp nhận người ta
và trong việc chấp nhận họ, đầy lòng trìu mến, Người mặc khải tình yêu của
Thiên Chúa.
- Có hai người mù chạy theo Chúa
Giêsu và kêu lớn tiếng với Người: “Hỡi Con vua Đavít, xin thương
chúng tôi!” Chúa Giêsu không thích danh hiệu Con vua Đavít cho
lắm. Người chỉ trích việc giảng dậy của các Kinh Sư đã nói rằng Đấng
Cứu Thế sẽ là Con vua Đavít: “Chính vua Đavít gọi Đấng Kitô là Chúa
Thượng, thì Đấng Kitô lại là con vua ấy thế nào được?” (Mc 12:37).
- Khi tới nhà, Chúa Giêsu hỏi
họ: “Các ngươi có tin rằng Ta có thể làm việc ấy không?” Và
họ thưa: “Lạy Thầy, có!” Điều để có học thuyết chính xác trong
trí óc, và để có đức tin đúng ở trong lòng là hai điều rất khác nhau. Học
thuyết của hai người mù đã không chỉnh lắm, bởi vì họ gọi Chúa Giêsu là Con vua
Đavít. Dù rằng Chúa Giêsu không màng đến việc được gọi với danh hiệu
như thế, nhưng điều quan trọng đối với Người là phải có một đức tin chính xác.
- Chúa sờ vào mắt họ và phán: “Các
ngươi tin thế nào, thì hãy được như vậy!” Ngay lập tức, mắt họ liền
mở ra. Mặc dù trên thực tế, họ không có một học thuyết chính xác,
hai người mù đã có một đức tin đúng. Ngày nay, có nhiều người lại quan tâm
về một học thuyết chuẩn mực hơn là về một đức tin đúng.
- Ta không nên quên một chi tiết
nhỏ về lòng hiếu khách. Chúa Giêsu đến nhà và hai người mù cũng đi
theo vào nhà, như thể đây là một việc tự nhiên nhất trên thế giới. Họ
cảm thấy thoải mái trong nhà của Chúa Giêsu và còn ngày nay thì sao? Một
nữ tu đã nói rằng: “Ngày nay, thế giới đang ở trong tình trạng mà
tôi cảm thấy là đầy dẫy mọi nghi ngờ thậm chí đối với cả người nghèo khó! Tình
huống đã thay đổi rất nhiều từ thời đó cho đến bây giờ!
- Chúa Giêsu truyền cho hai người
mù đừng cho ai biết. Nhưng lời ngăn cấm đã không được tuân theo cho
lắm. Cả hai đã đi và loan truyền Tin Mừng. Đi loan báo
Phúc Âm, hay Tin Mừng, có nghĩa là chia sẻ với những người khác về những việc
tốt lành mà Thiên Chúa đã thực hiện trong cuộc sống của chúng ta.
4. Một vài câu hỏi gợi ý cho việc
suy gẫm cá nhân
- Trong đời sống của tôi, tôi có
một vài Tin Mừng của Chúa để chia sẻ với người khác không?
- Tôi sẽ thiên về điểm nào hơn: một
học thuyết chuẩn mực hay một đức tin đúng?
5. Lời nguyện kết
Chúa là ánh sáng và là Đấng Cứu Độ con; con
còn sợ ai?
Chúa là thành lũy che chở mạng sống con; con còn sợ người nào
nữa? (Tv 27)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Sáu Tuần I MV
Bài đọc: Isa 29:17-24; Mt
9:27-31.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải kiên nhẫn trước
khi đạt được điều hy vọng.
Mùa
Vọng là mùa mong đợi Chúa đến. Giáo Hội muốn các tín hữu mong đợi không chỉ môt
ngày hay chỉ ít giờ trước Thánh Lễ Nửa Đêm; nhưng là cả 4 tuần lễ. Tại sao cần
một thời gian dài chuẩn bị như thế? Lý do là để con người có dịp đọc lại lịch sử
ơn cứu độ qua Lời Chúa, hồi tâm và suy xét cuộc đời mình để nhìn ra sự khác biệt
giữa một người có Chúa và một người không có Chúa; những gì được hưởng và những
gì bị thua thiệt. Một khi nhìn ra những điều đó, con người sẽ nhận thấy sự cần
thiết của Thiên Chúa trong cuộc đời; và sẽ nhiệt thành chuẩn bị để có được Chúa
trong cuộc đời. Các Bài đọc hôm nay giúp con người nhận ra sự cần thiết đó.
Trong Bài đọc I, Tiên Tri Isaiah cho dân thấy những lợi ích con người sẽ được
hưởng khi Đức Chúa can thiệp vào đời sống của dân Ngài. Trong Phúc Âm, Chúa
Giêsu không phải chỉ chữa lành người mù, nhưng giúp các ông nhận ra lợi ích của
việc đặt trọn vẹn niềm tin và hy vọng nơi Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Thị kiến về Ngày Đấng Thiên Sai sẽ đến.
1.1/
Những lợi ích Đấng Thiên Sai sẽ mang đến cho dân Ngài:
(1)
Con người thu thập mùa màng hoa trái: “Chỉ còn chút nữa, chút ít nữa thôi, núi Liban sẽ lại
thành vườn cây ăn trái, và vườn cây ăn trái sẽ sum sê như một cánh rừng.”
(2)
Mọi bệnh nhân sẽ được chữa lành: “Ngày ấy, kẻ điếc sẽ được nghe những lời trong sách,
mắt người mù sẽ thoát cảnh mù mịt tối tăm và sẽ được nhìn thấy.”
(3)
Kẻ nghèo hèn sẽ được sống: “Nhờ Đức Chúa, những kẻ hèn mọn sẽ ngày thêm phấn khởi, và vì Đức
Thánh của Israel, những người nghèo túng sẽ nhảy múa tưng bừng.”
(4)
Ác nhân sẽ bị tiêu diệt: “Thật
vậy, loài bạo chúa đã không còn nữa, quân ngạo mạn sẽ phải tiêu vong, và mọi kẻ
rắp tâm làm điều ác ắt sẽ bị diệt trừ: đó là những kẻ dùng lời nói làm cho người
ta bị kết tội, và cho người xử án tại cửa công phải mắc bẫy; chúng dùng những lời
lẽ vô căn cứ mà làm cho người công chính bị gạt ra ngoài.”
1.2/
Nhà Israel sẽ nhận ra quyền năng Thiên Chúa và biết kính sợ Ngài: Sở dĩ Thiên Chúa để
quân ngọai bang giầy xéo Israel là vì họ đã không còn kính sợ và nghe theo Lời
Chúa; nhưng nếu họ biết ăn năn trở lại, họ sẽ nhìn thấy quyền năng Thiên Chúa
được tỏ hiện trên quân thù. Tiên Tri xác quyết một khi đã được Thiên Chúa chăm
sóc, họ sẽ không còn bị nhục nhã xấu hổ với quân thù: “Từ nay Jacob sẽ không
còn phải xấu hổ, từ nay nó sẽ không còn bẽ mặt thẹn thùng, vì khi Jacob nhìn thấy
nơi nó những công trình tay Ta đã làm, nó sẽ tuyên xưng danh Ta là thánh, sẽ
tuyên xưng Đấng Thánh của Jacob là thánh, và sẽ kính uý Thiên Chúa của Israel.
Những người tâm trí lầm lạc sẽ có được sự hiểu biết, và những kẻ ương ngạnh sẽ
chấp nhận lời răn dạy.”
2/
Phúc Âm:
Các anh tin thế nào thì được như vậy.
2.1/
Chúa thử 2 người mù: Trình
thuật kể: “Đang khi Đức Giêsu ra khỏi nơi đó, thì có hai người mù đi theo kêu
lên rằng: "Lạy Con Vua David, xin thương xót chúng tôi!" Khi Đức
Giêsu về tới nhà, thì hai người mù ấy tiến lại gần.” Tại sao Chúa Giêsu không
chữa 2 người mù ngay khi còn trên đường, mà bắt họ chờ cho tới khi về đến nhà?
Thời gian chờ đợi làm cho con người biết đánh giá đúng những gì mình cần; vì điều
gì nhận được quá nhanh chóng và quá dễ dàng thường sẽ không giúp con người đánh
giá đúng điều mình nhận được, và dễ dàng coi rẻ hay hoang phí quà tặng. Chẳng hạn,
số tiền góp nhặt được do mồ hôi nước mắt làm ra sẽ làm con người cẩn thận trong
việc tiêu xài hơn là số tiền được thừa hưởng.
2.2/
Tuyên xưng đức tin: Trước
khi ban ơn như họ xin, Chúa Giêsu nói với họ: "Các anh có tin là tôi làm
được điều ấy không?" Họ đáp: "Thưa Ngài, chúng tôi tin." Bấy giờ
Người sờ vào mắt họ và nói: "Các anh tin thế nào thì được như vậy." Mắt
họ liền mở ra. Chúa Giêsu đến không chỉ để làm phép lạ, nhưng để khơi dậy niềm
tin của con người vào Ngài. Rất nhiều người đến với Chúa chỉ vì để được phép lạ,
mà quên đi Đấng có uy quyền làm phép lạ. Họ quên đi phép lạ họ được hưởng chỉ xảy
ra một lần, nhưng cuộc đời họ còn cần biết bao những phép lạ khác nữa. Hơn nữa,
họ đã không nhìn ra được tình yêu và bao nhiêu ơn lành của Thiên Chúa đã dành sẵn
cho họ.
Tin
Mừng Gioan chú trọng nhiều hơn đến những gì xảy ra sau phép lạ, nhất là những
phản ứng khác nhau của con người.
2.3/
Bí mật của Đấng Thiên Sai: Trong Tin Mừng Marco, rất nhiều lần Chúa Giêsu muốn những người
được chữa lành phải giữ “bí mật của Đấng Thiên Sai.” Trường hợp hôm nay là một
ví dụ điển hình, Chúa Giêsu nghiêm giọng bảo họ: "Coi chừng, đừng cho ai
biết!" Nhưng vừa ra khỏi đó, họ đã nói về Người trong khắp cả vùng. Thông
thường, những người nổi tiếng có thói quen muốn nhiều người biết đến mình; tại
sao Chúa Giêsu muốn họ giữ bí mật phép lạ? Hơn nữa, ca tụng sự tốt lành của
Thiên Chúa là điều cần nói ra để mọi người được biết, tại sao Chúa lại ngăn cản?
Có ít nhất 2 lý do tại sao Chúa làm như thế:
(1)
Lý do chính là vì Chúa không muốn con người quen thuộc với hình ảnh một Đấng
Thiên Sai
uy quyền, có sức mạnh làm được mọi sự, và sẽ giải phóng dân chúng, như truyền
thống Do-Thái tin về Đấng Thiên Sai. Vì chẳng bao lâu nữa, Chúa sẽ phải chịu mọi
cực hình trong Cuộc Thương Khó, và ngay cả chịu chết trên Thập Giá để chuộc tội
cho con người. Khi nhìn thấy một Đấng Thiên Sai chịu mọi cực hình như thế, liệu
họ còn tin nơi Ngài nữa không? Họ cần học để biết Mầu Nhiệm Cứu Độ của Thiên
Chúa qua con đường đau khổ.
(2)
Một lý do nữa là Chúa không muốn con người đến với Chúa chỉ vì được ơn bởi phép
lạ,
nhưng muốn họ đến với người vì thành thật tin yêu. Tình yêu đặt căn bản trên lợi
nhuận không phải là tình yêu thành thật. Ví dụ, không ai trong con người muốn
người khác yêu mình vì có nhiều tiền, có quyền lực để ban ơn …, nhưng muốn họ
yêu như mình là và trung thành đến cùng cho dù mình bị mất tất cả.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Hy vọng phải có thời gian chờ đợi để giúp con người nhận ra sự quan trọng của
điều mình mong muốn. Nếu mọi sự được ban quá dễ dàng và nhanh chóng, chúng ta sẽ
không đánh giá đúng được món quà nhận được và sẽ dễ dàng hoang phí nó.
-
Món quà nhiều khi chỉ mang những giá trị bên ngòai, nhưng tình yêu của người
cho còn có giá trị hơn bội phần. Rất nhiều lần trong cuộc đời, chúng ta đã
không nhận ra tình yêu của Thiên Chúa, cha mẹ, và tha nhân; mà chỉ để ý đến quà
tặng.
-
Thiên Chúa không muốn chúng ta đến với Ngài chỉ để xin ơn; một khi đã đạt được
điều mong muốn là không nhớ gì đến Ngài nữa, và chạy theo đủ mọi thứ bụt thần
chóng qua. Ngài muốn chúng ta đến với Ngài bằng một tình yêu chân thật, học hỏi
để có khôn ngoan của Thiên Chúa, và biết sống thế nào để được hưởng hạnh phúc
chân thật và bình an đời đời.
Linh
mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
HẠT
GIỐNG NẨY MẦM TUẦN 1 MV
Mt
9,27-31
A.
Hạt giống...
Chuyện
này có hai vai :
a.
Chúa Giêsu :
-
Ngài không muốn cho đám đông dân chúng biết phép lạ Ngài làm. Bởi đó khi hai
người mù xin Ngài cứu giúp ở chỗ đông người thì Ngài không đáp lại gì cả. Khi về
tới nhà, Ngài mới cứu chữa họ. Cứu chữa họ xong, Ngài “nghiêm giọng” bảo họ “đừng
cho ai biết”. Lý do : Chúa Giêsu không muốn người ta tin theo Ngài chỉ vì
phép lạ.
-
Ngài nhấn mạnh tới lòng tin : trước khi làm phép lạ, Ngài hỏi “Các anh có
tin là tôi làm được điều ấy không ?”. Sau khi làm phép lạ, Ngài nói “Các
anh tin thế nào thì được như vậy.”
b.
Hai người mù : đức tin họ rất mạnh
-
Họ gọi Chúa Giêsu là “Con Vua Đavít”, tức là tước hiệu người ta gọi Đấng
Messia.
-
Ban đầu Chúa Giêsu không đáp ứng, nhưng họ cứ theo Ngài cho tới nhà.
-
Khi Ngài hỏi, họ tuyên xưng đức tin “Thưa Ngài, chúng tôi tin”.
-
Chính Chúa Giêsu nói phép lạ họ được là kết quả của lòng họ tin : “Các anh
tin thế nào thì được như vậy”.
*
Riêng chi tiết câu 31 (Chúa Giêsu bảo họ đừng cho ai biết, “nhưng vừa ra khỏi
đó, họ đã nói về Ngài trong khắp cả vùng”) : xem ra họ không vâng lời Chúa
Giêsu. Nhưng các nhà chú giải nghĩ rằng Mt viết câu này cho tín hữu trong Giáo
Hội thời kỳ sau khi Chúa Giêsu sống lại. Trước khi Chúa Giêsu sống lại thì Ngài
muốn giữ “bí mật Messia” kẻo người ta theo Ngài chỉ vì phép lạ. Nhưng sau khi
Ngài đã sống lại rồi thì không cần giữ bí mật ấy nữa, trái lại càng phải “bật
mí” để cho nhiều người biết Ngài.
B....
nẩy mầm.
1.
Chủ đề bài đọc Cựu Ước, và sẽ được ứng nghiệm rõ ràng trong đoạn TM :
‘Ngày đó mắt người mù sẽ được xem thấy”.
2.
“Chúa Giêsu chính là ánh sáng. Chỉ trong Ngài chúng ta mới thực sự là người được
sáng mắt ; chỉ trong Ngài chúng ta mới biết chúng ta là ai ? sẽ đi về
đâu ? và đâu là ý nghĩa cuộc sống ? Nhưng dĩ nhiên, để có thể tiếp nhận
ánh sáng của Chúa Kitô, điều kiện tiên quyết là chúng ta phải ý thức được sự mù
lòa của mình và quyết tâm ra khỏi sự mù lòa ấy” (Trích "Mỗi ngày một tin
vui").
3.
Có nhiều loại mù : mù loà, mù chữ, mù vi tính… nhưng mù không nhận ra Chúa
là ánh sáng đời mình có lẽ là tai hại hơn cả. - Người mù đã dùng đức tin mà đi
tới Ánh Sáng thật. Hay nói cách khác, có một cách lần tới được ánh sáng một
cách thần diệu, đó là đức tin.
4.
Trong đời sống đạo, khi nhận ra mình đang mù và mong tìm về ánh sáng đó là những
bước khởi đầu rất tốt cho sự hoán cải và sẽ được biến đổi.
5.
Tự phụ đến mù quáng : Con sư tử đến hỏi con tê giác “Ai là chúa tể khu rừng
này ?”. Con tê giác đáp “Là sư tử chứ ai”. Sung sướng quá, sư tử đến hỏi
con hà mã “Ai là chúa tể khu rừng này ?”. Và hà mã cũng trả lời “Là sư tử
chứ ai”. Sư tử lại đến hỏi con voi “Ai là chúa tể khu rừng này ?”. Voi chẳng
nói chẳng rằng, dùng vòi túm lấy sư tử, quăng nó lên trời. Khi rơi xuống đất,
con sư tử chóng váng mặt này, mình mẫy ê ẩm, nhưng cũng rán nói vớt vát :
“Vì mi ngu quá chẳng trả lời nổi câu hỏi của ta nên ta không thèm ăn thua với
mi” (Lon Jacobe).
Lm.Carolo HỒ BẶC
XÁI – Gp. Cần Thơ
06/12/13 THỨ SÁU ĐẦU THÁNG TUẦN 1 MV
Th. Nicôla, giám mục
Mt 9,27-31
Th. Nicôla, giám mục
Mt 9,27-31
MỞ CẶP MẮT ĐỨC TIN
Suy
niệm: Không ai lại muốn
con mắt của mình bị mù. Có nó, ta nhìn được cảnh vật sắc màu chung quanh. Thế
mà chúng ta lại sợ thứ ánh sáng soi rõ con người thực của ta mà lắm khi ta muốn
giấu giếm. Hễ ai, kể cả Chúa, đụng chạm đến hay phanh phui, ta thường phản ứng
hệt như lũ gián chạy trốn ánh sáng. Vì thế, Chúa Giêsu không chỉ chữa lành con
mắt xác thịt cho những người mù. Ngài còn muốn ban cho họ cặp mắt mới, cặp mắt
đức tin. Từ nay, họ vừa thấy cuộc đời bằng con mắt tự nhiên, lại vừa nhận ra ý
nghĩa cuộc đời bằng con mắt đức tin; nhận ra trong đời mình có Chúa đồng hành;
và nhất là dám đáp trả với Chúa: “Thưa Ngài, chúng tôi tin” để được thấy.
Mời Bạn: Để chữa con mắt xác
thịt, bạn lo tìm thầy chạy thuốc. Để làm đẹp chúng, bạn không ngại tốn kém dùng
các loại mỹ phẩm đắt tiền. Vậy bạn làm gì để chữa trị cặp mắt đức tin của mình
khi chúng không nhìn thấy được Thiên Chúa là Cha của bạn? Bạn làm gì khi bạn mất
khả năng nhìn cuộc đời bằng đôi mắt tâm linh?
Sống Lời Chúa: Trước hết, bạn hãy
đến với bí tích hoà giải để Chúa chữa lành cho. Thứ đến, bạn hãy làm đẹp con mắt
tâm linh bằng việc lãnh nhận Thánh Thể Chúa.
Cầu
nguyện: “Lạy Chúa, Ánh Sáng
của đôi mắt con, xin hãy đến! Và cho con được thấy Chúa, cho con được gặp Chúa,
ôi Thiên Chúa của con! Con sẽ níu lấy Chúa, ôi lạy Chúa con hằng khao khát.”
Mắt
họ liền mở ra
Giáng Sinh là lễ của Ánh sáng, Ánh sáng ngay giữa đêm đen. Ơn
của Mùa Vọng là ơn thoát ra khỏi cảnh tăm tối mù lòa.
Suy
niệm:
Ở Việt Nam hiện nay có
khoảng 500 ngàn người bị mù hai mắt,
và 900 ngàn người mù một
mắt.
Tỉ lệ người mù như thế là
cao so với nhiều nước khác.
Bao cố gắng được đưa ra
để giảm số người bị mù,
trong đó có việc mổ cho
350 ngàn người mắc bệnh đục thủy tinh thể.
Người ta hy vọng nhờ đóng
góp của các ân nhân,
sẽ có 100 ngàn người
nghèo được mổ trong năm 2010.
Hạnh phúc biết bao cho ai
lần đầu tiên thấy khuôn mặt người thân,
thấy được màu xanh của lá
và phân biệt được sáng với chiều.
Hạnh phúc cho ai lần đầu
tiên đi đứng mạnh dạn một mình
mà không cần bàn tay dắt
hay cây gậy khua phía trước.
Ở nước Palestin thời xưa
cũng có nhiều người mù.
Mù thường bị coi như một
hình phạt của Thiên Chúa (Đnl 28, 28-29).
Người mù hẳn là người bị
đứng ngoài lề xã hội.
Vào thời y khoa còn kém,
người mù phải chịu cảnh tăm tối suốt đời.
Nỗi đau của người mù cũng
ảnh hưởng trên cả đất nước.
Chính vì thế khi nói đến
thời đại hạnh phúc của Đấng Mêsia,
Isaia nhiều lần nhắc đến
chuyện người mù được sáng mắt (Is 35, 5; 42, 7).
Trong bài đọc 1 ta vừa
nghe (Is 29, 18), ngôn sứ Isaia viết:
“Mắt người mù sẽ thoát
cảnh mù mịt tối tăm, và sẽ được nhìn thấy.”
Được nhìn thấy bằng đôi
mắt nghĩa là được mở ra với thế giới bên ngoài.
Tiếp xúc bằng mắt vẫn có
cái gì vượt trội hơn tiếp xúc bằng tay hay tai.
Khi chữa lành những người
mù và những tật bệnh khác,
Đức Giêsu khai mở thời
đại thiên sai (x. Mt 11, 2-6).
Ngài cho thấy Nước Thiên
Chúa nay đã đến.
Khi hai anh mù gọi Đức
Giêsu là Con vua Đavít (c. 27),
họ nhìn nhận Ngài là Đấng
Mêsia, Đấng Thiên Sai.
Bởi thế họ hy vọng Ngài
sẽ cho họ quà tặng của thời thiên sai.
“Xin thương xót chúng
tôi” là xin đưa chúng tôi ra khỏi cảnh mù lòa.
Đức Giêsu đã muốn chữa
hai anh một cách kín đáo, tại nhà của Phêrô.
Ngài không chữa cho họ
ngay lập tức, nhưng lại hỏi họ một câu rất lạ:
“Các anh có tin là tôi có
thể làm được điều ấy không?” (c. 28).
Chỉ khi họ tuyên xưng
niềm tin vào quyền năng của Ngài,
Đức Giêsu mới mở mắt cho
họ bằng một lời và một chạm nhẹ (c. 29).
Niềm vui quá lớn khiến họ
không giữ được lặng thinh (c. 31).
Giáng Sinh là lễ của Ánh
sáng, Ánh sáng ngay giữa đêm đen.
Ơn của Mùa Vọng là ơn
thoát ra khỏi cảnh tăm tối mù lòa.
Mù lòa đâu phải chỉ là
chuyện của 37 triệu người mù trên thế giới.
Mù lòa về chính mình, mù
lòa vì không thấy những Ladarô trước cửa,
mù lòa về chính những
người trong gia đình, trong giáo xứ,
mù lòa vì không thấy Chúa
vẫn đang hiện diện gần bên,
những mù lòa ấy cũng nguy
hiểm không kém và cần được chữa lành.
Xin Giêsu đụng vào mắt
tôi để tôi được sáng,
và để tôi giúp người khác
cũng được thấy ánh sáng Giêsu.
Cầu
nguyện:
Như người mù ngồi bên vệ đường
xin
Chúa dủ lòng thương cho con được t
hấy.
Xin cho con được thấy bản thân
Xin cho con được thấy bản thân
với
những yếu đuối và khuyết điểm,
những
giả hình và che đậy.
Cho con được thấy Chúa hiện diện bên con
cả
những khi con không cảm nghiệm được.
Xin cho con thực sự muốn thấy,
thực
sự muốn để cho ánh sáng Chúa
chiếu
dãi vào bóng tối của con.
Như người mù ngồi bên vệ đường
xin
Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Suy niệm
Bài Tin mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu chữa hai người mù, nằm trong
trình thuật ghi lại các phép lạ Chúa Giêsu làm nhằm minh chứng Ngài là Đấng
Kitô Thiên Chúa sai đến. Chúa Giêsu chữa lành hai người mù vì Chúa thấy lòng
tin của họ thể hiện cách mạnh mẽ. Họ kêu xin lần thứ nhất lúc Chúa Giêsu trên
đường, Người không trả lời. Thái độ yên lặng của Chúa Giêsu là một thử thách
đức tin cho họ. Nhưng họ đã chứng minh một đức tin mạnh mẽ khi theo Chúa Giêsu
về tới nhà. Đức Giêsu đòi những người mù phải tuyên xưng niềm tin một cách công
khai. Họ không thấy Đức Giêsu bằng mắt, nhưng họ đã thấy bằng đức tin, nên đã
kiên trì và tuyên xưng cách vững vàng.
Qua bài tin mừng chúng ta thấy Chúa Giêsu chính là ánh sáng. Nhiều khi con
mắt xác thịt của chúng ta sáng những con mắt thiêng liêng của chúng ta lại mù
lòa. Vì thế chúng ta hãy để cho ánh sáng của Chúa soi dẫn, bằng cách: năng học
hỏi lời Chúa, siêng năng đến với bí tích hòa giải, sống theo giới răn Chúa,
lắng nghe giáo huấn của Giáo Hội.
Mùa Vọng là cơ hội nhắc chúng ta rằng Chúa Giêsu Kitô đã đến cứu độ chúng
ta. Chúng ta có đến với Ngài để xin Ngài mở con mắt đức tin, xóa cảnh mù lòa để
ta thấy Chúa hiện diện trong mọi sự và để tôn vinh cảm tạ Ngài.
Lạy Chúa, đôi khi chúng con đang trong tình trạng mù lòa
mà chúng con không biết hay cố tình không nhận ra. Chúng con cứ để tâm hồn đi
trong bóng tối mà không chịu theo ánh sáng Chúa. Xin Chúa hãy mở con mắt đức
tin, giúp chúng con thoát khỏi cảnh mù lòa tâm hồn. Amen.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
6
THÁNG MƯỜI HAI
Sinh Bởi Thánh Thần
“Thánh
Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà” (Lc
1,35). Giáo Hội nhận Đức Ma-ri-a, Mẹ Thiên Chúa, làm nguyên mẫu (prototype) của
mình. Chân lý này được diễn tả bởi Công Đồng trong chương cuối Hiến Chế Giáo Hội.
Hôm nay, một lần nữa, chúng ta ý thức về chân lý này.
“Thánh
Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà”.
Trong ánh sáng của những lời ấy, Mẹ Thiên Chúa đã không được nhìn thấy như là
nguyên mẫu và là hình ảnh của Giáo Hội đó sao?
Giáo
Hội được khai sinh qua biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống vào ngày Lễ Ngũ Tuần.
Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các Tông Đồ khi các vị đang tề tựu trong Căn Gác
Thượng cùng với Đức Ma-ri-a. Giáo Hội được khai sinh khi “quyền năng Đấng Tối
Cao” tuôn tràn Thánh Thần trên các Tông Đồ để giúp họ vượt thắng những yếu đuối
của mình và khỏi vấp ngã khi phải đương đầu với sự bách hại vì Tin Mừng.
Mừng
kính Đức Ma-ri-a Vô Nhiễm, phụng vụ dẫn chúng ta trở về với buổi ban đầu của lịch
sử sáng tạo và cứu độ. Thật vậy, thậm chí phụng vụ đưa chúng ta trở về trước cả
buổi bình minh sáng tạo nữa.
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ
nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
NGÀY 06-12
THÁNH NICÔLA, GIÁM MỤC
Is 29, 17-24; Mt 9, 27-31.
LỜI SUY NIỆM:
”Khi Đức Giêsu về đến nhà, thì hai người mù ấy tiến lại gần, Người nói với
họ: Các anh có tin là tôi làm được điều ấy không? Họ đáp: Thưa Ngài chúng tôi
tin”
Hai người mù này, hằng ngày họ xin người đồng loại của
bố thí để sống. Nhưng khi biết được Chúa Giêsu họ đã xin được nhìn thấy, bởi họ
đã tin chỉ mình Chúa Giêsu sẽ làm được điều mà không ai có thể làm cho họ. Đối
với người Kitô hữu, chúng ta đã được gặp Chúa Giêsu trong các Bí Tích, chúng ta
cũng cần xin Chúa chữa những sự mù lòa trong cuộc sống của chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, mỗi một thành viên trong gia đình của
chúng con đây, mỗi người đều có một chứng mù lòa, xin Chúa thương yêu chúng con
mà chữa những mù lòa ấy để chúng con dễ nhận ra Chúa trong mọi người, nhất là
những người trong gia đình của chúng con.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
06-12: Thánh NICÔLA
Giám
Mục - (Thế kỷ IV)
Thánh
Nicôla, vị đại thánh bình dân, nhưng chỉ tìm được tiểu sử 200 năm sau khi Ngài
chết. Người ta có thể nói rằng: Ngài đích thực là giám mục Myra, đã hiện ra với
vua Constantinô trong một giấc mơ. Sau đó dường như các nhà chép sữ lại lẫn lộn
với Nicola người Simon đã bị tù dưới thời Diocletianô, đã xây một tu viện và được
chôn cất tại vương cung thánh đường thành Myra. Trừ sự kiện trên, nảy sinh ra
nhiều huyền thoại và hơn nghìn năm sau, thánh Nicôla nhân hậu đã thành danh tiếng
khắp thế giới.
Huyền
thoại kể lại rằng, ở Patara, thuộc tỉnh Lycia, hai vợ chồng giàu có Anna và
Euphêmiô vì không con đã cố gắng tìm an ủi trong công việc từ thiện. Thiên Chúa
chúc lành cho lòng bác ái của họ. Cuối cùng họ có được một mụn con và đăt tên
cho con là Nicôla, có nghĩa là "sự chiến thắng của dân". Đây cũng là
tên cậu Ngài, vị giám mục Myra.
Ông
cậu đã tiên đoán rằng: Nicôla sẽ là "Mặt trời soi chiếu thế gian".
Khi mới tắm rửa lần đầu, con trẻ đặc biệt này đã chắp tay, đứng trong thau nước
hai giờ liền, mắt hướng về trời. Thứ tư và thứ sáu, Ngài không chịu bú cho tới
chiều để ăn chay. Chị vú nuôi sợ Ngài chết, nhưng trái lại, Ngài đã trở nên một
con trẻ kiêu hùng.
Nicôla
có nhiều đức tính tốt như một trẻ em gương mẫu. Cha mẹ mất sớm. Nicôla thừa hưởng
một gia tài kếch xù. Nhưng Ngài lại coi tất cả tài sản này như của Chúa cho
vay. Người phân phát cho những người bất hạnh và thực hiện đức bác ái như một sự
tế nhị dễ thương. Chẳng hạn một người cha có ba cô con gái, ông tính cho con
làm nghề bất lương để có tiền cưới hỏi. Nhưng rồi đêm kia, ông thấy ba túi vàng
chuyển qua cửa sổ, và có thể làm lễ cưới hỏi cách lương thiện cho các cô. Khi
biết được người cho, ông đến xin thánh Nicôla cầu cho ơn tha thứ cho dự tính
đáng chúc dữ của mình. Rồi bất kể sự ngăn cấm của thánh nhân, ông đã kể lại khắp
nơi cử chỉ bác ái của thánh nhân đã thực hiện để cứu 3 người phụ nữ khỏi cảnh bất
lương như thế nào.
Nicôla
đã ao ước hiến đời mình cho Thiên Chúa. Ông cậu giám mục của Ngài khi sắp chết
đã truyền chức và đặt Ngài làm bề trên tu viện thánh Sion. Khi Ngài du hành qua
Thánh địa, cơn bão nổi lên, các hành khách run sợ, Nicôla cầu nguyện cho họ và
các cơn sóng dịu xuống, con tàu êm đềm theo đuổi cuộc hành trình. Những cuộc
can thiệp khác nữa làm cho thánh Nicôla trở thành Đấng bảo trợ những người vượt
biển. Các thủy thủ làm chứng rằng khi bị đắm chìm, nhớ cầu tới Ngài là thấy
Ngài đến cầm tay lái đưa tới cảng, rồi biến đi...
Khi
những người thoát nạn tới nhà nguyện tu viện tạ ơn, người ta ngạc nhiên vì thấy
vị cứu tinh của mình đang chìm đắm trong kinh nguyện như không hề rời bỏ nơi
này. Họ không cầm nổi những lời tán tụng biết ơn xuất phát tự cõi lòng, nhưng
thánh nhân bảo họ: "Hãy chỉ nên ngợi khen Chúa về cuộc cứu thoát này, bởi
vì đối với tôi, tôi chỉ là một tội nhân và một đầy tớ vô dụng".
Và
Ngài đã cho biết rằng, nguy hiểm họ vừa trải qua là hình phạt vì các tội kín,
cũng như sự hối lỗi của các thủy thủ đã cứu thoát họ.
Nicôla
xuống Alexandria là nơi Ngài đã chữa lành các bệnh nhân, rồi đi thăm thánh
Antôn ở Ai cập. Sau cùng, Ngài đến Giêrusalem kính các nơi thánh và trải qua ít
tuần trong hang mà Thánh Gia đã dừng lại khi trốn qua Ai cập. Nơi đây, sẽ xây cất
một thánh đường thánh Nicôla. Vừa mới trở về Myra, nơi các tu sĩ đang nóng lòng
chờ đợi cha họ trở về, Ngài đã tăng gấp một cách lạ lùng đống bánh cho cả trăm
người ăn.
Giám
mục Myra qua đời, các giám mục miền Lycia cân nhắc để chọn vị mục tử mới. Một sứ
giả từ trời xuống báo tin cho vị niên trưởng biết, người được chọn là linh mục
Nicôla ngày mai sẽ tới mhà thờ trước hết. Trời vừa sáng, Nicôla tới nhà thờ
theo lòng sốt sắng và nghe loan báo mình làm giám mục. Ngài muốn chạy trốn,
nhưng phải theo ý nguyện của Đấng Cao Cả hơn mình, trời cao chúc lành cho Ngài:
dịp lễ đầu tay, thánh Nicôla đã làm cho một em bé bị phỏng sống lại. Từ kỷ niệm
này, người ta hay kêu cầu thánh nhân những khi gặp nguy hiểm vì lửa.
Trở
thành mục tử cả dân, thánh nhân rất cưng chiều những người bị áp bức, mồ côi,
bênh hoạn và tù tội hơn. Ban đêm, Ngài cầu nguyện, nghỉ một chút trên đất, ăn
ngày một bữa, mặc áo quần khiêm tốn khác với hình ảnh ngày nay nhiều. Những y
phục lộng lẫy theo hình vẽ ấy, Ngài chỉ mặc vào những ngày đại lễ.
Đời
sống tín hữu xáo trộn vì những cuộc bách hại: vị giám mục bị lưu đày, đánh đập.
Cuộc trở lại của vua Constantinô đem lại tự do. Trên đường về, Ngài rao giảng
Chúa Kitô, cải hóa lương dân, phá đổ các đền thờ và ngẫu tượng. Ngài làm nhiều
phép lạ như mưa. Các thế hệ tương lai, còn kể lại huyền thoại của ba đứa trẻ bị
một đồ tể tham lam độc ác cắt cổ và để trong thùng muối ướp thịt đã sống lại nhờ
lời cầu nguyện của thánh Nicôla.
Các
truyện có nhiều thêm thắt như: Truyện người gian giảo có cây gậy đầy vàng, truyện
đứa trẻ bị quỉ giả bộ ăn xin bóp cổ, nhưng đã được thánh nhân cứu sống, truyện
thánh nhân dàn xếp giữa thày thuốc với bệnh nhân hiếm muộn con cái, hứa tặng
chén vàng mà khi được lại không giữ lời hứa. Gần với sự thực hơn là việc các
nhà buôn lúa gạo ở Sycily nhờ sự bao bọc lạ lùng của giám mục đã nuôi những người
đói mà không giảm thiểu của dự trữ. Vua Constantinô cũng mơ thấy thánh nhân đến
gặp để cứu cuộc xử tội bất công của ba viên chức. Sau đó các người bị giữ kêu cầu
Ngài giải cứu và được nhận lời bằng một phép lạ. Thế là các nạn nhân bị xử oan
hay kêu cầu Ngài.
Sau
khi hoàn tất bao nhiêu việc lành thiêng liêng lẫn vật chất, thánh Nicôla muốn
vào cõi đời đời. Bảo vệ giáo thuyết công giáo tinh tuyền, Ngài đã chống lại lạc
giáo tham dự cộng đồng Nicea. Khi thấy sắp kết thúc cuộc đời. Ngài muốn lui về
tu viện, nơi mà buổi thiếu thời Ngài đã tự hiến cho Thiên Chúa, và chính tại
nơi đây, Ngài phú dâng linh hồn trong tay Chúa.
Năm
1087, Myra rơi vào tay người Thổ, người ta vội đưa hài cốt vị thánh về Bari gần
Naples. Từ đó, huyền thoại đời Ngài lại lan rộng. Mỗi miền nói theo cách của
mình. Dân ca Đông phương coi Ngài như một vị Chúa trên trời. Đối với người Nga,
Ngài là thừa kế thần linh lo chuyện gặt hái. Siberia cho Ngài là người chế tạo
rượu "bia".
Các
vua nước Pháp sùng kính Ngài. Các chủ tịch luật sư đoàn cầm gậy có hình thánh
Nicôla. Bên tây phương, lễ thánh Nicôla trở thành lễ của thiếu nhi vì làm sao
các em lại không yêu mến vị thánh nhân hậu đã cứu ba đứa trẻ đi mót lứa được ?
Vị giám mục đầy huyền bí này sau cùng đã trở thành ông già Noel ngày nay .
(daminhvn.net)
06 Tháng Mười Hai
Hai Cánh Cửa Sổ
Từ
cánh cửa sổ nhìn vào thiên nhiên, người ta có thể có nhiều cái nhìn khác nhau về
cuộc sống.
Trong
một vở kịch của Samuel Beckett, một nhân vật đã kể lại như sau: "Tôi biết
có một tên chán đời lúc nào cũng nghĩ rằng ngày tận thế đang đến. Tôi thường đến
thăm hắn trong dưỡng trí viện. Tôi nắm tay hắn và dìu hắn đến bên cửa sổ. Tôi
nói với hắn: "Nhìn kìa, cả một cánh đồng bắp xanh tươi... Nhìn kìa, những
cánh bướm đang phất phới. Còn gì đẹp bằng!". Nhưng hắn gỡ tay tôi ra và trở
về góc phòng. Mặt mày hắn hớt hải tái mét. Tất cả những gì tôi chỉ cho hắn chỉ
là một đống tro tàn xám xịt".
Có
một cánh cửa sổ khác từ đó người ta chỉ có thể nhìn thấy cảnh đẹp mà thôi. Ðó
là cánh cửa sổ nhỏ tại một nhà nguyện ở phía Nam Ái Nhĩ Lan. Tất cả mọi cánh cửa
sổ trong nhà nguyện này đều được làm bằng kính trên đó có vẽ Ðức Kitô và các
môn đệ của Ngài. Duy chỉ có một cánh cửa sổ là không có hình vẽ. Xuyên qua tấm
kính trong suốt của cánh cửa sổ này, người ta có thể nhìn thấy một quang cảnh
thật tươi mát, đó là một cái hồ nước trong xanh nằm giữa những ngọn đồi cỏ lúc
nào cũng xanh tươi. Bên dưới cánh cửa sổ, người ta đọc được câu kinh thánh như
sau: "Trời cao tường thuật vinh quang Chúa. Thanh không kể ra sự nghiệp của
Ngài".
Câu
chuyện của hai cánh cửa sổ trên đây gợi lên cho chúng ta vần thơ: Hai người
cùng nhìn xuyên qua chấn song cửa của nhà tù. Một người chỉ thấy có bùn nhơ, một
người lại nhìn thấy những vì sao.
Mùa
Vọng là thời gian của hy vọng.
Chúng
ta được mời gọi để đặt tất cả tin tưởng, phó thác nơi Thiên Chúa. Thiên Chúa
không bao giờ bỏ cuộc. Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về con người. Tiếp
theo bao nhiêu vấp phạm và phản bội của con người, Thiên Chúa vẫn đeo đuổi
chương trình của Ngài. Người vẫn tiếp tục yêu thương con người. Nơi hình ảnh đã
hơn một lần hoen ố vì tội lỗi, Thiên Chúa vẫn nhìn thấy phản chiếu vẻ đẹp cao
sang của chính Ngài. Xuyên qua cánh cửa sổ nhỏ của mỗi người, Thiên Chúa vẫn
còn nhìn thấy cảnh đẹp của lòng người.
Chúng
ta cũng được mời gọi để tiếp tục tin tưởng nơi con người. Dù thấp hèn tội lỗi đến
đâu, dù hung hãn độc ác đến đâu, mỗi một con người đều là hình ảnh cao vời của
Thiên Chúa, mỗi một con người đều xứng đáng để tiếp tục tin tưởng, được yêu
thương.
Tin
tưởng phó thác nơi Thiên Chúa, tin yêu nơi con người, chúng ta cũng được mời gọi
để không thất vọng về chính bản thân. Ðau khổ có chồng chất, tội lỗi có ngập
tràn, mỗi người chúng ta vẫn là đối tượng của một tình yêu cá biệt... Thiên
Chúa yêu thương tôi, Thiên Chúa đang thực hiện cho tôi những gì là thiện hảo nhất:
đó phải là tư tưởng cơ bản hướng dẫn tất cả Mùa Vọng của chúng ta. Từ bên cánh
cửa sổ của tâm hồn nhìn vào cuộc đời, chúng ta hãy nhận ra những vì sao của hy
vọng, những cánh đồng xanh tươi của lạc quan.
(Lẽ
Sống)
Thứ Sáu 6-12
Thánh Nicholas
(c. 350?)
V
|
iệc thiếu những dữ kiện
"xác thực" của lịch sử không ảnh hưởng đến sự nổi tiếng của các
thánh, như trường hợp của Thánh Nicholas cho thấy. Cả hai giáo hội Ðông Phương
và Tây Phương đều vinh danh ngài, có thể nói, sau Ðức Mẹ, ngài là vị thánh thường
được các nghệ sĩ Kitô Giáo mô tả. Tuy nhiên, về phương diện lịch sử, chúng ta
chỉ biết một dữ kiện, Thánh Nicholas là giám mục ở Myra vào thế kỷ thứ tư --
Myra là một thành phố nằm trong Lycia, một tỉnh của Tiểu Á.
Tuy nhiên, như nhiều vị
thánh khác, chúng ta có thể biết được mối quan hệ giữa thánh nhân và Thiên Chúa
qua sự ngưỡng mộ mà các Kitô Hữu dành cho ngài -- sự ngưỡng mộ được diễn tả qua
các câu truyện đầy màu sắc và thường được kể đi kể lại trong nhiều thế kỷ.
Có lẽ câu truyện nổi
tiếng nhất về Thánh Nicholas là lòng bác ái của ngài đối với một gia đình nghèo
khổ mà ông bố không có của cải để cho ba cô con gái làm của hồi môn. Vì không
muốn trông thấy họ phải lâm vào cảnh đĩ điếm, Thánh Nicholas đã bí mật ném ba
gói vàng qua cửa sổ nhà ông này vào ba trường hợp khác nhau, để giúp các cô con
gái ấy đi lấy chồng. Qua các thế kỷ, huyền thoại này trở thành thói quen tặng
quà nhân ngày lễ kính thánh nhân. Trong thế giới nói tiếng Anh, Thánh Nicholas
trở thành Santa Claus và người Việt thường gọi là ông già Noel. Ông già Noel
ngày nay đã bị xã hội tục hóa quá nhiều khiến lu mờ đi ý nghĩa chính của câu
truyện, đó là tấm gương quảng đại của vị giám mục thánh thiện này.
Lời Bàn
Cái nhìn có tính cách
phê phán của lịch sử hiện đại giúp chúng ta nhận ra ý nghĩa sâu xa hơn của các
huyền thoại về Thánh Nicholas. Có lẽ, bài học thiết thực nhất của ngài là lòng
bác ái. Hãy nhìn đến thái độ của chúng ta đối với vật chất trong mùa Giáng
Sinh, và hãy tìm ra các phương cách để chia sẻ của cải ấy cho những người có
nhu cầu.
Lời Trích
"Ðể có thể nhận
ra các nhu cầu phúc lợi thích hợp cho tín hữu tùy theo hoàn cảnh của mỗi người,
vị giám mục phải cố gắng quen thuộc với nhu cầu của họ trong các hoàn cảnh xã
hội mà họ sinh sống... Ngài phải bày tỏ sự lưu tâm đến tất cả mọi người, bất kể
tuổi tác, tình trạng, hay quốc tịch, dù họ là người bản xứ, người xa lạ, hay
người nước ngoài" (Sắc
Lệnh về Văn Phòng Mục Vụ của các Giám Mục, 16).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét