Trang

Thứ Bảy, 3 tháng 1, 2015

04-01-2015 : (phần I) CHÚA NHẬT LỄ HIỂN LINH

04/01/2015
Chúa Nhật Lễ Hiển Linh
(Phần I)


Bài Ðọc I: Is 60, 1-6
"Vinh quang Chúa xuất hiện trên ngươi".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Hãy đứng lên, hãy toả sáng ra, hỡi Giêrusalem! Vì sự sáng của ngươi đã tới, vì vinh quang của Chúa đã bừng dậy trên mình ngươi.
Kìa tối tăm đang bao bọc địa cầu, vì u minh phủ kín các dân, nhưng trên mình ngươi Chúa đang đứng dậy, vì vinh quang của Ngài xuất hiện trên mình ngươi. Chư dân sẽ lần bước tìm về sự sáng của ngươi, và các vua hướng về ánh bình minh của ngươi.
Hãy ngước mắt lên chung quanh, và hãy nhìn coi: tất cả những người đó đang tập họp, đang tìm đến với ngươi; các con trai của ngươi tự đàng xa đi tới, và các con gái ngươi đứng dậy từ khắp bên hông.
Bấy giờ ngươi sẽ nhìn coi, và ngươi trở nên rực rỡ, tim ngươi sẽ rạo rực và sẽ phồng lên. Bởi vì những kho tàng bể khơi tuôn đến với ngươi, nguồn phú túc của chư dân sẽ tới tay ngươi. Những con lạc đà tràn ngập vây phủ lấy ngươi, những lạc đà một bướu tự xứ Mađian và Epha; tất cả những ai từ Saba đi tới, đem theo vàng và nhũ hương, và họ sẽ tuyên rao lời ca ngợi Chúa.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 71, 2. 7-8. 10-11a. 12-13
Ðáp: Lạy Chúa, mọi dân tộc trên địa cầu đều thờ lạy Chúa (x. c. 11b).
Xướng: 1) Lạy Chúa, xin ban quyền xét đoán khôn ngoan cho đức vua, và ban sự công chính cho hoàng tử, để người đoán xét dân Chúa cách công minh, và phân xử người nghèo khó cách chính trực. - Ðáp.
2) Sự công chính và nền hoà bình viên mãn sẽ triển nở trong triều đại người, cho đến khi mặt trăng không còn chiếu sáng. Và người sẽ thống trị từ biển nọ đến biển kia, từ sông cái đến tận cùng trái đất. - Ðáp.
3) Vì người sẽ giải thoát kẻ nghèo khó khỏi tay kẻ quyền thế, và sẽ cứu người bất hạnh không ai giúp đỡ. Người sẽ thương xót kẻ yếu đuối và người thiếu thốn, và cứu thoát mạng sống kẻ cùng khổ. - Ðáp.
4) Chúc tụng danh người đến muôn đời, danh người còn tồn tại lâu dài như mặt trời. Vì người, các chi họ đất hứa sẽ được chúc phúc, và các dân nước sẽ ca ngợi người. - Ðáp.

Bài Ðọc II: Ep 3, 2-3a. 5-6
"Bây giờ được tỏ ra rằng các dân ngoại được đồng thừa tự lời hứa".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, (chắc) anh em đã nghe biết rằng: Thiên Chúa đã ban cho tôi việc phân phát ân sủng cho anh em, là theo ơn mạc khải cho tôi biết, tôi đã được thấu hiểu mầu nhiệm mà con cái loài người các thế hệ khác không được biết, nhưng nay đã mạc khải cho các thánh Tông đồ của Người, và cho các vị Tiên tri, nhờ Thánh Thần. Và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được nên đồng thừa tự, đồng một thân thể và đồng thông phần với lời hứa của Người trong Chúa Giêsu Kitô.
Ðó là lời Chúa.

Alleluia: Mt 2, 2
Alleluia, alleluia! - Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Ðông phương, và chúng tôi đã đến để triều bái Người. - Alleluia.

Phúc Âm: Mt 2, 1-12
"Chúng tôi từ phương Ðông đến thờ lạy Ðức Vua".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi Chúa Giêsu sinh hạ tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, trong đời vua Hêrôđê, có mấy nhà đạo sĩ từ Ðông phương tìm đến Giê-rusalem. Các ông nói: "Vua người Do-thái mới sinh ra hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Ðông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người". Nghe nói thế, vua Hêrôđê bối rối, và tất cả Giêrusalem cùng với nhà vua. Vua đã triệu tập tất cả các đại giáo trưởng và luật sĩ trong dân, và hỏi họ cho biết nơi mà Ðức Kitô sinh hạ. Họ tâu nhà vua rằng: "Tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, vì đó là lời do Ðấng Tiên tri đã chép: Cả ngươi nữa, hỡi Bêlem, đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta".
Bấy giờ Hêrôđê ngầm triệu tập mấy nhà đạo sĩ tới, cặn kẽ hỏi han họ về thời giờ ngôi sao đã hiện ra. Rồi vua đã phái họ đi Bêlem và dặn rằng: "Các khanh hãy đi điều tra cẩn thận về Hài Nhi, rồi khi đã gặp thấy, hãy báo tin lại cho Trẫm, để cả Trẫm cũng đến triều bái Người". Nghe nhà vua nói, họ lên đường. Và kìa ngôi sao họ xem thấy ở Ðông phương, lại đi trước họ, mãi cho tới nơi và đậu lại trên chỗ Hài Nhi ở. Lúc nhìn thấy ngôi sao, họ hết sức vui mừng. Và khi tiến vào nhà, họ đã gặp thấy Hài Nhi và Bà Maria Mẹ Người, và họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Người. Rồi, mở kho tàng ra, họ đã dâng tiến Người lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược. Và khi nhận được lời mộng báo đừng trở lại với Hêrôđê, họ đã qua đường khác trở về xứ sở mình.
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Hạnh Phúc Của Dân Chúa

Câu chuyện các nhà đạo sĩ đi thờ lạy Chúa vừa hay vừa dễ hiểu; nhưng không phải vì vậy mà hôm nay Lễ Ba Vua, cho dù chúng ta muốn đồng hóa các đạo sĩ với ba vua. Phúc Âm không nói rõ con số người đi thờ lạy Chúa và nhất là những người ấy không nhất thiết phải là vua. Có lẽ họ là những nhà chiêm tinh. Nhưng vì bài Tin Mừng kể họ dâng 3 thứ lễ vật, nên người ta đã muốn có mỗi người mang một thứ (?). Và khung cảnh câu chuyện một phần đã xảy ra trong đền vua, nên dân chúng dễ coi họ là vua. Hơn nữa Thánh vịnh 72 nói đến các vua Tarsis, Ảrập và Saba đến dâng lễ cho Chúa, lại thêm một cớ cho người ta khẳng định các người đến thờ lạy Chúa trong câu chuyện hôm nay là các vua.
Dù sao, nếu hiểu lễ hôm nay là lễ kính nhớ câu truyện các vua đi thờ lạy Chúa, thì không đúng tí nào. Ngay từ đầu, Phụng vụ đã gọi tên ngày lễ hôm nay là Hiển Linh, tức là Chúa vinh hiển hiện ra, tỏ mình cho chúng ta, mà việc soi sáng cho lương dân đến thờ lạy chỉ là một diện, mặc dầu là diện quan trọng hơn cả. Như vậy Chúa đã hiển linh khi giáng sinh, để cho người ta thấy Người nơi máng cỏ; Người đã hiển linh cho các mục đồng và Người cũng đã hiển linh trong ngày chịu cắt bì và nhận Tên là Yêsu. Nhưng hôm nay Phụng vụ nhấn mạnh đến việc Người tỏ mình ra cho lương dân. Mà vì Giáo hội gồm hầu hết các dân tộc trước kia là lương dân, nên Giáo hội mừng lễ này thật lớn, vì thấy Chúa thương yêu mình quá đỗi.

A. Hạnh Phúc Của Dân Chúa
Hai bài đọc Kinh Thánh đầu tiên nói lên hạnh phúc của Dân Chúa. Isaia say sưa nhìn ngắm vinh quang của Yêrusalem. Ðang khi các dân tộc chìm đắm trong u tối, một mình Yêrusalem nổi lên rực sáng. Không phải tự sức mình nhưng đó là ánh sáng của Chúa chiếu soi, vinh quang của Người tỏa xuống. Các dân tộc liền châu về Yêrusalem: nào thuyền bè từ đại dương, nào lạc đà từ sa mạc, chở muôn dân đến thờ lạy Chúa.
Isaia có bao giờ nhìn thấy một cảnh tượng tưng bừng như thế không? Lịch sử Israel được mấy lúc như thời Salomon, là vua mà bà Saba nghe tiếng đã tìm tới? Chắc chắn Isaia đã tiên báo về thời cứu thế. Những lời tiên tri của ông sẽ chỉ thực hiện hoàn toàn khi, như lời Chúa nói: người phương Ðông phương Tây sẽ tuôn vào Nhà Chúa, trong khi con cái trong nhà sẽ bị đuổi ra ngoài. Chỉ trong ngày Chúa quang lâm mới thực hiện hoàn toàn những lời tiên tri trên.
Nhưng hiện nay đã khởi sự thực hiện rồi! Ngôi sao đã đứng lại trên nhà Hài Nhi ở; Yêrusalem bừng sáng chính là con người Ðức Kitô mà các đạo sĩ đến thờ lạy; và việc muôn dân ngày nay gia nhập Giáo hội để thờ lạy Chúa làm chứng Hội Thánh là Yêrusalem mới; mỗi giáo đoàn, mỗi nhà thờ, mỗi người tín hữu - đền thờ của Chúa - là một Yêrusalem được rực sáng nhờ mang trong mình sự thánh thiện của Chúa. Ðó là ân sủng đã được ban phát cho ta, như lời thư Phaolô nói; và là mạc khải đặc biệt của Tân Ước.
Như vậy, khi nói đến hạnh phúc của Dân Chúa, phải nghĩ đến vinh dự của người dân tín hữu của hết thảy chúng ta, để mỗi người cảm mến hồng ân của Chúa đã đoái thương chọn mình làm nơi cho Người hiển linh. Từ ngày chịu phép Rửa tội, mọi tín hữu đã được trao cây nến cháy để trở thành ánh sáng của Chúa giữa thế gian, để nên Yêrusalem rực sáng trước mắt tiên tri Isaia. Hôm nay chúng ta hãy nhận ra vinh quang của mình, tức vinh quang của Chúa sáng trên ta, để chúng ta sáng lên trước mắt mọi người.
Nhưng đặc biệt chúng ta phải nghĩ đến Hội Thánh, đến các giáo hội và giáo đoàn. Chúng ta phải cầu xin, phải xây dựng để mọi cộng đoàn Kitô giáo làm tròn sứ mệnh của mình; trở nên các Yêrusalem rực sáng cho mọi người mang lễ vật đến thờ lạy Chúa, kết hợp mọi dân vào gia nghiệp Lời Hứa. Và cho được như vậy, cho được có những Giáo hội bừng sáng, phải có những đạo sĩ đi thờ lạy, phải có chúng ta nối tiếp truyền thống các đạo sĩ. Và vì thế phải suy nghĩ câu truyện Tin Mừng hôm nay.

B. Các Ðạo Sĩ Ði Thờ Lạy Chúa
Các bài tường thuật trong Phúc Âm thường vắn tắt, không thỏa mãn mọi thắc mắc vụn vặt của ta. Các đạo sĩ kia từ bên Ðông tới nhưng thuộc nước nào? Hêrôđê đã cặn kẽ hỏi họ về thời gian ngôi sao đã hiện ra khi nào, nhưng thánh Matthêô không ghi lại câu trả lời. Và nhất là làm sao họ đã nhận ra ngôi sao lạ đó, biết ngay là dấu chỉ một vua Dothái mới sinh ra, và vì sao lại phải thờ lạy vua đó? Thánh Matthêô dường như không để ý đến những chi tiết chúng ta vừa nêu lên. Ngài chỉ khẳng định một điều: các đạo sĩ tin chắc chắn Hài Nhi mới sinh là Vua và là Chúa, tức là Chúa Cứu thế mà muôn dân trông đợi. Thế nên họ đã mang theo vàng, nhũ hương và mộc dược làm lễ vật. Ðó là những sản phẩm quý giá của miền Ảrập, dùng trong đền vua. Mà ở phương Ðông, vua cũng là chúa nên đền vua sơn son thiếp vàng thường phảng phất mùi hương. Và mộc dược được dùng trong việc ướp hoặc liệm xác các hoàng đế.
Các đạo sĩ tin như vậy chỉ vì một ánh sao, đang khi các tư tế và luật sĩ Dothái có sách Thánh và thuộc Thánh Kinh lại không nhận ra Chúa vừa giáng sinh. Ðó là điều thánh Matthêô muốn nhấn mạnh trong bài trường thuật này, với một cảm tình chua chát trong lòng. Ngài như muốn phác họa trước câu truyện tử nạn của Chúa ở đây. Hêrôđê đóng vai chính quyền sẽ ra lệnh giết Chúa, nhưng chính hàng tư tế và luật sĩ sẽ cung cấp cho ông tài liệu để thi hành tội ác kia. Trong khi đó, lương dân được Ơn Chúa soi sáng, đã nhận biết Chúa và thờ lạy Người. Các đạo sĩ ở đây tiêu biểu cho họ. Các ông diễn tả khuôn mặt đức tin của những người được Chúa kêu gọi và soi sáng. Thấy ánh sao, các ông đã bỏ hết mọi suy nghĩ cũ kỹ, từ giã mọi sự để lên đường hân hoan và đơn thật đến nỗi dường như không đoán biết ý đồ đen tối của Hêrôđê, cũng như không ngần ngại sấp mình thờ lạy một Hài Nhi mà bề ngoài xem ra chẳng có gì khác thường.
Chúng ta có thể bắt chước niềm tin như vậy không?

C. Nếp Sống Ðức Tin
Không những chúng ta có thể mà còn phải bắt chước niềm tin của các đạo sĩ, vì mục tiêu của ngày lễ hôm nay là vậy. Chúng ta chỉ cần từ bỏ thái độ của hàng tư tế và luật sĩ Dothái là có thể theo chân các đạo sĩ. Thật ra, nếu không cẩn thận, chúng ta luôn sống như các tư tế và luật sĩ Dothái. Như họ, chúng ta có Thánh Kinh ở trong tay; chúng ta thuộc giáo lý của Chúa nữa; ai hỏi chúng ta tư tưởng đạo đức nào, chúng ta có thể trả lời ngay. Nhưng chúng ta chẳng bao giờ thực hành, chẳng muốn sống theo lời Chúa dạy bảo. Chúng ta chỉ muốn quên các đòi hỏi của Tin Mừng để sống theo bản năng, dục vọng; cố gắng hưởng đời theo các phương tiện ích kỷ. Chúng ta mất rồi lòng nhiệt thành của hồi được Chúa soi sáng, như khi rước lễ lần đầu, chịu phép Thêm sức, hoặc Hôn phối, tĩnh tâm và được những ơn đặc biệt. Những hồi ấy, chúng ta đã quên mình, chỉ nhiệt thành mến Chúa và muốn cứu giúp các linh hồn, dấn thân xây dựng Giáo hội và xã hội theo công bình bác ái. Thái độ nhiệt thành của những người mới theo đạo nhắc lại cho ta nhớ tâm tình và nếp sống của mình trong những hồi sốt sắng kia. Và chắc chắn chúng ta phải công nhận con người chúng ta lúc đó thật rực sáng, khác nào Yêrusalem được bừng sáng dưới vinh quang của Chúa.
Xã hội mới đang thúc giục ta từ bỏ con người và nếp sống cũ kỹ. Giáo hội Việt Nam đang muốn vươn lên trong giai đoạn mới. Phụng vụ Thánh Thể luôn luôn đưa chúng ta vào mầu nhiệm Phục sinh, tức là sống lại, sống mới. Mỗi Thánh lễ là một cuộc hiển linh của Chúa. Ở đây, hương nến đang mời chúng ta đến thờ lạy Chúa. Phụng vụ của chúng ta sẽ chân thật, khi bắt chước các đạo sĩ, hôm nay chúng ta ra về "bằng con đường khác", tức là vào đời với thái độ mới, nhiệt thành xóa bỏ cái cũ, xây dựng cái mới để như lời thư Êphêsô: mọi dân, mọi người đồng thừa kế, đồng tham dự, đồng chia sẻ Lời Hứa của Thiên Chúa nhờ Tin Mừng cứu độ của Ðức Yêsu Kitô.

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)


LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Chủ Nhật Lễ Hiển Linh, Năm ABC
 Bài đọc: Isa 60:1-6; Eph 3:2-3, 5-6; Mt 2:1-12.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chúa Kitô là ánh sáng cho muôn dân.

Đứng trước cùng một biến cố xảy ra, con người có những phản ứng khác nhau, tùy thuộc vào sự cần thiết và hy vọng của con người: có người dửng dưng, có người đàn áp, và có người nhiệt thành đón nhận. Biến Cố Nhập Thể của Đức Kitô cũng thế, dù được báo trước và dặn phải chuẩn bị sẵn sàng, nhiều người Do-Thái vẫn không chuẩn bị để đón nhận Chúa Cứu Thế; nhưng các Mục-đồng và Ba Nhà Đạo Sĩ từ phương xa nhiệt thành đi tìm và họ đã tìm thấy Đấng Cứu Thế.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung vào Mầu Nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, Tiên-tri Isaiah cho thấy trước Ngày Thiên Chúa sẽ ban Ơn Cứu Độ của Ngài như vinh quang cho Jerusalem và như ánh sáng cho muôn dân. Trong Bài Đọc II, Thánh Phaolô nhắc nhở cho các tín hữu của ngài về Mầu Nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa. Theo Mầu Nhiệm này, Thiên Chúa chọn Dân Do-Thái như Dân Riêng để chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế ra đời; nhưng khi Ngài đến, Ngài sẽ ban Ơn Cứu Độ cho tất cả mọi người qua niềm tin của họ vào Đức Kitô. Trong Phúc-Âm, Thánh Matthew tường thuật 3 phản ứng chính của con người khi phải đối diện với Tin Mừng của Đấng Cứu Thế: thờ ơ lạnh nhạt, lập kế tiêu diệt, và nhiệt thành đi tìm.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Chúa Kitô là vinh quang của Israel và là ánh sáng cho muôn dân.

1.1/ Sự sáng của Thiên Chúa đã chiếu tỏa trên Jerusalem: “Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi.”
Chương 60 của Sách Tiên Tri Isaiah được viết sau thời gian Lưu Đày Babylon; lúc đó Jerusalem còn là một thành trì hoang phế bởi chiến tranh. Vì thế, đọan văn này không có ý nói về Thành Jerusalem cách thể lý, nhưng nói về một Jerusalem tinh thần, tượng trưng cho dân tộc Israel. Người làm cho Jerusalem được đứng dạy, được bừng sáng, là Thiên Chúa; chứ không phải dân tộc Israel. Ánh sáng và vinh quang của Đức Chúa đây chính là Ơn Cứu Độ, mà Ngài đã hứa ban cho Jerusalem qua các Tiên-tri. Ơn Cứu Độ nói tới ở đây không chỉ là việc giải thóat và cho dân Israel được trở về Jerusalem từ chốn Lưu Đày Babylon; nhưng còn bao gồm cả việc gỉai phóng Israel khỏi nô lệ của tội lỗi qua Đấng Thiên Sai.
Tác giả nêu bật sự tương phản giữa ánh sáng của Jerusalem và bóng tối của chư dân qua câu: “Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi Đức Chúa như bình minh chiếu toả, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi.” Trước khi Đấng Cứu Thế xuất hiện, người Do-Thái quan niệm: chỉ có họ mới là Dân Riêng của Thiên Chúa và xứng đáng được hưởng Ơn Cứu Độ; còn tất cả các dân tộc khác (Dân Ngọai) là những người ngồi trong bóng tối tăm sự chết, và không được hưởng Ơn Cứu Độ. Bóng tối và mây mù tác giả muốn nói tới ở đây là việc không biết Thiên Chúa, không biết Ơn Cứu Độ, và không sống theo đường lối của Thiên Chúa.

1.2/ Chư dân từ khắp nơi sẽ tuôn đến Jerusalem: Nhưng một khi Đấng Cứu Thế tới, mọi sự đều đổi khác: Ơn Cứu Độ không còn giới hạn trong dân tộc Israel, nhưng mở rộng tới mọi dân tộc (còn được gọi chung là Dân Ngọai), như viễn tượng mà Tiên-tri Isaiah đã nhìn thấy hôm nay: “Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước. Đưa mắt nhìn tứ phía mà xem, tất cả đều tập hợp, kéo đến với ngươi: con trai ngươi từ phương xa tới, con gái ngươi được ẵm bên hông.” Như đã nói ở trên, ánh sáng của Jerusalem chính là Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa. Ánh sáng này soi tỏa cho các dân tộc trên địa cầu, và mọi người sẽ tuôn đến Jerusalem tinh thần để được hưởng Ơn Cứu Độ này. Tiên-tri Isaiah liệt kê các thành phần tiến đến Jerusalem bao gồm: (1) Các vua chúa của các quốc gia; và (2) các con trai và các con gái. Các người con này không có liên hệ với Jerusalem bằng máu mủ, nhưng bằng niềm tin vào Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa.
Khi những điều này xảy ra, Jerusalem sẽ tràn đầy niềm vui như Tiên-tri loan báo: “Trước cảnh đó, mặt mày ngươi rạng rỡ, lòng ngươi rạo rực, vui như mở cờ, vì nguồn giàu sang sẽ đổ về từ biển cả, của cải muôn dân nước sẽ tràn đến với ngươi. Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Median và Ephah: tất cả những người từ Sheba kéo đến, đều mang theo vàng với trầm hương, và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa.” Trong thế giới thời đó, giàu sang được đo lường bằng những đòan vật, và lạc đà được coi là thú vật có giá trị nhất trong việc di chuyển đồ đạc qua sa mạc cho các quốc gia vùng Trung Đông. Theo Sáng Thế Ký 25:4, Ephah là con trai của Midian, và là cháu của Jokshan, cha của Sheba. Sheba ngày nay là Nước Yemen. Vàng và nhũ hương là 2 món hàng đắt nhất thời bấy giờ. Điều này chúng ta sẽ đề cập tới trong Phúc Âm, khi Ba Vua dâng những quà này cho Chúa Hài Đồng.

2/ Bài đọc II: Các Dân Ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-Thái.

2.1/ Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa qua Đức Kitô: “Hẳn anh em đã được nghe biết về kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em. Người đã mặc khải để tôi được biết mầu nhiệm Đức Kitô như tôi vừa trình bày vắn tắt trên đây.” Thánh Phaolô viết Thư này cho các tín hữu Philiphê, khi ngài đang bị cầm tù tại Rome. Ngài nhắc lại cho họ biết về “kế họach ân sủng” mà Thiên Chúa đã ủy thác cho ngài. Kế họach này bao gồm hai việc: biến cố trở lại trên đường Damascus và sứ vụ rao truyền Tin Mừng cho Dân Ngọai được ủy thác cho ngài. Giữa 2 biến cố này là khỏang thời gian Thánh Phaolô đi vào tĩnh tâm trong sa mạc Arabia, để được Thiên Chúa mặc khải về mầu nhiệm Đức Kitô cho thánh nhân. Sở dĩ có sự kiện này là vì Thánh Phaolô đã không được giao tiếp với Đức Kitô như các Tông-đồ khác khi Chúa Giêsu còn sống trên dương gian.

2.2/ Dân Ngọai cũng được thừa hưởng Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa: “Mầu nhiệm này, Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết, nhưng nay Người đã dùng Thánh Thần mà mặc khải cho các thánh Tông-đồ và Tiên-tri của Người. Mầu nhiệm đó là: trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các Dân Ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-Thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa.” Qua những hàng vắn tắt này, Thánh Phaolô tường thuật cho chúng ta biết 2 giai đọan chính của Mầu Nhiệm Cứu Độ: (1) Thiên Chúa chọn Dân Do-Thái là Dân Riêng của Thiên Chúa để được huấn luyện và chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế đến; và (2) Khi Đấng Cứu Thế đến, Ơn Cứu Độ được lan rộng tới mọi người qua việc rao truyền Tin Mừng và niềm tin của mọi người vào Đức Kitô. Qua việc tuyên xưng đức tin và chịu Phép Rửa, tất cả cùng được tháp nhập vào thân thể của Đức Kitô.

3/ Phúc Âm: Con người phản ứng trước ánh sáng của Thiên Chúa.

3.1/ Con người buộc phải có thái độ trước Tin Mừng về Đức Kitô: Thiên Chúa có thể dùng ngôi sao dẫn đường cho Ba Nhà Đạo Sĩ một mạch tới Bethlehem, mà không cần phải đi qua Jerusalem; nhưng để cho mọi người cư ngụ tại Jerusalem có cơ hội đồng đều để lắng nghe Tin Mừng, Ngài làm mất dấu ngôi sao để Ba Nhà Đạo Sĩ phải vào Jerusalem để loan tin. Thánh Matthew tường thuật: “Khi Đức Giêsu ra đời tại Bethlehem, miền Judah, thời vua Herode trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Jerusalem, và hỏi: "Đức Vua dân Do-Thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người." Nghe tin ấy, vua Herode bối rối, và cả thành Jerusalem cũng xôn xao. Nhà vua liền triệu tập tất cả các Thượng-tế và Kinh-sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời: "Tại Bethlehem, miền Judah, vì trong sách Tiên-tri, có chép rằng: "Phần ngươi, hỡi Bethlehem, miền đất Judah, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Judah, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời."

3.2/ Ba phản ứng của con người trước ánh sáng: Đứng trước Tin Mừng được loan báo bởi Ba Nhà Đạo Sĩ, chúng ta tổng hợp được 3 thái độ chính của con người:
(1) Thái độ thờ ơ của Dân Thành Jerusalem cách chung và của các Thượng-tế và các Kinh-sư nói riêng: Thánh Matthew ám chỉ Dân Thành biết biến cố Chúa Cứu Thế ra đời trong câu: “Nghe tin ấy, vua Herode bối rối, và cả thành Jerusalem cũng xôn xao.” Họ xôn xao để tìm ra nơi chốn sinh ra của Đấng Cứu Thế, rồi âm thầm lên giường đắp chăn ngủ tiếp! Họ có thể sợ vì trời tối, đường xa, và lạnh lẽo; nhưng đơn giản là vì họ đã có mọi thứ và không cần tới Đấng Cứu Thế. Các Thượng-tế và các Kinh-sư mang tội nặng hơn, vì họ là những người thông hiểu Kinh-Thánh và sự cần thiết của việc Đấng Cứu Thế đến; nhưng họ dùng Kinh-Thánh để tìm ra và chỉ đường cho người khác đến gặp Ngài; phần họ, gấp sách lại và từ chối không lên đường đi tìm Ngài.
(2) Thái độ muốn tiêu diệt ánh sáng của Vua Herode: Bấy giờ Vua Herode bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. Rồi vua phái các vị ấy đi Bethlehem và dặn rằng: "Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người." Đã không tiếp nhận ánh sáng, Vua Herode còn toan tính tiêu diệt ánh sáng. Trong cuộc đời, chúng ta cũng gặp nhiều thái độ như Vua Herode. Họ muốn tiêu diệt ánh sáng vì sợ ánh sáng sẽ phơi bày những ích kỷ, toan tính, và những xấu xa trong tâm hồn của họ.
(3) Thái độ nhiệt thành đi tìm ánh sáng của Ba Nhà Đạo Sĩ: Trớ trêu thay cho dân tộc Do-Thái, họ trông chờ từng ngày từng giờ và chuẩn bị cho việc đón Đấng Cứu Thế ra đời; nhưng khi Người xuất hiện, lại chỉ có Ba Nhà Đạo Sĩ là những người Dân Ngọai, từ phương trời xa xôi đi tìm Người theo dấu một vì sao. Họ không sợ đường xa, trời tối, nguy hiểm, gió lạnh mùa Đông, và nhất là theo dấu một vì sao mong manh. Họ không nản lòng khi mất dấu ngôi sao, họ vào Thành Jerusalem với hy vọng sẽ tìm được Ngài trong lịch sử. Và khi được hướng dẫn của Kinh Thánh (Micah 5:1), họ lại tiếp tục lên đường. Họ mừng vui khi thấy ngôi sao tái xuất hiện, và họ đã thấy Hài Nhi. Mở túi hành trang ra, họ dâng 3 lễ vật quí giá nhất cho Hài Nhi: vàng chỉ sự thần phục Hài Nhi là Vua; nhũ hương chỉ sự thần phục Hài Nhi là Chúa; mộc dược tiên báo trước Cuộc Thương Khó và cái chết của Hài Nhi. Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Herode nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

- Thiên Chúa đã tỏ tình thương qua việc ban Người Con Một của Ngài cho chúng ta, phản ứng của chúng ta làm sao khi lãnh nhận Tin Mừng này?
- Chúng ta có hăng hái nhiệt thành lên đường đi tìm Ngài, hay ngại ngùng phải rời bỏ ốc đảo bình an của chúng ta vì sợ nguy hiểm, tốn thời gian, và lười biếng?
- Rất nhiều lần chúng ta đã quay lưng lại với sự thật và ánh sáng, không phải vì chúng ta không biết đó là sự thật hay ánh sáng; nhưng chúng ta sợ: nếu chấp nhận sự thật, chúng ta phải sống điều sự thật đòi hỏi; nếu phải đến gần ánh sáng, chúng ta phải bỏ những tội lỗi mà chúng ta đã quá quen thuộc! 

LM. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.

04/01/15 CHÚA NHẬT LỄ HIỂN LINH
Mt 2,1-12


Suy niệm: Sách Sáng Thế mạc khải rằng Ánh Sáng đã được tạo dựng đầu tiên, vào ngay ngày thứ nhất (St 1,3-5). Rồi đến ngày thứ Tư, Thiên Chúa mới tạo dựng các tinh tú, mặt trời, mặt trăng, để điều khiển ban ngày và ban đêm (St 1,14-19). Như thế ánh sáng tượng trưng tất cả những gì hiện hữu làm tiêu tan bóng tối hư vô; mặt trời, mặt trăng và muôn tinh tú chỉ là những vầng sáng phản chiếu ánh sáng của hiện hữu, làm ngời sáng vẻ đẹp của tạo vật mà chỉ có trí năng mới nhận biết được. Tân Ước cho biết ánh sao lạ dẫn đường cho các đạo sĩ đến với ánh sáng đích thực là Đức Ki-tô, Vua vũ trụ: “Ngôi sao họ đã thấy ở Phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại”.
Mời Bạn: Các đạo sĩ nhờ ánh sáng trí năng soi dẫn đã bước vào nhà và thấy Hài Nhi và Mẹ Ngài, họ liền sấp mình thờ lạy Ngài. Chúa Giê-su và Mẹ Ma-ri-a là khởi điểm của một công trình sáng tạo mới để hoàn thành một trời mới đất mới mà Thiên Chúa đã hứa. Mời bạn hãy đến, bước vào trong nhà Ngài, thờ lạy Ngài.
Chia sẻ: Những ánh sáng nào đã đưa bạn đến với Chúa Giê-su?
Sống Lời Chúa: Học Kinh Thánh để ánh sáng này đưa mình đến với Chúa Giê-su Ki-tô.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su Hài Đồng là ánh sáng chiếu tỏa giữa trần gian, xin hãy đến trong linh hồn con và cho con tham dự vào vương quốc ánh sáng và sự sống của Ngài. Amen.


Quan đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, có một chi tiết làm cho tôi suy nghĩ đó là ngôi sao bỗng biến mất khi các nhà đạo sĩ tới Giêrusalem, và rồi lại hiện ra, khi họ rời bỏ thành thánh để đi Bêlem. Tại sao lại như thế?
Như chúng ta đã biết Giêrusalem được coi là thành thánh, bởi vì ở đó có di tích, nơi mà xưa kia tổ phụ Abraham đã đem con mình là Isaác để sát tế cho Thiên Chúa. Chính nơi đây, vua Salomon đã xây dựng một đền thờ nguy nga bằng gỗ quý từ Libăng đem về. Vào thời Đức Kitô, ngôi đền thờ ấy đã được xây dựng lại. Một công trình vĩ đại, phải mất 46 năm trời người ta mới hoàn tất. Vì là thành thánh và là nơi có đền thờ, nên không lạ gì khi các nhà đạo sĩ, đi tìm vua dân Do Thái mới sinh, lại không dừng chân, tưởng đó là chặng đường chót. Nhưng oái oăm thay, ngôi sao lạ đã biến mất, còn trong thành cũng chẳng thấy ai bàn tán xôn xao về tin tức một vị tân vương mới ra đời. Ba nhà đạo sĩ chỉ là những người khách lạ, nhưng đã đem đến một tin làm chấn động cả dân thành, khiến từ vua chúa quan quyền cho đến bậc thứ dân đều sửng sốt hoang mang.
Nhà vua liền triệu tập các học giả vốn được coi là những người đoán biết được mệnh trời. Các vị ấy liền tìm ra ngay nơi Chúa sinh ra, đó là Bêlem. Nhưng đáng ngạc nhiên thay, nhà vua cùng các bậc học giả uyên thâm đó, chẳng một ai nghĩ là chính mình cần phải đi tìm vị tân vương. Họ chỉ hướng cho ba nhà đạo sĩ đi Bêlem, nhưng rốt cuộc chính ngôi sao lạ đã hướng dẫn ba vị khách phương xa tìm ra Đức Kitô. Vậy tại sao ngôi sao lại biến mất trên nền trời thủ đô Giêrusalem?
Ở mọi nơi và trong mọi lúc, chúng ta đều nhận thấy: Tôn giáo nào cũng có những nơi được dành riêng cho việc thờ phượng, nào là nhà thờ, nào là chùa chiền, nào là thánh thất. Điều đó thật tốt,  nhưng đối với chúng ta ngày hôm nay thì không đủ, bởi vì Thiên Chúa đã làm người và ở giữa chúng ta.
Tin Mừng đã khởi đầu từ trong căn  nhà nhỏ bé ở Nadarét với biến cố truyền tin, rồi được công bố cho những kẻ chăn chiên trên cánh đồng Bêlem. Tin Mừng ấy đã được diễn tả cụ thể trong cuộc sống và hành động của Đức Kitô tại Nadarét và trên khắp các nẻo đường Palestine. Tin Mừng ấy đã được hoàn thành trong cái chết của Ngài ở ngoài đền thờ, ngoài thành thánh, và trong sự phục sinh của Ngài, để rồi từ đó được loan truyền đi khắp thế gian. Điều đó muốn nói lên rằng thờ phượng Thiên Chúa nơi thánh đường mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải nhập cuộc, còn phải hoà mình đối với mọi người, nhất là những kẻ đau yếu, bệnh tật khổ đau.
Ngày nay ngôi sao Giáng sinh hình như cũng đang biến dần và những người tìm Chúa lại phải ra khỏi thành thánh, hướng về những Bêlem mới, đó là những kẻ bất hạnh đang bị bóc lột, và khinh bỉ như các người chăn chiên thuở trước. Thế nhưng liệu chúng ta có dám tìm Chúa theo sự hướng dẫn của ngôi sao lạ như thế, hay là chúng ta lại ngại ngùng không dám bước theo, để rồi cuối cùng trong tay chỉ còn là một cánh sao bằng giấy.

Ngôi sao dẫn đường (04.01.2015 – Lễ Chúa Hiển Linh năm B)
Suy Niệm

Ðoạn Tin Mừng trên nói về các nhà chiêm tinh dân ngoại
theo ánh sao mà tìm đến bái yết Hài Nhi
Một loạt câu hỏi thường được đặt ra hôm nay.
Làm sao một ngôi sao có thể dẫn đường cho họ đi?
Nếu đó là một ngôi sao sáng lạ lùng
thì tại sao thành Giêrusalem lại không nhận biết?
Bởi đâu ngôi sao lại không đi thẳng tới Bêlem?
Có tin được chuyện ngôi sao ngừng lại trước cửa nhà không?
Các câu hỏi trên đều xoay quanh ngôi sao lạ.
Một ngôi sao như thế có thật không
hay đây chỉ là một truyền thuyết?
Thánh Mátthêu đã viết đoạn Tin Mừng này
theo một thể văn đặc biệt của người Do Thái.
Chúng ta không nên hiểu mọi chi tiết theo nghĩa đen.
Ðiều quan trọng không phải là có một ngôi sao lạ,
một ngôi sao thông minh biết dẫn lối chỉ đường.
Ðiều quan trọng là điều Mátthêu muốn nói với ta:
Ðức Giêsu không phải chỉ là Mêsia cho dân Do Thái,
Ngài còn là Ðấng Cứu Ðộ cho cả nhân loại.
Các nhà chiêm tinh là dân ngoại.
Họ đại diện cho mọi dân tộc, cho chính chúng ta.
Họ khao khát tìm ơn cứu độ.
Qua những dấu chỉ kỳ diệu hay đơn sơ trong vũ trụ,
họ nghe thấy lời mời gọi lên đường.
Chấp nhận lên đường là chấp nhận bỏ lại tất cả
và bước đi trong đêm tối.
Các nhà chiêm tinh không dựa vào điều gì khác
ngoài ánh sao khi tỏ khi mờ.
Cần có đức tin cứng cáp
mới dám dựa vào một dấu chỉ mong manh như thế.
Cũng cần có đức tin mạnh mẽ
mới dám tin rằng vị vua mới sinh
đang khiêm tốn sống trong một ngôi nhà ở Bêlem,
chứ không uy nghi ngự giữa hoàng cung lộng lẫy.
Cần có một đức tin khiêm tốn biết chừng nào
mới có thái độ sấp mình bái lạy trước Hài Nhi,
và tiến dâng lễ vật quý giá.
Thiên Chúa vẫn không ngừng lôi kéo cả nhân loại
đến với Con Một của Ngài là Ðức Giêsu Kitô.
Ngài vẫn không ngừng cho những ánh sao dẫn đường.
Không phải là ánh sao trên trời cao,
mà là ánh sáng Ngài gieo vào lòng người.
Mỗi người chúng ta phải trung thành với ánh sáng đó,
và bước vào cuộc hành trình đức tin đầy mạo hiểm,
như các nhà chiêm tinh ngày xưa.
Ðôi khi chúng ta có nét giống Hêrôđê,
sợ hãi bối rối trước sự xuất hiện của Ðấng Cứu Ðộ.
Hãy để Chúa làm lung lay ngai vàng của bạn,
đưa bạn vào sự bấp bênh, mong manh,
để rồi cuối cùng bạn gặp được sự vững vàng trong Chúa.
 Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
tạ ơn Chúa đã cho chúng con
ánh sáng mặt trời, mặt trăng,
và ánh sáng từ những nguồn năng lượng trên mặt đất.
Tạ ơn Chúa
vì Chúa đã gọi chúng con là ánh sáng.
Ðó là vinh dự
và cũng là một trách nhiệm nặng nề.
Xin cho chúng con có khả năng đẩy lui bóng tối
của hận thù và bất công,
của buồn phiền và thất vọng.
Xin cho chúng con biết giữ gìn ngọn lửa
mà Chúa đã thắp lên trong lòng chúng con,
và biết vâng theo những soi sáng của Chúa
qua từng phút giây của cuộc sống.
Lạy Chúa Giêsu,
cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối
vẫn còn tiếp diễn
trên thế giới và trong lòng chúng con.
Ước gì chúng con
đừng chỉ lo nguyền rủa bóng tối,
nhưng can đảm thắp lên những ngọn lửa,
để cả trái đất ngập tràn ánh sáng Chúa.
 Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng Giêng
4 THÁNG GIÊNG
Ánh Sao Của Đức Tin
Các nhà thông thái từ phương Đông xa xôi ấy đã nhận ra thông điệp của ánh sao bằng con mắt đức tin của họ. Đức tin đã thúc giục họ lên đường vào cuộc hành trình vạn dặm. Họ nhắm hướng Giê-ru-sa-lem, kinh thành của Israel, nơi mà sự thật về cuộc xuất hiện của Đấng Mêsia đã được cho biết trước từ thế hệ này qua thế hệ khác. Các ngôn sứ đã tiên báo việc Ngài xuất hiện, các tác giả Sách Thánh đã viết về Đấng Mêsia. Thiên Chúa – Đấng tự biểu lộ về mình trong cõi lòng thầm kín của các nhà thông thái – cũng đã ngỏ lời với dân riêng Ngài trong suốt hàng bao thế kỷ.
Cuộc xuất hiện được đợi chờ đằng đẵng ấy đã hoàn toàn trở thành hiện thực trong đêm Chúa giáng sinh ở Bê-lem. Đêm ấy vốn đã là một cuộc hiển linh của Chúa rồi; Chúa được sinh ra bởi một trinh nữ và được đặt nằm trong máng cỏ.
Vị Thiên Chúa ấy đã muốn xuất hiện một cách thật âm thầm bằng cuộc sinh hạ hết sức đơn sơ, nghèo nàn và lặng lẽ tại Bê-lem. Phải chăng ở đây Ngài đang linh hiển sự khiêm nhường thần nhiệm của Ngài! Chỉ một vài người chăn súc vật đến thờ lạy Chúa Hài Nhi.
Rồi tới lượt các nhà thông thái đến. Thiên Chúa, trong khi ẩn tránh những người ở rất gần xung quanh Ngài, đã muốn mạc khải chính Ngài cho những con người này – là những kẻ đến từ xa. Chính ánh sao của đức tin, ánh sao mạc khải vị Cứu Chúa, đã soi dẫn nẻo bước cho những con người này. Và như thế, lời tiên báo của Isaia đã trở thành hiện thực: “Các quốc gia sẽ bước đi dưới ánh sáng của ngươi – và các vua chúa sẽ được ánh quang ngươi soi dẫn. Hãy hướng mắt nhìn xem, tất cả đều qui tụ để tiến đến với ngươi” (Is 60, 3 – 4).
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
do nhà Servant Pubns xuất bản, 1994.

Lời Chúa Trong Gia Đình
Chúa Nhật Hiển Linh
 Is 60,1-6; Ep 3, 2-3a.5-6; Tin Mừng theo Thánh Mt: 2, 1-12.

LỜI SUY NIỆM:
            “Đức Vua dân Do-Thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên Phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người.” (Mt 2,2).
            Dân Do-Thái đang trông ngóng Đấng Mêsia đến để Giải Thoát dân tộc khỏi cảnh nô lệ, và dẫn đưa họ trở thành bá chủ thế giới. Nhưng khi Ngài đến, họ đã không nhận ra, vì Ngài đến với thân phận rốt hèn của con người, Ngài được sinh ra trong hang đá tại Bêlem, được đặt nằm trong máng cỏ lừa ăn. Nhưng trên trời cao xuất hiện một ngôi sao, mà các nhà chiêm tinh, họ đã dày công nghiên cứu và họ đã nhận ra Ngôi Sao của Ngài, vị cứu tinh của nhân loại. Họ lên đường theo dấu ngôi sao đó, để tìm kiếm. Mục đích tìm khiếm của ba nhà đạo sĩ, là để thờ lạy Ngài. Ngày hôm nay, chúng ta đã trở thành người Ki-tô hữu, chúng ta có còn ra công tìm kiếm Ngài nữa không? Hay là chúng ta đã thỏa mãn rồi, cho như vậy là đã đủ cho phần rỗi của mình. Hôm nay, Giáo Hội đang mời gọi mỗi người chúng ta phải siêng năng đọc Lời Chúa. Nhờ càng đọc Lời Chúa càng giúp ta khám phá rõ hơn đời sống Ki-tô hữu là gì, và đâu là những thay đổi cần thiết trong đời sống của chúng ta. Để chúng ta càng yêu mến Ngài hơn, và sống thân thiện với mọi người.
Mạnh Phương

04 Tháng Giêng
"Trăm năm bia đá thì mòn,
Ngàn năm bia miệng hãy còn trơ trơ"

    Nhà độc tài nào sau khi ra đi cũng trở thành bia cho không biết bao nhiêu những lời đàm tiếu của thiên hạ. Năm 1986, người ta nói đến trên 3,000 đôi giày đã trở thành bảo tàng viện của bà Imelda Marcos, phu nhân của cựu tổng thống Phi Luật Tân, ông Ferdinand Marcos. Sau đó, người ta lại bàn tán về những đôi giày của bà Elena, vợ của nhà độc tài Ceaucescu bị hành quyết tại Rumani.
Khi vợ chồng của cựu tổng thống Marcos bị bắt buộc phải bỏ nước Phi, dân chúng đã tuôn đến dinh tổng thống như một ngày hội: họ đến đó chỉ để xót xa so sánh cái cảnh giàu sang quá mức của gia đình nhà độc tài với cái đói khổ mạt rệp của dân chúng. Người dân Phi nói rằng, trong 9 năm liền, bà Imelda Marcos chỉ có thể mang một đôi giày không quá 3 lần là cùng. Sau khi hành quyết vợ chồng Ceaucescu, người ta mới khám phá ra rằng căn nhà mà họ cho là bình thường của họ chính là một biệt thự sang trọng với 40 phòng khác nhau được trang trí bằng những bức tranh đắt giá, phòng tắm được khảm bằng vàng. Mỗi phòng đều có truyền hình và máy video.
Tài sản của ông Ceaucescu cũng không thua kém gì những của cải biển lận của ông Noriega, cựu tổng thống bị truất phế của Panama. Ông tướng này không chỉ có những căn nhà lộng lẫy trong nước, mà còn không biết bao nhiêu biệt thự tại Pháp và các nước khác. Máy bay và những chuyến du thuyền của ông không còn là những phương tiện để di chuyển, mà là cả một thú sưu tầm.
Không có một nhà độc tài nào mà không tham lam tiền của. Người ta nói đến hàng tỷ Ðôla của ông Marcos. Nhà độc tài của một nước nghèo nàn như Haiti cũng có đến 400 triệu Mỹ kim. Somoza, người bị lật đổ tại Nicaragua, thì có đến hàng trăm triệu Ðô la đầu tư vào những kinh doanh đồi trụy như đĩ điếm, cờ bạc. Cựu hoàng đế Pokassa của một nước nghèo nàn lạc hậu như Cộng Hòa Trung Phi bên Phi Châu, đã làm lễ đăng quang năm 1976 với một phí tổn là 20 triệu Mỹ kim. Và hiện nay, người ta ước tính tài sản của tổng thống Zaire là ông Mobutu Sese Seko lên đến gần 5 tỷ Mỹ kim.
Giá của những tài sản bất chính ấy thường giống nhau: một cuộc lưu vong nhục nhã, một cuộc chốn chạy không kèn không trống, một cuộc hành quyết dã man hay một cuộc sống trong lo sợ từng ngày và làm mục tiêu cho những oán ghét.
Mỗi dịp đầu năm, dường như ai cũng muốn làm một quyết tâm. 50% người Hoa Kỳ quyết tâm giảm thiểu sự ăn uống để gìn giữ sức khỏe.
 Ðối với người Kitô chúng ta, sức khỏe tinh thần, sự cường tráng tâm linh có lẽ là điều quan trọng hơn cả. Quyết tâm của chúng ta phải là quyết tâm điều chỉnh lại sự lựa chọn cơ bản của chúng ta. Ðâu là cùng đích của cuộc sống chúng ta? Ðâu là lý tưởng của chúng ta? Ðâu là giá trị cao cả nhất trong cuộc sống của chúng ta? Tiền bạc và nhất là tiền bạc bất chính có đem lại hạnh phúc cho đời Người không?
(Lẽ Sống)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét