Trang

Thứ Bảy, 21 tháng 6, 2014

22-06-2014 :(phần I) LỄ MÌNH MÁU THÁNH CHÚA năm A

22/06/2014
Lễ Mình Máu Thánh Chúa Năm A
(phần I)


Bài Ðọc I: Ðnl 8, 2-3. 14b-16a
"Người sẽ ban cho các ngươi của ăn mà các ngươi và cha ông các ngươi chưa từng biết tới".
Trích sách Ðệ Nhị Luật.
Môsê nói cùng dân chúng rằng: "Các ngươi hãy nhớ tất cả đoạn đường mà Chúa là Thiên Chúa các ngươi đã dẫn đưa các ngươi qua sa mạc suốt bốn mươi năm, để rèn luyện và thử thách các ngươi, để biết các điều bí ẩn trong lòng các ngươi và xem các ngươi có tuân giữ lề luật của Người hay không? Người đã để các ngươi vất vả thiếu thốn, và ban cho các ngươi manna làm của ăn mà các ngươi và cha ông các ngươi chưa từng biết tới, để tỏ cho các ngươi thấy rằng: Con người sống không nguyên bởi bánh, mà còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra.
"Các ngươi hãy nhớ Chúa là Thiên Chúa các ngươi, Ðấng đã dẫn đưa các ngươi ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ. Và Người là Ðấng đã dẫn các ngươi vào nơi hoang địa mênh mông và kinh khủng có nhiều rắn hổ lửa, bò cạp, rắn lục, và không có một giọt nước nào; Người đã khiến nước từ tảng đá cứng rắn vọt ra. Trong hoang địa, Người đã nuôi các ngươi bằng manna mà cha ông các ngươi chưa từng biết tới".
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 147, 12-13. 14-15. 19-20.
Ðáp: Giêrusalem hỡi, hãy ngợi khen Chúa (c. 12a).
Xướng: 1) Giêrusalem hỡi, hãy ngợi khen Chúa. Hãy ngợi khen Thiên Chúa của ngươi, hỡi Sion! vì Người giữ chặt các then cửa ngươi, Người chúc phúc cho con cái ngươi trong thành nội. - Ðáp.
2) Người đã sai lời Người xuống cõi trần ai, và lời Người lanh chai chạy rảo. Người khiến tuyết rơi như thể lông cừu, Người gieo rắc sương đông như tro bụi trắng. - Ðáp.
3) Người đã loan truyền lời Người cho Giacóp, những thánh chỉ và huấn lệnh Người cho Israel. Người đã không làm cho dân tộc nào như thế, Người đã không công bố cho họ các huấn lệnh của Người. - Ðáp.

Bài Ðọc II: 1 Cr 10, 16-17
"Có một tấm bánh, nên chúng ta tuy nhiều, cũng chỉ là một thân thể".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Cô-rintô.
Anh em thân mến, chén chúc tụng mà chúng ta cầm lên chúc tụng Chúa chẳng phải là thông hiệp với máu Chúa Kitô sao? Tấm bánh mà chúng ta bẻ ra chẳng phải là thông phần vào Mình Chúa đó sao? Vì có một tấm bánh, nên chúng ta tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể, vì hết thảy chúng ta thông phần cùng một tấm bánh.
Ðó là lời Chúa.

Ca Tiếp Liên
"Lauda Sion: Hỡi Sion, Hãy Ngợi Khen"
Trước Alleluia, có thể hát hoặc đọc Ca Tiếp Liên này, tất cả hoặc từ câu 21 ("Này đây bánh") cho đến hết.
1. Hỡi Sion, hãy ngợi khen Ðấng cứu độ ngươi, Ðấng lãnh đạo và mục tử của ngươi / với những bài vãn và những khúc ca!
2. Ngươi có sức chừng nào, hãy rán ngợi khen chừng nấy, vì Người vĩ đại hơn mọi lời khen ngợi, và ngươi cũng không đủ sức ngợi khen Người.
3. Ðề tài của sự ngợi khen đặc biệt, đó là bánh sống và tác thành sự sống, ngày hôm nay đã đặt ra cho ngươi.
4. Ðó là bánh mà trên bàn tiệc thánh, cho đoàn thể mười hai người anh em, Chúa đã ban tặng chẳng khá nghi ngờ.
5. Hãy xướng lên lời ca khen ngợi đầy đủ, lời ca hoan hỉ và râm ran, tâm thần hãy vui mừng rạng rỡ!
6. Vì đây là ngày trọng thể, ngày kỷ niệm bàn tiệc thánh / lần đầu tiên được thiết lập ra.
7. Tại bàn tiệc này của Ðấng Tân Vương, lễ Vượt Qua mới theo luật pháp mới / chấm dứt lễ Vượt Qua của thời đại cũ.
8. Lễ nghi cũ nhường chỗ cho sự thực; đêm tối tăm nhường chỗ cho sự sáng sủa.
9. Ðiều mà Chúa Kitô đã làm trong bữa tiệc ly, thì Người đã ra lệnh cho thực thi điều đó để nhớ lại Người.
10. Nhờ lời thánh huấn của Người dạy bảo, chúng ta làm phép cho bánh và rượu / trở nên lễ vật hy sinh ban ơn cứu độ.
11. Ðây là tín điều dạy người Kitô hữu rằng / bánh trở nên thịt Chúa, và rượu trở nên máu Người.
12. Ðiều bạn không hiểu, không xem thấy, thì đức tin mạnh mẽ xác nhận xảy ra, ngoài luật lệ thiên nhiên.
13. Dưới những hình sắc khác nhau, chúng chỉ là biểu hiệu, không còn thực chất, có ẩn nấp những thực tại cao siêu.
14. Thịt Chúa là của ăn, máu Người là thức uống, nhưng Chúa Kitô vẫn còn đầy đủ dưới mỗi sắc hình.
15. Người không bị kẻ lãnh nhận nghiền nát, không bị bẻ gẫy, không bị phân chia, nhưng Người được thiên hạ lãnh nhận toàn thân.
16. Một người lãnh nhận, ngàn người lãnh nhận, những người này cũng lãnh bằng những người kia, thiên hạ ăn thịt Người mà Người không bị tiêu hao.
17. Người lương thiện lãnh, kẻ ác nhân cũng lãnh, nhưng số phận họ không đồng đều: hoặc được sống hay là phải chết.
18. Kẻ ác nhân phải chết, người lương thiện được sống; hãy coi, cùng một của ăn như nhau, mà kết quả khác xa biết mấy.
19. Hình bánh bị vỡ, chớ khá lo âu, nhưng hãy nhớ rằng / trong miếng vỡ cũng như trong toàn thể / Chúa vẫn hiện diện đầy đủ như nhau.
20. Bản chất không hề bị bẻ vỡ, duy có biểu hiệu bị phân chia, nhưng không giảm thiểu tình trạng và dáng vóc của Ðấng ẩn dật bên trong.
21. Này đây bánh của các thiên thần, biến thành lương thực của khách hành hương; thực là bánh của những người con cái, không nên ném cho loài khuyển.
22. Bánh này đã được báo trước bằng hình ảnh, khi người ta sát tế Isaac, chiên của lễ vượt qua đã được kể ra, khi cha ông chúng ta được tặng manna.
23. Lạy Chúa Giêsu là mục thủ tốt lành, là bánh thực, xin Người thương xót, chăn nuôi và bảo vệ chúng con; xin Người ban cho chúng con nhìn thấy / những điều thiện hảo trong cõi nhân sinh.
24. Chúa là Ðấng thông biết và có thể làm nên mọi sự, Chúa nuôi dưỡng chúng con trong đời sống tạm gửi này, trên cõi cao xanh, xin cho chúng con được trở nên thực khách đồng bàn của Chúa, đồng thừa kế và đồng danh phận / với những công dân thánh của nước trời. Amen. Alleluia.

Alleluia: Ga 6, 51-52
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời". - Alleluia.

Phúc Âm: Ga 6, 51-59
"Thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân Do-thái rằng: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống". Vậy người Do-thái tranh luận với nhau rằng: "Làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được?" Bấy giờ Chúa Giêsu nói với họ: "Thật, Ta bảo thật các ngươi: Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết. Vì thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy. Cũng như Cha là Ðấng hằng sống đã sai Ta, nên Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, chính người ấy cũng sẽ sống nhờ Ta. Ðây là bánh bởi trời xuống, không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết. Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời".
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Từ Mình Chúa Ðến Chúng Ta
Ngay từ đầu, cộng đoàn tín hữu ở Yêrusalem đã chuyên cần đến việc bẻ bánh. Và từ ngày đó Giáo Hội không ngớt cử hành lễ tế tạ ơn và hiệp thông trong Mình và Máu Chúa Kitô. Nhưng từ thế kỷ thứ XI người ta đã chú trọng nhiều hơn đến khía cạnh hiện diện của Chúa Kitô nơi hình bánh.
Từ đó người ta khao khát được chiêm ngắm Chúa ngoài giờ thánh lễ. Và một nữ tu ở Liège, chân phước Julienne, được nhiều thị kiến thúc giục xin Tòa Thánh lập một lễ lớn kính trọng thể Mình Máu Thánh Chúa. Bà được thị kiến vào khoảng những năm 1208-1210; nhưng mãi đến 1317, tức là một thế kỷ sau, Giáo hội mới truyền mọi nơi phải tổ chức lễ này. Khi ấy nhiều giáo phận đã có thói quen mừng rất lớn. Ðặc biệt, khởi sự từ bên Ðức, người ta tổ chức kiệu Mình Thánh rất long trọng trong ngày ấy. Thói quen kiệu ra ngoài đường phố cốt để ai ai cũng được chiêm ngưỡng và cúng bái; cũng như để tỏ ra vương quyền của Ðức Kitô, và để cho người Tin Lành biết Giáo Hội Công giáo tin thật Chúa hiện diện trong Thánh Thể. Dĩ nhiên đó cũng là một hình thức sinh hoạt của giáo xứ.
Như vậy không phải mọi khía cạnh trong ngày lễ hôm nay đều có giá trị như nhau và cần phải duy trì tất cả. Ðặc biệt việc chầu Mình Thánh và kiệu Thánh Thể sẽ rất thiếu sót nếu không được suy nghĩ và gắn liền với việc bẻ bánh, tức là thánh lễ tạ ơn, là cơ sở của Phụng vụ Thánh Thể. Và để quý trọng lễ nghi cao cả này, phải dựa vào Lời Chúa.

A. Từ Manna Ðến Lời Chúa
Bài sách Thứ luật hôm nay không trực tiếp nói đến chuyện Chúa ban Manna nuôi dân trong sa mạc. Muốn có bài tường thuật trực tiếp, phải đọc trong sách Xuất hành (chương 16).
Bấy giờ dân kêu trách Môsê và Aharôn: Phải chi chúng tôi chết đi bởi tay Yavê trong đất Aicập, khi còn ngồi bên niêu thịt và được ăn bánh thỏa thuê! Thật các ông đã đem chúng tôi ra sa mạc này để làm cả lũ chết đói ở đây. Nhưng Yavê đã phán với Môsê: Này Ta sẽ cho mưa bánh bởi trời xuống cho các ngươi. Và xảy ra là khi sương mai bốc lên rồi thì này trên mặt sa mạc có một lớp gì dòn mỏng như sương giá trên đất. Con cái Israel nói với nhau: Manhu, nghĩa là cái gì vậy? Môsê nói với họ: đó là bánh Yavê đã ban cho các ngươi. Và kể từ ngày đó có chuyện mưa Manna trong sa mạc.
Câu chuyện này hôm nay sách Thứ luật nhắc lại với nhiều chuyện khác, đặc biệt là chuyện rắn lửa bò ra cắn dân và chuyện đập đá ra nước trong sa mạc. Tác giả mượn uy tín của Môsê, nhắc lại những chuyện trên để dạy dỗ người đồng thời. Bây giờ họ không còn sống trong sa mạc nữa. Ngược lại nay là thời hậu Lưu đày; người Dothái đã tái thiết Quê hương và bắt đầu có đời sống phồn thịnh. Họ đang sống khá giả thì vì sao tác giả còn lấy lại câu chuyện chết đói, chết khát ngày xưa nơi sa mạc ra mà khuyên nhủ?
Bài học của ông như thế này. Ngày xưa Yavê lưu dân 40 năm nơi hoang địa là để họ có kinh nghiệm về sự thiếu thốn và bất lực, mà tin tưởng vào Yavê và trông chờ mọi sự từ miệng Người phán ra (vì có gì mà lại không do lời quyền năng Người làm ra?). Kể cả manna và nước uống vọt ra từ đá cũng do Lời Yavê mà có. Bài học ấy, Môsê bảo dân đừng có quên khi đã vào Hứa Ðịa, là đất chảy sữa và mật. Vì con người không sống nguyên bởi bánh; mà còn cần nhiều sự khác có lẽ và chắc chắn còn quan trọng hơn để được hạnh phúc. Mà tất cả đều do Chúa, bởi Lời quyền năng của Người! Và để được Chúa ban cho, người ta phải giữ lệnh truyền của Người. Vì thế thật là hữu lý khi nói: con người sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi Lời từ miệng Chúa phán ra. Và chúng ta luôn luôn phải sống khiêm nhường, đặt mọi tin tưởng vào Chúa.
Vậy như dân sống trong sa mạc nhờ manna, thì nay người ta sống nhờ Lời Chúa, tức là giữ lệnh Người truyền.

B. Từ Lời Chúa Ðến Mình Chúa
Ðó là bài học của sách Thứ luật, của Luật pháp, truyền đạt đến thời Chúa Yêsu. Người không đến để hủy bỏ nhưng để hoàn tất và kiện toàn Luật pháp. Thế nên hôm ấy dân tuốn đến với Người, không phải vì đã thấy dấu lạ nhưng vì đã được ăn bánh no (6,26). Người nói ngay: "Hãy lao công đừng vì lương thực hư nát nhưng vì lương thực sẽ lưu lại mãi đến sự sống muôn đời". Lập tức họ đã xin Người, như người phụ nữ Samari khi nghe nói đến nước hằng sống: Thưa Ngài, hãy luôn luôn cho chúng tôi thứ bánh ấy. Chúa Yêsu đáp: "Bánh sự sống, chính là Ta! Ai đến với Ta sẽ không hề đói, và kẻ tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ".
Lẽ ra họ đã phải hiểu ngay lời của Người. Sách Thứ luật đã nói: con người sống không nguyên bằng bánh, nhưng bằng mọi lời từ miệng Thiên Chúa phán ra. Thế nên khi bảo họ đừng tìm bánh hư nát nhưng hãy tìm lương thực nuôi sống đời đời, Người muốn bảo họ hãy tìm Lời hằng sống và Lời ấy chính là Người, là Lời Thiên Chúa đang nói với họ. Nếu họ tin vào Người thì sẽ không còn đói còn khát.
Nhưng người Dothái đã không hiểu, và đã không muốn hiểu. Họ đang loay hoay với ý tưởng bánh nuôi sống con người, bánh nuôi sống đời đời. Mà bánh ấy phải từ trời xuống như manna... thế mà ông Yêsu này là con của Yuse, làm sao ông có thể bảo mình từ trời xuống?
Thành ra cuộc đối thoại đã chuyển sang vấn đề tông tích của Ðức Yêsu, khiến Người khẳng định ngay: "Bánh hằng sống bởi trời xuống, chính là Ta!". Người muốn quả quyết mình từ trời đến.
Nhiều tác giả nghĩ rằng chương 6 của Yoan phải chấm dứt ở đây. Và mục đích của chương này chỉ là để mạc khải nguồn gốc đích thực của Ðức Yêsu là Ðấng từ trời đến, là Lời Thiên Chúa đến trong thế gian, là Lời Thiên Chúa nhập thể để ai tin thì được sống.
Nhưng vì ghi lại Lời mạc khải sau khi Chúa Yêsu đã về trời và đang thời Giáo hội chuyên cần với việc bẻ Bánh và việc tham dự vào Bí Tích này thiết yếu cho sự sống của Giáo hội, nên tác giả đã thêm những câu làm nên bài Tin Mừng của lễ Mình Thánh Chúa hôm nay. Ðúng hơn, có lẽ chúng ta nên nói trong khi các tác giả Phúc Âm khác chỉ kể lại thuần túy việc Chúa hóa bánh ra nhiều để nuôi dân, tác giả Yoan nhìn thấy đây là "dấu lạ" gợi lên mầu nhiệm Chúa Yêsu là Ngôi Lời ban sự sống, và là cơ hội để ông viết về Bí tính Thánh Thể, hầu bù vào chỗ ông sẽ không thuật lại việc Chúa thiết lập Bí tích này, vì ai ai cũng đã biết rồi.
Dù sao, sau khi đã đọc lại phần trên, chúng ta thấy bài Tin Mừng hôm nay thật sáng sủa và chúng ta phải hiểu theo chiều hướng đó.
Chúa Yêsu đã khẳng định Người là bánh hằng sống bởi trời xuống, ai ăn bánh này thì được sống đời đời. Lẽ ra người Dothái có thể hiểu theo nghĩa trên kia, nhận Ðức Kitô là Con Thiên Chúa đến ban sự sống cho loài người nên phải tin ở Người và vào Lời của Người. Nhưng Người biết họ không tin. Họ sẽ giết Người. Nhưng chính sự chết của Người sẽ làm cho người ta được sống. Nên Người tiếp theo "Và bánh Ta sẽ ban ấy là Thịt Mình Ta vì sự sống thế gian".
Người Dothái không chịu đựng nổi nữa. Tin vào Người đã khổ, bây giờ lại còn phải tin vào sự chết của Người! Do đó, vì không tin, họ đã rì rầm với nhau để phản đối: làm sao Ông có thể cho ta ăn thịt mình được?
Chúa Yêsu lợi dụng ngay sự kiện họ muốn hiểu lời Người một cách cụ thể để nói rõ việc Người sẽ bị giết, thịt máu phân rẽ và bảo người ta phải tin ở mầu nhiệm Tử nạn của Người để được sống. Và những lời ấy rất thích hợp để nói về Bí tích Thánh Thể. Nói cách khác, tác giả Yoan đã nhìn vào cử hành Thánh Thể trong Giáo hội để nói về sự chết cứu thế của Chúa và cũng để người ta luôn luôn liên kết Thánh Thể với cuộc Tử nạn cứu độ của Người. Có thể nói cả bài Tin Mừng hôm nay chỉ muốn giải thích câu Bánh hằng sống, chính là Ta: và Bánh Ta sẽ ban ấy là Thịt Mình Ta vì sự sống thế gian. Và câu nói ấy có ý bảo người ta phải tin vào cuộc đời của Chúa Yêsu và sự chết của Người. Tác giả đã dùng cử hành Thánh Thể ở trong Giáo hội để diễn tả chân lý trên. Và đồng thời cũng muốn dùng chân lý ấy để nói về nội dung của Thánh Thể. Bí tích này ban Chúa Yêsu trong lễ tế hy sinh của Người cho chúng ta. Ai tin và nhận lấy thì được sống đời đời.

C. Từ Mình Chúa Ðến Chúng Ta
Thế nên mượn lời thư Phaolô hôm nay, Phụng vụ nhắc nhở chúng ta Chén thánh và Bánh thánh chúng ta cầm lấy nơi bàn thờ là chính Chúa Yêsu trong mầu nhiệm Tử nạn cứu thế. Chúng ta phải tin Chúa hiện diện dưới hình thức bánh rượu. Nhưng chưa đủ. Còn phải tin Người là Bánh bởi trời, tức là Lời hằng sống nuôi sống chúng ta. Hơn nữa ở đây, trong Bí tích này, bánh rượu còn là Thịt Máu Người ban vì sự sống thế gian, tức là sự chết của Người khiến cho chúng ta được sống đời đời. Ðến với Thánh Thể chúng ta chỉ được ơn nếu tin như vậy. Và khi thông hiệp với Bí tích này, chúng ta phải chia sẻ lễ hy sinh của Chúa.
Nhiều người nghe nói đến mầu nhiệm sự chết của Chúa, chỉ nhìn thấy những nét bề ngoài là những đớn đau, như người Dothái chỉ nhìn thấy thịt và máu. Họ không đạt tới các thực tại bên trong. Dưới hình thức thịt máu, có con người Ðức Kitô, có ý chí hy sinh cứu thế của Người, có ơn cứu độ giao hòa con người với Thiên Chúa và loài người với nhau. Phaolô nhắc nhở chúng ta, khi chịu Mình và Máu Thánh Chúa, phải tin vào mầu nhiệm hy tế hòa giải và phải muốn kết hợp với Thiên Chúa và với đồng loại trong Thân thể Ðức Kitô. Có như vậy Thánh Thể mới là lương thực nuôi dưỡng sự sống đời đời, vì sống đời đời là sống với Thiên Chúa và các thánh của Người. Thánh Thể vì thế là bí tích tình yêu vì khiến chúng ta được lưu lại trong Chúa và Chúa trong chúng ta, để chúng ta làm nên Thân Thể Chúa và nên chi thể của nhau. Và tất cả những ơn đó đều nhờ Thập giá Ðức Kitô và sự chết của Người, mà Thánh Thể là Bí tích.
Ngày lễ Mình Máu Thánh Chúa không những nhắc nhở chúng ta niềm tin vào sự hiện diện của Chúa nơi Thánh Thể và vào hiệu lực của Bí tích tình yêu duy nhất hóa chúng ta trong Thân thể Ðức Kitô nhờ việc Người hiến dâng Thịt Máu trong hy lễ hòa giải. Các bài đọc của Thánh lễ hôm nay còn gợi lên bối cảnh chúng ta phải nhớ mỗi lần đến với Mình Máu Thánh Chúa. Ðây là Bánh hằng sống bởi trời xuống như manna, dành cho Dân Chúa đang trên đường sa mạc trần gian. Chúa đòi dân phải cảm thấy thiếu thốn, bất lực và đặt hết niềm tin vào Người. Và chờ mong được sống nhờ mọi sự do Lời Chúa phán ra. Chúa muốn chúng ta luôn luôn ý thức thân phận khó nghèo về hạnh phúc đời đời để trông chờ Nguời ban sự sống vĩnh cửu, khi chúng ta giữ Lời Người và kết hợp với Người nhờ Bí tích Thánh Thể. Và khi chúng ta thi hành hai điều này thì nhất định chúng ta sẽ trở thành Kitô hữu hoàn toàn hơn, tức là sống giống như Người hơn. Và cuộc đời của Người rõ ràng là đã hy sinh cho Thiên Chúa và tận hiến cho hạnh phúc của mọi người. Chúng ta sẽ đạo đức và phục vụ. Chúng ta sẽ mến Chúa và yêu người. Chúng ta sẽ làm đẹp đạo và tốt đời.
Ðó là điều chúng ta phải ao ước mỗi khi đến với Thánh Thể và đặc biệt trong Thánh Lễ hôm nay.

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)


Lời Chúa Mỗi Ngày
Lễ Mình Máu Thánh Chúa, Năm A
Bài đọc: Deut 8:2-3, 14b-16a; 1 Cor 10:16-17; Jn 6:51-59.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Ích lợi của việc lãnh nhận Mình và Máu Thánh Đức Kitô
Tuần trước, chúng ta đã cùng nhau tìm hiểu mầu nhiệm khó hiểu nhất trong Đạo Công Giáo, mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi; tuần này, chúng ta cùng nhau học hỏi mầu nhiệm khó thứ hai, mầu nhiệm Mình và Máu Thánh Đức Kitô. Những người Do-thái đương thời với Chúa Giêsu hỏi nhau: “Làm sao ông này có thể lấy thịt ông cho chúng ta ăn được?” Có hiểu hay không, bí-tích Thánh Thể vẫn là một thực tại, có nguồn gốc từ biến cố Thiên Chúa nuôi dân bằng manna suốt 40 năm trường trong sa mạc, và được mặc khải cách rõ ràng trong chương 6 của Tin Mừng Gioan. Giống như lần trước, chúng ta sẽ tập trung trong những lợi ích mà bí-tích Thánh Thể mang lại cho con người.
Trong bài đọc I, Sách Đệ Nhị Luật cho chúng ta hiểu lợi ích của manna là để con người có sức mạnh vượt qua những thử thách của Thiên Chúa suốt 40 năm trường trong sa mạc trước khi vào Đất Hứa. Trong bài đọc II, thánh Phaolô nhấn mạnh đến sự hiệp nhất với Đức Kitô và với nhau là hiệu quả của bí-tích Thánh Thể, vì mỗi khi người tín hữu lãnh nhận Mình và Máu Thánh của Đức Kitô, họ trở nên một thân thể với Ngài. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến sự sống thần linh được ban cho những ai ăn thịt và uống máu Ngài. Hơn nữa, bí-tích Thánh Thể còn là Bánh mang lại sự sống trường sinh mà con người ở mọi nơi và mọi thời luôn khao khát nó.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Manna trong Sách Xuất Hành là hình bóng của Bí-tích Thánh Thể.
1.1/ Manna là của ăn anh em chưa từng biết và cha ông anh em cũng chưa từng biết: Biến cố Xuất Hành là một biến cố lớn và không thể quên của người Do-thái. Các nhà lãnh đạo và các ngôn sứ không ngừng nhắc nhở dân chúng nhớ lại biến cố Vượt Qua, như tác giả Sách Đệ Nhị Luật nhắc nhở dân chúng về mục đích của biến cố này: “Anh em phải nhớ lại tất cả con đường mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã dẫn anh em đi suốt 40 năm trong sa mạc, để bắt anh em phải cùng cực; như vậy Người thử thách anh em cho biết lòng dạ anh em, xem anh em có giữ các mệnh lệnh của Người hay không.”
Sau khi thoát khỏi Ai-cập, dân Israel hết lương thực và phải chịu đói khát. Họ kêu lên Thiên Chúa, và Ngài “đã cho anh em ăn manna là của ăn anh em chưa từng biết và cha ông anh em cũng chưa từng biết.” Manna là bánh bởi trời Thiên Chúa cho rơi xuống trên mặt đất mỗi sáng. Người Do-thái chưa từng biết đến manna trên mặt đất này. Trong tiếng Do-thái, manna đến từ “manhu,” có nghĩa là “Cái gì vậy?” Đây là câu hỏi khi người Do-thái đi lượm manna lần đầu tiên.
1.2/ Manna là của ăn đàng của dân Do-thái suốt 40 năm trong sa mạc: Thánh Vịnh 78:25, bản Do-thái gọi manna là Bánh của những người mạnh; trong khi bản Bảy Mươi gọi là Bánh của các thiên thần. Bản dịch Do-thái chính xác hơn, vì manna là Bánh ban sức mạnh cho người Do-thái, để họ có sức chịu đựng bao nhiêu thử thách xảy đến cho họ trong sa mạc trong suốt 40 năm trường. Chỉ khi dân Do-thái đặt chân tới đồng bằng Jericho, vào đúng ngày Lễ Vượt Qua, manna mới chấm dứt, và dân Do-thái bắt đầu dùng các thức ăn địa phương (Jos 5:12).
Khi còn lang thang trong sa mạc, ông Moses đã truyền cho dân chúng gom một bình đầy manna đặt trong Hòm Chứng Ước, cùng với cây gậy của Aaron và hai bia đá có khắc Thập Giới (Heb 9:4), để kỷ niệm biến cố Thiên Chúa đã làm mưa từ trời cho dân có bánh ăn trong sa mạc. Manna được giữ trong nơi Cực Thánh, như chúng ta giữ Mình Thánh Chúa ngày nay, để người Do-thái luôn cảm thấy sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa họ.
+ Khi người Do-thái nghĩ ông Moses đã làm cho cha ông họ có manna ăn trong sa mạc, Chúa Giêsu đã sửa sai họ: "Thật, tôi bảo thật các ông, không phải ông Moses đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời, bánh đích thực, vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian" (Jn 6:31-32). Sau cùng, manna cũng được nhắc trong mặc khải cho hội thánh tại Pergamum, một trong 7 Hội Thánh trong Sách Khải Huyền: “Ai có tai, thì hãy nghe điều Thần Khí nói với các Hội Thánh: Ai thắng, Ta sẽ ban cho manna đã được giấu kỹ; Ta cũng sẽ ban cho nó một viên sỏi trắng, trên sỏi đó có khắc một tên mới; chẳng ai biết được tên ấy, ngoài kẻ lãnh nhận” (Rev 2:17). Tác giả Sách Khải Huyền nối việc ăn manna với những người chiến thắng.
2/ Bài đọc II: Bí-tích Thánh Thể là nguồn mạch hiệp nhất.
2.1/ Thánh Thể là Bánh hiệp nhất mọi người với Đức Kitô: Thánh Phaolô chất vấn các tín hữu Cotintô: “Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Đức Kitô ư? Và khi ta cùng bẻ Bánh Thánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao?” Truyền thống của các nước miền Cận Đông tin: Khi con người dâng lễ vật cho bất cứ thần nào, chính thần ấy nhập vào lễ vật họ dâng; và khi họ ăn phần dâng cúng được các tư tế trả lại cho họ, các thần sẽ vào trong thân thể họ và làm cho họ được khỏe mạnh, thông minh và nhân đức như các thần. Cũng vậy, khi người Kitô hữu nhận lãnh Mình Máu Thánh Chúa, họ trở nên một phần của thân thể Đức Kitô. Tương tự, một gia đình hay một cộng đoàn cùng lãnh nhận Mình Thánh Chúa, tất cả đều trở nên những phần tử của thân thể Đức Kitô. Tất cả đều dự phần vào cuộc sống thần linh của Thiên Chúa.
2.2/ Thánh Thể là Bánh hiệp nhất mọi người với nhau: Không phải các tín hữu chỉ thông hiệp với Đức Kitô, nhưng họ còn thông hiệp với nhau, “Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể.” Theo thần học về thân thể của Đức Kitô, mỗi người chúng ta trở nên những chi thể của một thân thể là Giáo Hội, với Đức Kitô là Đầu. Vì thế, mỗi người không còn giữ và làm theo ý riêng mình nữa; nhưng tất cả đều cùng chung một ý muốn và làm theo thánh ý của Đức Kitô, và như thế, họ cùng hiệp nhất với nhau. Nếu đã cùng hiệp nhất trong một thân thể của Chúa, các tín hữu không thể làm bất cứ điều gì chia cắt thân thể của Đức Kitô.
3/ Phúc Âm: Chúa Giêsu là Bánh ban sự sống thần linh và sự sống đời đời cho con người.
3.1/ Phân tích từ ngữ Hy-lạp: Lời tuyên bố của Chúa Giêsu sau đây cần được nghiên cứu từng từ ngữ và cách cấu trúc: "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống."
+ Cụm từ "ego eimi" theo sau bởi một thành ngữ xảy ra 7 lần trong Gioan, và túc từ theo sau đều mặc khải một sứ vụ đặc biệt của Đức Kitô như: Ta là Bánh Hằng Sống; Mục Tử Tốt Lành; Cửa Chuồng Chiên; Cây Nho; Sự Sống Lại và Sự Sống; Ánh Sáng Thế Gian; Đường, Sự Thật, và là Sự Sống.
+ Túc từ "o arton o zon" có thể mang nhiều nghĩa khác nhau tùy theo cách dịch:
(1) Có thể dịch là "bánh hằng sống hay bánh trường sinh," có nghĩa bánh không bao giờ hư nát. Khi áp dụng vào Chúa Giêsu, có nghĩa Chúa là Bánh Hằng Sống.
(2) Hay có thể dịch là "bánh mang sự sống thần linh." Khi áp dụng vào Chúa Giêsu, có nghĩa, Ngài là bánh mang sự sống thần linh cho con người như trong (Jn 6:33).
(3) Hay cũng có thể dịch là "bánh đang sống." Khi áp dụng vào Chúa Giêsu, có nghĩa Ngài là Bánh đang sống.
Theo văn mạch và nội dung, nghĩa thứ (2) có lẽ thích hợp hơn cả; mặc dù hai nghĩa kia vẫn đúng với Chúa Giêsu.
+ Cụm từ: "từ trời xuống" nhắc nhở cho con người biến cố Thiên Chúa cho manna rơi xuống từ trời làm lương thực cho con cái Israel suốt 40 năm trong sa mạc. Manna là hình ảnh báo trước của bí-tích Thánh Thể. Bánh mang lại sự sống đời đời có thực và có nguồn gốc từ trời.
+ Bánh Hằng Sống chính là thịt (sárk) của Chúa Giêsu. Ngay từ đầu Tin Mừng, Gioan đã dùng danh từ này để nói về mầu nhiệm Nhập Thể: Và Ngôi Lời đã mặc lấy xác phàm (sárk) và đã cư ngụ giữa chúng ta.
+ Phản ứng của người Do-thái: Điều họ tranh luận ở đây không phải về nguồn gốc của Chúa Giêsu, nhưng là thịt của Ngài: Làm sao một người đang sống có thể lấy thịt của mình cho kẻ khác ăn? Trừ phi người đó phải chết! Điều khó khăn nữa là người Do-thái không có thói quen ăn thịt người.
3.2/ Sự cần thiết của bí-tích Thánh Thể: Đức Giêsu nói với họ: "Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình."
+ Công thức "amen amen = thật, tôi bảo thật" báo hiệu trước một chân lý sẽ được mặc khải trong Tin Mừng Gioan. Chân lý Chúa Giêsu mặc khải ở đây là "Nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình." Nếu Chúa Giêsu không mặc khải chân lý cho con người, sẽ không có ai biết được.
+ Hai động từ ăn (esthio) và uống (pino) mà Gioan dùng ở đây là hai động từ căn bản dùng trong việc ăn uống của con người: như ăn bánh và uống nước.
+ Chúa Giêsu phân biệt hai sự sống: thể lý (psyche) và thần linh (zon). Nếu không ăn thịt và uống máu Chúa, con người vẫn có sự sống thể lý; nhưng không có sự sống thần linh.
+ Sự sống muôn đời (zon aivonion): Sự sống thần linh sẽ dẫn con người đến sự sống muôn đời: "Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết." Như Chúa Giêsu khi mang thân xác con người, mặc dù con người vẫn phải chết cách thể lý, nhưng sẽ được sống lại vinh hiển, và sẽ không bao giờ phải chết nữa.
+ Thịt và Máu Chúa là lương thực nuôi sống con người: "vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống." Hai danh từ dùng để so sánh: của ăn (brosis) và của uống (posis) là hai danh từ dùng để chỉ lương thực căn bản của con người.
+ Sự sống thần linh là sự sống của chính Thiên Chúa: "Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy." Chúa Giêsu và người rước Chúa trở nên một, như thánh Phaolô tuyên bố: "Tôi sống, nhưng không còn là tôi; mà là chính Đức Kitô sống trong tôi."
+ Sự sống thần linh giúp con người hiểu biết sự khôn ngoan và các mầu nhiệm của Thiên Chúa mà trí khôn con người không hiểu thấu được. Sự khôn ngoan có được là do Thánh Thần của Đức Kitô hướng dẫn con người. Sự sống thần linh giúp cho con người có sức mạnh để đáp ứng lời mời gọi nên trọn lành của Đức Kitô mà sức riêng con người không thể làm được. Ví dụ, con người có được tình yêu nguyên thủy của Thiên Chúa để yêu thương kẻ thù, làm ơn và cầu nguyện cho người ghét mình.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Như manna rơi xuống từ trời để nuôi dưỡng và tăng sinh lực cho dân Do-thái suốt 40 năm trường trong sa mạc, Chúa Giêsu trong bí-tích Thánh Thể cũng là Bánh từ trời xuống để nuôi dưỡng và tăng sinh lực cho chúng ta trong suốt cuộc đời trên dương gian.
- Bí-tích Thánh Thể là căn nguyên của sự hiệp nhất. Nếu mỗi người trong gia đình, trong cộng đoàn, giáo xứ hay Giáo Hội năng lãnh nhận Bí-tích Thánh Thể, tất cả sẽ hiệp nhất với Thiên Chúa và với nhau.
- Bí-tích Thánh Thể làm chúng ta được tham dự cuộc sống thần linh với Thiên Chúa ngay từ đời này, và chuẩn bị cho chúng ta cuộc sống hạnh phúc muôn đời với Thiên Chúa ở đời sau.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

22/06/14 CHÚA NHẬT TUẦN 12 TN – A 
Lễ Mình Máu Chúa Ki-tô
Ga 6,51-58

Suy niệm: Khát vọng thẳm sâu nơi cõi lòng con người là yêu  được yêu, cùng sống mãi trong tình yêu. Chúa Giê-su luôn khát khao và đi bước trước để ngỏ lời yêu thương, để đổ đầy tình yêu của Ngài vào trái tim chúng ta, để mong mỏi chúng ta cảm nhận được tình yêu của Ngài, và để chúng ta sống mãi. Tình Yêu Chung Thủy của Chúa không chỉ hiến dâng tâm hồn mà trọn cả thân mình Ngài nữa. Chúa tự tỏ bày: thịt và máu của Chúa chính là của ăn tuyệt hảo nhất; con người ăn vào sẽ không bao giờ còn đói khát nữa. Chúa tự nguyện hiến trao sự sống: là thịt và máu của Chúa để cho chúng ta lãnh nhận và được sống mãi như Chúa. Chúa không chỉ tỏ lộ: Chúa là Bánh hằng sống từ trời xuống. Chúa còn kêu mời chúng ta: hãy ăn Ngài – ‘Thịt tôi thật là của ăn, máu tôi thật là của uống’. Sao Chúa yêu chúng ta nhiều đến thế!
Mời Bạn: Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đi-tô XVI nói: đau khổ lớn nhất của con người không phải là thiếu thốn vật chất, nhưng là thiếu vắng tình yêu. Chúa Giê-su là đại dương tình yêu. Mong bạn nhận ra tình yêu của Ngài, để bạn kết nối, tựa mình vào Ngài, để trái tim bạn rạo rực, vui sướng, hạnh phúc vì được yêu; mong bạn cảm nhận được điều đó mỗi khi rước lễ!
Sống Lời Chúa: Sẵn sàng tâm hồn để rước Mình Thánh Chúa mỗi khi có thể.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Thánh Thể Chúa là sự hiện diện đích thực của Chúa đang ở với chúng con, để yêu chúng con. Xin cho chúng con đầy lòng tin tưởng, sốt mến mỗi khi rước Mình và Máu Thánh Chúa. Amen.

KẺ ĂN TÔI SẼ SỐNG NHỜ TÔI
 Rước lễ là đón lấy sự sống từ Ðấng đang sống, cũng là sự sống duy nhất bắt nguồn từ Chúa Cha. 


Suy nim:
“Lúc đó tôi biết thế nào tôi cũng chết
nhưng tôi muốn con tôi được sống”
Ðó là lời của bà Susanna sau khi được cứu
trong trận động đất ở Ácmêni vào tháng 12-1987.
Trong số hàng ngàn người bị vùi lấp dưới đống gạch,
có hai mẹ con bà Susanna may mắn còn sống sót.
Cô con gái bốn tuổi đòi uống nước.
Tìm đâu ra nước khi hai mẹ con không có lối ra?
Tình mẫu tử đã gợi lên cho bà một ý nghĩ táo bạo,
đó là rạch ngón tay mình chảy máu để cho con mút.
Ðứa bé đã đỡ khát nhờ máu người mẹ.
Nó đã sống cho đến khi cả hai mẹ con được cứu.
Câu truyện trên giúp ta hiều phần nào bí tích Thánh Thể.
Ðức Giêsu đã chết để chúng ta được sống.
Ngài chấp nhận chịu đổ máu qua cái chết thập giá,
và Ngài muốn máu Ngài trở nên thức uống cho chúng ta.
Trong các nhà thờ, vào dịp lễ Giáng sinh,
thường có những người ngoài Kitô giáo đến dự lễ.
Cũng có ít người tò mò lên “ăn bánh thánh”.
Họ ngạc nhiên vì tấm bánh mỏng manh, nhạt nhẽo.
Nhưng họ sẽ ngạc nhiên hơn nhiều nếu chúng ta bảo họ:
“Ăn tấm bánh đó là ăn thịt Chúa,
uống chén rượu đó là uống máu Chúa”.
Thật là kinh khủng, làm sao có chuyện như vậy?
Ðây là mầu nhiệm đức tin, không dễ giải thích cho người ngoài.
Tất cả bắt đầu từ ước muốn lạ lùng của Ðức Giêsu.
Ngài muốn nuôi nhân loại bằng chính con người Ngài.
Ngài muốn trở thành đồ ăn thức uống cho nhân loại:
“Các con hãy cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy.
Các con hãy cầm lấy mà uống, đây là Máu Thầy”.
Mình và Máu tượng trưng toàn thể con người Ðức Giêsu.
Nên khi rước lễ, ta không chỉ rước thịt mình Ngài,
mà rước lấy cả con người Ngài dưới dạng tấm bánh.
Rước lễ là gắn bó với một ngôi vị:
“Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi thì ở lại trong tôi
và tôi ở lại trong người ấy” (c.56).
Rước lễ không phải là đón nhận một xác chết,
nhưng là gặp gỡ Ðức Giêsu đã chết và nay đã phục sinh.
“Như tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào,
kẻ ăn tôi cũng sẽ sống nhờ tôi như vậy” (c.57).
Rước lễ là đón lấy sự sống từ Ðấng đang sống,
cũng là sự sống duy nhất bắt nguồn từ Chúa Cha.
Hôm nay, Ðức Giêsu phục sinh có một lối hiện diện mới mẻ.
Ngài không hiện diện dưới dạng một con người,
nhưng dưới dạng đồ ăn, đồ uống.
Như thế cả vật chất bất động cũng được nâng lên,
cả lao công của con người cũng được thánh hiến.
Vật chất trở thành biểu tượng cho sự hiện diện thần linh.
Vật chất có chỗ trong thế giới của Thiên Chúa.
Ước gì thế giới vật chất ở quanh ta
cũng nên thánh, nhờ được chia sẻ trong yêu thương.
Cầu nguyn:

Lạy Chúa Giêsu,
có một ngọn đèn dầu gần Nhà Tạm,
ngọn đèn đỏ mời con dừng bước chân,
và nhắc con về sự hiện diện của Chúa.
Con mong sự hiện diện ấy lan tỏa khắp nơi,
để đâu đâu cũng thấy những ngọn đèn đỏ.

Nơi xóm nghèo mùa mưa nhớp nháp,
nơi lớp học tình thương lúc chiều tà,
nơi những trung tâm phục hồi nhân phẩm,
nơi bảo sanh viện nâng niu sự sống của trẻ thơ,
nơi khách sạn năm sao, noi quán bia đầu ngõ,
nơi các tiệm cho mướn băng video,
noi tình yêu trong ngần của đôi bạn trẻ...

Nhưng lạy Chúa, trước hết,
xin cho đời con là một ngọn đèn,
xin cho chúng con là những ngọn đèn màu đỏ,
mời người ta dừng lại, trầm tư,
và gặp được Chúa.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
22 THÁNG SÁU
Thiên Chúa Mời Gọi Đích Danh Mỗi Người Chúng Ta
Đồng thời, chúng ta cũng gặp thấy nơi truyền thống một hành trình kiên thủ trong đức tin. Ở đây, Giáo Hội là bạn đồng hành luôn sát cánh với con người. Giáo Hội luôn sẵn sàng khi con người yêu cầu những cách thế mới của sự quan phòng của Thiên Chúa. Các Công Đồng Vatican I và II, mỗi Công Đồng theo cách riêng mình, là những tiếng nói quí giá của Chúa Thánh Thần mà chúng ta không được phép dửng dưng. Giáo Hội mời gọi chúng ta suy tư lại về những chân lý sống động mà các Công Đồng ấy đã nêu ra, cũng như suy tư lại về những tài liệu quan trọng của truyền thống.
Mọi câu hỏi nghiêm túc phải nhận được một câu trả lời thấu đáo. Đó là lý do tại sao chúng ta đang liên hệ tới những khía cạnh khác nhau của sự quan phòng thần linh trong nhiệm cục sáng tạo và cứu độ. Vì thế , chúng ta hãy dành thời gian để suy tư về chân lý vĩnh cửu mãi mãi tồn tại ấy. Đây là sự khôn ngoan siêu việt mà Thiên Chúa yêu thương con người và mời gọi con người tham dự vào trong kế hoạch cứu độ của Ngài. Con người được mời gọi nhận ra sự săn sóc ân cần của Thiên Chúa và hợp tác với ơn cứu độ của Ngài.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 22-6
Chúa Nhật XII Thường Niên
Mình Và Máu Thánh Chúa Kitô
Đnl 8, 2-3.14b-16a; 1Cr 10, 16-17; Ga 6, 51-58.

LỜI SUY NIỆM: “Tôi là Bánh từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời. Và Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.”
Với tình yêu của Chúa Giêsu, Người đã nhập thể vào thế gian và đã tự hiến mình cho thế gian, nhưng Người còn muốn hơn thế nữa, Người muốn nhập thể trong từng con người một đang sống trong trần gian này, để đem lại cho con người sự sống vĩnh cửu.
Lạy Chúa Giêsu, Chính Chúa vì yêu thương chúng con, Chúa muốn cứu chúng con, Chúa muốn chúng con nên một với Chúa, như Chúa nên một với Chúa Cha. Xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng con luôn chuẩn bị tâm hồn và thân xác với ước nguyện được rước Chúa vào lòng mỗi khi tham dự Thánh lễ.
Mạnh Phương


Gương Thánh Nhân
Ngày 22-06: Thánh GIOAN FISHER
Giám Mục (1469 - 1535)

Thánh Gioan Fisher sinh tại Beverly, Yorkshire là con của một thương gia giàu có. Cha Ngài đã qua đời năm 1477. Khoảng năm 1482, Ngài được Mẹ gởi tới đại học Cambriage và đã trở thành một học giả nổi danh. Năm 1941, Ngài thụ phong linh mục. Sau mười năm học thần học. Năm 1501, và sau này Ngài được coi như một trong các nhà thần học hàng đầu của Âu Châu.
Đại học sớm nhận ra khả năng quản trị của Ngài, lần lượt Ngài đã giữ chức vụ giám thị, phó chưởng ấn, rồi chưởng ấn. Năm 1514, Ngài được chọn làm chưởng ấn suốt đời.
Ngài được đặt làm giám mục Rochester năm 1504 và Ngài đã là một mục tử chân chính, lo khích lệ các linh mục bằng sự quan tâm tới cuộc sống của các Ngài. Là một nhà giảng thuyết thời danh, Ngài làm hết sức để có thể cung ứng cho Giáo hội các linh mục đầy đủ khả năng giảng dạy dân chúng.
Do ảnh hưởng của Ngài mà Erasnius được đưa vào giảng dạy tiếng Hy lạp ở đại học Cambrige Erasmus. Tôma More cũng đã trở thành bạn thân của Gioan Fisher. Năm 1516, có bản văn ghi chép về cả ba nhân vật này ở Rochester.
Ngài Tôma More làm Tổng quản lý đại học Cambrige. Từ năm 1525 đến những năm sau đó Tôma và Gioan Fisher hợp tác với nhau để đáp ứng người chống lại lạc thuyết của Lutherô. Đức giám mục Gioan Fisher đã viết cuốn Confutatio (1523) bằng tiếng Latinh. Đó là cuốn sách của thần học gia viết cho các thần học gia. Người tín hữu (More) viết cuốn Dialogue concerning Heresies (1528) cho giới bình dân.
Năm 1527, năm định mệnh cho nước Anh vì là lúc, Henri VIII đi bước đầu, tới việc tiêu hủy hôn nhân của ông với Catarina miền Atagon. Năm 1501 bà thành hôn với Arthur, anh của vua. Nhưng được sáu tháng thì Athur từ trần. Năm 1509, đức Giáo hoàng cho phép vua được thành hôn với người vợ goá của anh mình. Về sau, vì không có con trai để nối dõi, ông tìm cách phá hủy hôn nhân này vịn cớ là phép chuẩn của Đức Giáo hòang không thành. Đức Hồng y Wolsey hỏi ý kiến Đức cha Gioan Fisher. Sau khi nghiên cứu đầy đủ đức giám mục kết luận là phép chuẩn của Đức Giáo hoàng thành. Ngài giữ vững lập trường này mãi. Henry coi sự chống đối này là như một hành vi bội phản.
Năm 1534 có luật thừa kế. Luật này tuyên bố rằng hôn phối với Catatina là vô hiệu và hôn nhân với Anna Boleyn là hợp pháp. Quyền kế vị thuộc về con bà ta. Mọi người phải thề nhận trọn đạo luật này. Đức giám mục Gioan Fisher từ chối. Tôma More cũng vậy, bởi vì đạo luật bao hàm việc coi phép chuẩn của đức giáo hoàng là bất thành.
Ngày 17 tháng 4 năm 1534, đức giám mục Gioan Fisher và Sir Tômas More bị xử tại Tower và bị giam biệt ra. Ngày 20 tháng 5 năm 1535 đức giám mục Gioan Fisher được phong làm hồng y . Điều này làm nhà vua giận dữ và vội vã lập toà án chống lại đức tân hồng y.
Ngày 17 tháng 4 năm 1535, Ngài bị xử là bội phản. Ngày 17 tháng 6 năm 1535, Ngài bị xử là bôi phản. Ngày 22, Ngài bị chém đầu, thân xác trần trụi của Ngài bi bỏ lại pháp trường cho đến khi được chôn cất vội vã không một nghi thức tang lễ trang Hallows. Đầu Ngài bị treo ở Lôndôn Bridge cho tới ngày 6 tháng 7 rồi bị ném xuống sông Thames ... nhường chỗ cho đầu bạn Ngài là Tomas More.


Ngày 22-06: Thánh TOMA MORE
(1478 - 1535)

Thánh Toma More sinh tại Luân Đôn ngày 06 tháng 2 năm 1478 trong một gia đình mà chính Ngài đã nói: "Không danh giá nhưng lại lương thiện". Lên 12 tuổi, Ngài giúp việc Đức Hồng Y Morton tổng giám mục giáo phận Canterbury. Hai nămsau, Ngài được gởi học tại Ozford. Để cho Ngài chăm chú học hành, cha Ngài đã giới hạn việc cung cấp tiền bạc đến nỗi Ngài không có tiền để sửa đổi giày. Vào tuổi 15, Ngài bỏ Ozford tới Luân Đôn.
Ba năm sau, tức năm 1493, Ngài gặp Eramus trong khi ông thăm viếng nước Anh lần đầu tiên. Vừa học, vừa trắc nghiệm ơn kêu gọi tu trì trong bốn năm sống tại Luân Đôn.
Cuối cùng More quyết định rằng: Ngài không có ơn gọi sống bậc tu trì. Ngài bước vào hôn nhân một cách đặc biệt, Ngài chọn cô em gái thứ xinh đẹp và dễ thương. Nhưng rồi thấy rằng người chị sẽ đau khổ và xấu hổ nếu cô em lập gia đình trước. Vì thế Ngài cưới cô chị. Họ sống với nhau được 4 năm thì bà vợ qua đời. Một năm sau Tôma More tái hôn với người khác mà không có con. Người vợ mới hay nóng giận, nhưng gia đình thật êm thắm.
Ba người con gái cũng như người con trai của Ngài đều được giáo dục rất cẩn thận. "Trong gia đình này không có ai làm biếng cả..."
Thực tế các cô con gái Ngài thông minh đến nỗi được mời tới trước mặt vua để tranh luận về triết học. Bầu khí gia đình hạnh phúc còn là nơi tụ tập của nhiều loại người, từ những người yếu đau già cả tới những kẻ thông thái. Erasmus cũng là một người bạn thân của gia đình này. Lần kia, khi được tin kho lúa bị thiêu rụi Tôma có viết thư cho vợ: "Có lẽ chúng ta có lý do để cảm tạ Chúa vì sự mất mát này hơn là về những cái chúng ta tích lũy được".
Và Ngài cũng lo lắng cho hàng xóm.- "Anh không muốn còn đầy muỗm nếu một trong số họ chịu thiệt thòi vì tai nạn xảy đến cho chúng ta".
Toma More cũng viết cuốn Utophia, nói về một hòn đảo hạnh phúc đầy tưởng tượng. Ngài cũng viết cuốn "Dialogue concerning Heresies" (Đối thoại về các lạc thuyết). Danh tiếng của Ngài như một luật sư đã lôi kéo được sự chú ý của vua Henry III. Vua thúc ép Ngài phục vụ triều đình. More bằng lòng và trở nên giàu có. Được phong làm hiệp sĩ và năm 1523 được đặt làm phát ngôn viên của thư viện thứ dân.
Tuy nhiên năm 1527, nhà vua muốn chấm dứt đời sống hôn nhân với hoàng hậu Catarina và cưới Anna Boleyn. Toma More trách cứ nhà vua và bị thải hồi. Một ngày kia bá tước Norfolk thấy rằng: Ngài sẽ bị nguy hiểm nếu chống lại nhà vua. Nhưng bình tĩnh Ngài trả lời: - Thưa Đức ông, tất cả có thể thôi sao ? Thực sự có điều này khác biệt giữa Ngài và tôi là: Hôm nay tôi chết, nhưng Ngài cũng sẽ chết ngày mai.
Ngày 12 tháng 4 năm 1534, Toma More được mời để tuyên thệ nhận Anna More Boleyn và từ bỏ uy quyền của đức giáo hoàng, Ngài từ khước. 14 tháng tù ở là những ngày tháng cầu nguyện chẳng khác gì nơi tu viện. Trước toà án Ngài nói: - Vương quốc Anh không thể bất phục tòa thánh như một người con không thể bất phục cha mình.
Khi nghe tuyên án tử hình Ngài nói: - Thánh Phaolô đồng loã với cái chết của Stêphanô lại chẳng hợp nhất với Ngài trong cuộc sống vĩnh cửu sao ? Vậy, tôi sẽ cầu nguyện tha thiết cho các lãnh Chúa đã kết án tôi, để ít ra chúng ta sẽ gặp nhau trên trời sau này. Tôi cũng cầu xin Chúa toàn năng bảo vệ đức tin và gởi tới cho Ngài một lời khuyên tốt đẹp.
Bình thản, Ngài lên đường tới pháp trường, khi bước lên đoạn đầu đài, Ngài còn khôi hài nói: - Lúc xuống, chỉ mình tôi thủ lợi.
Ngài ôm người đao phủ và bảo: - Can đảm lên đừng sợ. Cổ tôi ngắn quá hãy cẩn thận vì danh dự của anh ở đó.
Tự bịt mắt, Ngài nằm lên đoạn đầu đài, vén râu lên Ngài nói: - Nó không phạm tội phản bội. Thánh Toma More đã chịu chết như vậy ngày 6 tháng 7 năm 1535 với tất cả trịnh trọng, vui tươi và đơn thành.


Ngày 22-06: Thánh PAULINÔ NÔLANÔ
(355 - 431)

Thánh Paulinô sinh tại Bordeax khoảng năm 355. Cha Ngài là một pháp quan. Ngài được thụ huấn với nhà hùng biện và thi sĩ Ausônô. Ngài được thừa hưởng rất nhiều đất đai ở Gaule và Italia. Năm 378, Ngài trở nên danh tiếng trước pháp đình và được đặt làm chánh án. Khi sang Tây Ban Nha thăm các lãnh địa của gia đình Ngài kết hôn với Therasia, một thiếu nữ Tây Ban Nha và được hưởng thêm nhiều đất đai như của hồi môn. Khoảng năm 389, Ngài lãnh phép rửa tội ở Bordeauz và bắt đầu một cuộc đổi mới. Trước sự chán nản của Ausôniô và cơn thịnh nộ của gia đình, Ngài và vợ cũng không ngần ngại sống tiết độ: lần lượt bán đất đai và phân phát lợi nhuận cho dân nghèo. Chính Ngài chỉ mặc áo quần nghèo khó và ăn chay kham khổ.
Một biến cố đau lòng dẫn Ngài tới sự thánh thiện lớn lao hơn đó là cái chết của đứa con trai Ngài, Paulinô và Therasia toàn hiến cho Thiên Chúa. Họ giải phóng nô lệ, bán hết của cải và phân phát cho người nghèo. Còn Paulinô từ giã nghị trường và năm 394 hay là 395 chịu chức linh mục tại Barcelôna. Nhưng vì được kính phục ở Tây Ban Nha, nên ít lâu s au, Ngài đã ẩn mình sang Nôla miền nam nước Ý. Còn một ít đất đai ở đây, Ngài bán để xây một thánh đường dâng kính thánh Fêlixita.
Cuộc sống khắc khổ của Ngài bị chê cười. Thánh Anmbrôsiô ghi nhận: - "Có nhiều người theo thị hiếu của họ đã không ngạc nhiên gì khi chịu những thay đổi rất kỳ dị. Vậy mà khi có một Kitô hữu quan tâm tới sự trọn lành mà thay đổi thói quen của mình thì họ la lối giận dữ".
Thánh Paulinô thường nói: - Phật lòng người để được lòng Chúa quả là một cuộc chạm trán hồng phúc.
Thánh Augustuinô cũng viết vào thời này: - Hãy đến Campania xem con người dòng dõi quý quyền tài ba và giầu có; hãy xem lòng đại độ mà người tôi tớ Chúa Kitô đã tự thoát để chiếm hữu Thiên Chúa. Hãy xem Ngài đã từ khước sự kiêu hãnh để ôm ấp sự khiêm tốn của thập giá thế nào.
Để trả lời những người thán phục đời nghèo khó tự nguyện của mình, thánh Paulinô viết:
- "Tôi ngạc nhiên khi người ta cho là có công một người mua ơn cứu rỗi đời đời bằng những cái mau tàn, khi người ta ca tụng hắn vì việc đổi đất lấy trời.
Ngài kêu gọi mọi người rộng tay bố thí: - "Sự nghèo khó của anh em bạn là một vốn liếng cho bạn, nếu bạn lo lắng chi người nghèo khó túng thiếu.
Và Ngài giải thích thêm: - Một người phải qua sông sẽ bơi tới bờ bên kia nếu biết rũ bỏ áo quần và dùng mọi năng lực để chống lại dòng nước chảy.
Dầu vậy còn phải biết tự chế nữa: - Hy sinh bề ngoài chẳng đáng kể. Hy sinh mà Chúa đòi chính là sự hy sinh trong lòng .
Thán phục, nhiều người muốn bắt chước thánh nhân. Nhà Paulinô trở thành một tu viện. Ngài viết một cách đầy thú vị: - Chúng tôi tiến tới một đời sống tốt đẹp hơn và khi lột bỏ gánh nặng trần gian, chúng tôi thấy như được gieo vào lòng một cái gì thần linh và được mọc cánh như các thiên thần.
Năm 409, Paulinô được đặt làm giám mục Nôla. Cuộc xâm lược của người Goth gieo kinh hoàng cho nước Ý. Họ cướp phá Rôma và bây giờ tàn phá Nola. Thánh Paulinô lấy tiền của Giáo hội để mua chuộc các tù nhân, nâng đỡ những người bất hạnh. Rơi vào hoàn cảnh khốn cùng, Ngài chỉ còn biết cầu nguyện: - Lạy Chúa, xin đừng để con bị dày vò bởi tiền bạc vì chưa biết rõ của cải con hiện ở đâu.
Thánh Gregoriô Cả còn gán cho thánh nhân một hành vi bác ái đầy quả cảm là bán mình để chuộc lại đứa con bị tù đày của một bà góa. Nhưng có lẽ Ngài đã lầm với Đức Paulinô III, giám mục Nôla thời chinh phục của người Vandales.
Cái chết năm 431 của thánh Paulinô được nhân chứng Uraniô kể lại. Từ giường chết, Ngài đã cử hành thánh lễ với hai giám mục đến thăm. 32 bài thơ và 51 lá thư của Ngài vẫn còn tới ngày hôm nay.
(daminhvn.net)



22 Tháng Sáu
Romeo Và Juliet
Một trong các vở tuồng bất hủ trên sân khấu kịch nghệ quốc tế phải kể là vở kịch mang tựa đề "Romeo và Juliet" của nhà văn hào trứ danh người Anh, ông William Shakespeare. Vở kịch này được sáng tác vào năm 1595, nhưng mãi cho đến nay, khi vở kịch được phổ nhạc, được các ca sĩ nổi tiếng trình diễn, khán giả vẫn nối đuôi nhau chờ mua vé để vào theo dõi một câu chuyện tình cảm động giữa hai thanh niên nam nữ yêu nhau thắm thiết, nhưng đường tình duyên bị trắc trở không thể tiến đến hôn nhân, vì chàng và nàng thuộc về hai gia đình có mối thù truyền kiếp với nhau trong bối cảnh xã hội mang nặng đầu óc nuôi oán, báo thù tại Italia thời trung cổ.
Sau khi nàng Juliet đem câu chuyện tình ngang trái tỏ lộ cùng một vị linh mục và cho ngài biết ý định sẽ cùng với Romeo thoát ly gia đình để tìm đến một phương trời xa lạ xây tổ uyên ương, vị linh mục đề nghị nàng dùng phương thế uống một thứ thuốc mê để giả chết. Sau đó ngài sẽ cứu sống nàng và giao cho Romeo đem nàng đi. Kế hoạch này được giữ bí mật đến nỗi chính chàng Romeo cũng không hay biết. Khi thấy người yêu đã vì mình dùng độc dược quyên sinh, chàng Romeo cũng dùng gươm tự sát để đáp lại mối tình tuyệt vọng của người yêu. Khi thuốc mê đã hết hiệu nghiệm, nàng Juliet tỉnh dậy thấy người yêu đang thoi thóp bên vũng máu đào: tình yêu kêu gọi tình yêu, nàng cũng dùng gươm lết liễu phận bạc để cùng chết với chàng.
Hình như những câu chuyện tình thương tâm trong tuồng kịch hay tiểu thuyết nào cũng kết thúc bằng trắc trở, chia ly, chết chóc. Dù bi ai, nhưng các câu chuyện ấy cũng nói lên một phần nào sự thật. Ðó có lẽ là lý do tại sao trong các thiệp hồng báo tin hôn lễ, các đôi trai gái tính chuyện trăm năm thường chọn và cho in câu: "Tình yêu mạnh hơn sự chết".
Trong các cuộc giao tế thường ngày giữa người với người hoặc trong mối quan hệ láng giềng, bạn bè, kể cả cha mẹ, con cái, anh chị em trong gia đình hay giữa tình thân, vợ chồng, chúng ta cần có những dấu chỉ biểu lộ ra bên ngoài để diễn tả tâm tình yêu mến chất chứa bên trong: Từ những dấu chỉ đơn sơ, thi vị "yêu nhau cởi áo cho nhau" đến chỗ hy sinh cả cuộc đời tận tụy, làm lụng vất vả, gánh chịu những nhọc nhằn, chịu đựng tha thứ cho nhau "Một câu nhịn, chín câu lành" đối với những người thân thương trong gia đình.
(Lẽ Sống)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét