Trang

Thứ Bảy, 3 tháng 1, 2015

04-01-2015 : (phần II) CHÚA NHẬT LỄ HIỂN LINH

04/01/2015
Chúa Nhật Lễ Hiển Linh
(Phần II)


Học hỏi về Phúc Âm Chúa Nhật Lễ Hiển Linh Năm B
PHÚC ÂM CHÚA NHẬT LỄ HIỂN LINH NĂM B       
Mt 2, 1-12
Các nhà chiêm tinh đến bái lạy Ðức Giêsu Hài Nhi
(1) Khi Ðức Giêsu ra đời tại Bêlem, miền Giuđê, thời vua Hêrôđê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Ðông đến Giêrusalem, (2) và hỏi: "Ðức Vua dân Do Thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Ðông, nên chúng tôi đến bái lạy Người." (3) Nghe tin ấy, vua Hêrôđê bối rối, và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao. (4) Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế, các kinh sư trong dân lại, và hỏi cho biết Ðấng Kitô phải sinh ra ở đâu. (5) Họ trả lời: "Tại Bêlem, miền Giuđê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng:
(6) Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giuđa,
ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa,
vì ngươi là nơi
vị lãnh tụ chăn dắt Israen dân Ta
sẽ ra đời".
(7) Bấy giờ vua Hêrôđê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. (8) Rồi vua phái các vị ấy đi Bêlem và dặn rằng: "Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người." (9) Nghe nhà vua nói thế, họ ra đi. Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Ðông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại.(10) Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. (11) Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình bái lạy Người, rồi mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến. (12) Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.
HỌC HỎI
1. Bài Phúc âm này có thể chia làm mấy phần? Các phần này diễn ra ở đâu?
2. Bạn biết gì về con người của vua Hêrôđê? Vua này sợ điều gì nhất? Xin xem phần Dẫn vào Tân Ước của Nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ.
3. Bạn biết gì về các nhà chiêm tinh (xưa thường gọi là Ba Vua)? Họ đại diện cho ai? Sự xuất hiện của một ngôi sao mới có ý nghĩa gì đối với họ?
4. Mục đích của các nhà chiêm tinh khi lên đường là gì? Có mấy động từ bái lạy trong đoạn Phúc Âm này ? Đọc Mt 14,33; 28,9. 17. Đâu là ý nghĩa của cử chỉ bái lạy?
5. Đọc sách ngôn sứ Mi-kha 5,2 và 2 Samuen 5,2. Cho thấy Mt 2,6 là sự kết hợp của hai đoạn sách Cựu Ước nói trên.
6. “Nghe nhà vua nói thế, họ ra đi. Này đây ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông đi trước họ, đến tận nơi Hài nhi ở mới dừng lại” (Mt 2,9). Bạn tin có một ngôi sao đặc biệt như vậy không? Đọc sách Dân số 24,15-17.
7. Đọc Mt 2,11. Tại sao ở đây không thấy nói đến thánh Giuse? Đọc Mt 1,16.
8. Để các nhà chiêm tinh gặp được vị Tân Vương, họ đã phải chuẩn bị và cố gắng như thế nào? Các lễ vật quý giá họ dâng có ý nghĩa gì không?
9. Trong bài Phúc âm này, Đức Giêsu được gọi bằng những tước hiệu gì?
10. Qua việc kể lại chuyện của các nhà chiêm tinh đến bái lạy Chúa, thánh Mát-thêu muốn nói cho chúng ta sứ điệp quan trọng gì ? Đọc Mt 12,21; 28,19-20.
Nghe audio: 


LỄ HIỂN LINH 2015
SỰ SÁNG ĐÃ BỪNG LÊN
Lm. Thiện Duy

Có quá nhiều những thảm họa xảy ra trong năm 2014. Có thể kể đến vụ mất tích của chiếc máy bay MH370 mang theo 239 người là vụ bí hiểm nhất trong lịch sử hàng không của nhân loại. Liên tiếp sau đó là vụ chiếc MH17 của Malaysia rơi ở Ukraine làm cho 298 người thiệt mạng. Hay gần đây nhất là chiếc bay của Indonesia đã gặp nạn do thời tiết xấu khiến cho 162 người phải chìm xuống biển Java của Indonesia. Còn về dịch bệnh thì trong năm qua có 16.000 người bị nhiễm virut Ebola và có khoảng 7.000 người đã tử vong vì đại dịch này. Trong năm qua, sự nổi dậy của phiến quân nhà nước Hồi Giáo ở Syria với những hành vi giết người một cách dã man đã trở thành mối hiểm họa thực sự cho nhân loại… Ngoài ra còn có những bạo hành trong gia đình, những xuống cấp của luân lý và đạo đức, những con người thiếu lương tâm trong mọi lĩnh vực… Tất cả những điều đó như bóng đêm cho nhân loại, cho xã hội, cho gia đình và cho từng người.

Giữa bóng đêm đó đã bừng lên một ánh sáng là Đức Giêsu Kitô, món quà của Thiên Chúa Cha ban tặng cho nhân loại chúng ta. Ngài đã mượn thân xác con người để đem ánh sáng, đem tình yêu vào lòng thế giới, vào tâm hồn con người; để ở đâu có những người Kitô hữu thực sự, ở đó có tình yêu; ở đâu có những người biết mở lòng ra với ơn cứu độ, ở đó có ánh sáng.

I.                   PHỤNG VỤ LỜI CHÚA

1.      Bài Đọc I: Is 60. 1-6
Bài đọc 1 như là giấc mơ của tiên tri Isaia. Khi dân đang bị lưu đày ở Babylon, ông mơ tưởng đến một ngày dân được hồi hương và Giêrusalem được tái thiết. Lúc đó “muôn dân sẽ lũ lượt đưa nhau tới, nước nước dập dìu kéo nhau đi”, nhờ ánh sáng Chúa soi đường. Trên thực tế, dân đã được hồi hương, Giêrusalem đã được tái thiết, nhưng không giống như trong viễn cảnh của tiên tri Isaia mơ tưởng. Giấc mơ của ông chỉ được thực hiện trọn vẹn nơi Đức Giêsu Kitô vì Ngài chính là ánh sáng đến trần gian.

2.      Bài Đọc II: Ep 3, 2-3a. 5-6
Từ những chuyện cụ thể như ánh sáng, vua chú, muôn dân… thánh Phaolô đưa chúng ta đến một lĩnh vực cao siêu hơn chính là mầu nhiệm của Thiên Chúa. Ngài nói rằng Ngài được Thiên Chúa mặc khải một mầu nhiệm rất cao quý, mầu nhiệm này thế hệ trước không biết. Mầu nhiệm đó là: “Trong Đức Kitô, nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do Thái”. Điều này mới nghe chúng ta tưởng đâu rất bình thường, nhưng thời đó quả thật là một mầu nhiệm cao cả, vì người Do Thái và kể cả những người lương dân nữa, họ cứ nghĩ rằng ơn cứu độ chỉ dành cho người Do Thái mà thôi, còn những người ngoại thì không được. Nhưng hôm nay thánh Phaolô nói được hết, miễn là họ tin vào Đức Kitô và sống theo Tin Mừng chỉ dạy.

3.      Tin Mừng: Mt 2, 1-12
Ba nhà chiêm tinh mà chúng ta quen gọi là ba vua, ba đạo sĩ là những người không biết gì về Thiên Chúa, về Đấng Messia. Nhưng trong nghành chiêm tinh học họ đã phát hiện ra sự xuất hiện của một vì sao lạ. Niềm tin chân thành của những người Đông Phương tin rằng mỗi một con người gắn liền với một vì sao. Vì vậy khi thấy ngôi sao lạ xuất hiện, họ tin rằng một con người vĩ đại đã sinh ra. Với sự chân thành của mình, họ đã lên đường tìm kiếm, họ đã cậy nhờ người khác. Cuối cùng họ đã gặp được Ngôi Sao ấy, chính là Hài Nhi Giêsu nhờ câu Kinh Thánh của người Do Thái: “Phần ngươi hỡi Bêlem, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân ta sẽ ra đời”.

Phụng vụ lời Chúa muốn nói với chúng ta Đức Giêsu Kitô là ánh sáng thật đã đến trần gian để xua tan bóng tối của sự dữ. Tất cả những ai đón nhận Đức Giêsu Kitô, thì chính con người của họ sẽ được bừng sáng lên. Đồng thời chính họ cũng sẽ trở thành ánh sáng góp phần xua tan bóng đêm quanh họ.

Vì vậy mầu nhiệm lớn lao nhất trong lễ Hiển Linh là mầu nhiệm Thiên Chúa muốn tỏ mình ra cho muôn dân để họ được ơn cứu độ, trong đó có chúng ta. Mầu nhiệm thứ hai là mầu nhiệm Thiên Chúa muốn cậy nhờ chúng ta để trở thành ánh sáng xua tan bóng đêm trong tâm hồn mỗi người, trong các gia đình, các giáo xứ, các cộng đoàn sống đời thánh hiến… để từ đó ánh sáng tràn ngập thế gian.

II.               ÁNH SÁNG ĐÃ ĐẾN

1.      Cho chính bản thân tôi
Năm đầu tiên trong sứ vụ, Đức Thánh Cha Phanxicô đã cho ban hành Tông Huấn Niềm Vui Tin Mừng. Ngay những câu đầu tiên, Đức Thánh Cha đã nêu rõ mục đích của tông huấn này là:“Tôi muốn khích lệ các tín hữu đi vào một chương mới của công cuộc loan báo Tin Mừng ngập tràn niềm vui này, đồng thời vạch ra những lối đi mới cho hành trình của Hội Thánh trong những năm sắp tới”. Vì vậy lối đi của Giáo Hội phải là lối đi của những con người được Phúc Âm hóa làm cho họ được ngập tràn niềm vui.

Ba nhà đạo sĩ trong bài Tin mừng hôm nay sẽ được gì khi lên đường tìm kiếm và bái lạy Hài Nhi Giêsu? Hay ngược lại họ sẽ mất giờ, mất công, mất của, suýt chút nữa là mất mạng? Thưa họ được một điều đơn giản lắm mà nhiều người muốn không được. Đó là niềm vui. “Niềm vui của tin mừng đổ đầy trái tim và cuộc sống của tất cả những ai gặp Chúa Giêsu”. Để rồi khi tôi “chấp nhận đề nghị cứu độ của Người”, tôi cũng sẽ “được giải thoát khỏi tội lỗi, buồn phiền, trống rỗng nội tâm và cô đơn”. Lúc đó ánh sáng đã chiếu tỏa trên tôi.

Chúng ta đã dọn mình xưng tội rước lễ trong lễ Giáng Sinh. Mỗi người cũng đang cố gắng để sống đạo cho tốt, cũng đã nhận ra những sai lỗi của mình và quyết tâm sửa đổi lại cuộc sống. Ước mong sự thánh thiện trong đêm Giáng Sinh vẫn còn tràn ngập trong mỗi tâm hồn để chúng ta ôm ấp, gìn giữ ơn cứu độ trong tâm hồn, ôm thật chặt, nắm thật lâu. Bởi vì bao lâu chúng ta còn ý thức sửa soạn tâm hồn, bao lâu chúng ta còn gìn giữ tâm hồn mình cho thanh sạch, bao lâu chúng ta còn muốn sửa đổi cuộc sống… là bấy lâu chúng ta còn niềm vui ơn cứu độ, bấy lâu chúng ta còn sống trong ánh sáng của Chúa. Hãy can đảm lên! Đừng rút lui vào trong bóng tối.

2.      Cho thế gian
Thiên Chúa không chỉ muốn ánh sáng của Ngài dọi chiếu vào cuộc đời của tôi, mà Ngài còn muốn ánh sáng đó lan tỏa cho thế gian. Vì vậy khi Ngài xuống thế làm người, Ngài đã mượn thân xác của con người để dọi chiếu ánh sáng của Thiên Chúa.

Ánh sáng của Thiên Chúa sẽ tỏa rạng từ cuộc đời chúng ta khi chúng ta dám sống và làm chứng cho chân lý, cho sự thật và niềm tin của mình. Ba vị đạo sĩ trong bài Tin mừng hôm nay đã dám mạnh dạn lên đường, dấn thân cho một cuộc tìm kiếm.

Đức TGM Phaolô Bùi Văn Đọc đã nói lên 3 vấn nạn của gia đình Việt Nam tại Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới ngoại thường về gia đình hồi tháng 10/2014 là tự do luyến ái, phá thai và bạo hành trong gia đình.

Vì vậy người công giáo khi dám đi ngược lại với những trào lưu sai trái của xã hội là chúng ta đang trở thành ánh sáng. Những người trẻ chuẩn bị tiến đến hôn nhân phải giữ mình, giữ khoảng cách để tình yêu của họ không phải chỉ là tình dục. Những người chỉ mới quen nhau, yêu nhau mà đã đòi “nếm trái cấm” thì phải xét lại tình yêu và tư cách của người đó.

Những cặp vợ chồng phải can đảm để đón nhận những đứa con (nói theo kiểu người đời) ngoài ý muốn, hoặc những đứa con được chẩn đoán là quái thai vì đó chính là kết quả tình yêu của họ, là con cái của họ. Những biện pháp ngừa thai nhân tạo hoặc phá thai thể hiện những con người quá tàn nhẫn, bất chấp tất cả vì đam mê và toan tính riêng tư của mình.

Ngày thành hôn những người chồng, những người vợ đã cam kết yêu thương và tôn trọng nhau suốt đời. Vậy mà vẫn diễn ra những cảnh bạo hành trong gia đình vì họ không biết tôn trọng nhau.

Gia đình Công giáo phải nhớ chúng ta không chỉ sống cho riêng mình, mà chúng ta còn có bổn phận trở thành ánh sáng để soi dọi vào những chỗ tăm tối, nhất là cho những gia đình đang gặp khó khăn, khủng hoảng xung quanh chúng ta. Vì vậy phải can đảm dấn thân, lên đường mỗi ngày để sống cho niềm tin và chân lý.

Tóm lại ngày lễ Hiển Linh là ngày Thiên Chúa muốn cho con người nhận ra Ngài là ánh sáng đã đến để chiếu soi vào những nơi tăm tối. Sở dĩ những nơi còn tăm tối là vì thiếu vắng ánh sáng của Thiên Chúa. Người Kitô trước hết được mời gọi đón nhận ánh sáng đó và sau nữa phải có bổn phận đem ánh sáng đến những nơi còn tăm tối.

Chúng ta chỉ có thể trở thành ánh sáng khi chúng ta “chấp nhận lời đề nghị cứu độ của Thiên Chúa” để nỗ lực sống đạo một cách đúng đắn. Chúng ta sẽ trở thành ánh sáng khi chúng ta can đảm dấn thân đi ngược lại những sai trai của xã hội hôm nay nhất là trào lưu tự do luyến ái, phá thai và bạo hành trong gia đình.

Sự sáng đã bừng lên nơi chính cuộc đời chúng ta!

Lectio Divina: Chúa Hiển Linh (B)
Thứ Ba, 6 Tháng 1, 2015
Hành trình đức tin của ba vị Đạo Sĩ
Việc bái thờ Chúa Giêsu Hài Đồng là Vua và là Chúa
Mt 2:1-12 


1.  Lời nguyện mở đầu

Lạy Cha nhân từ, Chúa đã gọi con để gặp gỡ Chúa trong lời này của Tin Mừng, bởi vì Chúa muốn con được có sự sống, Chúa muốn ban cho con chính bản thân Chúa.  Con cầu xin Chúa, xin Chúa hãy sai Thánh Thần Chúa xuống trên con để con được dẫn dắt trên con đường thiên liêng của đoạn Kinh Thánh này.  Hôm nay, nguyện xin cho con có thể bước ra khỏi nhà tù của chính mình để bắt đầu cuộc hành trình đi tìm kiếm Chúa.  Xin cho con có thể nhận ra ánh sao mà Chúa đã thắp sáng như một dấu hiệu tình yêu của Chúa trên cuộc hành trình của con để bước theo nó không hề mệt mỏi, một cách mạnh dạn, dấn thân cả cuộc đời con.  Cuối cùng, xin cho con được bước vào nhà Chúa và ở đó được trông thấy tôn nhan Chúa, xin cho con biết cúi lạy cách khiêm tốn để bái thờ trước nhan Chúa và dâng lên Chúa cuộc sống của con, cả con người con và tất cả những gì con có.  Lạy Chúa, nhờ vào ân sủng Chúa, xin cho con có thể trở về bằng một con đường mới, mà không bao giờ đi qua những con đường cũ của tội lỗi.  

2.  Bài đọc

a)  Bối cảnh của đoạn Tin Mừng

Đoạn Tin Mừng này thuộc về hai chương đầu tiên của sách Tin Mừng Mátthêu, tạo thành lời mở đầu cho toàn bộ tác phẩm.  Ở đây chúng ta được giới thiệu về nguồn gốc lịch sử của Đấng Cứu Thế là con cháu của vua Đavít, cũng như nguồn gốc thiên tính của Đức Giêsu Kitô, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.  Ngay lập tức, thánh Mátthêu dẫn chúng ta vào trong một sự suy niệm sâu lắng và lôi cuốn, đặt trước chúng ta một sự chọn lựa chính xác qua con người mà ông giới thiệu trong câu chuyện:  chúng ta hoặc nhận ra và chào đón Chúa là Đấng vừa được sinh ra, hay là chúng ta vẫn lãnh đạm thờ ơ, thậm chí còn muốn loại trừ và giết bỏ Người. Đoạn Tin Mừng này cống hiến cho chúng ta một câu chuyện đẹp về cuộc hành trình của ba nhà Đạo Sĩ, những người đến từ phương xa bởi vì họ muốn tìm kiếm và chào đón, yêu thương và tôn thờ Chúa Giêsu.  Nhưng cuộc hành trình dài và miệt mài tìm kiếm của họ, việc hoán cải tâm hồn của họ là sự kiện đang nói về chúng ta, sự kiện đã được ghi lại trong cuốn sách câu chuyện thiêng liêng của chính chúng ta.

b)  Phần phụ chú để giúp cho việc đọc bài Tin Mừng:

Đoạn Tin Mừng này có thể được chia ra làm hai phần chính, được xác định theo nơi câu chuyện xảy ra:  phần thứ nhất (đoạn 2:1-9a) xảy ra tại Giêrusalem, trong khi phần thứ hai lại tập trung xung quanh thành Bêlem (đoạn 2:9b-12).

Mt 2:1-2:  Đoạn Tin Mừng bắt đầu với những dấu hiệu chính xác như nơi chốn và thời gian chào đời của Chúa Giêsu: tại Bêlem, thuộc xứ Giuđêa, trong đời vua Hêrôđê.  Trong lời mô tả khá rõ ràng này, các nhà Đạo Sĩ đột nhiên xuất hiện, những người đến từ phương xa, tìm đến Giêrusalem dưới sự hướng dẫn của một ánh sao.  Chính họ là những người loan báo sự ra đời của vị Vua Thiên Chúa.  Họ hỏi thăm xem Người hiện đang ở đâu bởi vì họ muốn đến để triều bái Người.
Mt 2:3-6:  Khi nghe những lời của các vị Đạo Sĩ nói, vua Hêrôđê, và tất cả thành Giêrusalem cùng với nhà vua, bối rối và sợ hãi.  Thay vì chào đón Chúa và chọn Người, họ tìm cách trừ khử Người.  Vua Hêrôđê triệu tập tất cả các thượng tế Do Thái và Kinh Sư trong dân.  Chính các nhà Đạo Sĩ, nhờ sự giúp đỡ của các ngôn sứ thuở xưa, là những người nói và mặc khải Bêlem là nơi để tìm thấy Đấng Mêssia.
Mt 2:7-8:  Vua Hêrôđê ngầm cho vời các nhà Đạo Sĩ bởi vì nhà vua muốn dùng họ cho mục đích xấu xa của mình.  Việc hỏi han cặn kẽ của nhà vua hoàn toàn nhắm vào việc loại trừ Đức Kitô.  
Mt 2:9a:  Các nhà Đạo Sĩ, được thúc đẩy bởi sức mạnh đức tin và được hướng dẫn bởi ánh sao, lại lên đường và hướng về thành Bêlem.
Mt 2:9b-11:  Ngôi sao lại xuất hiện, đi với các vị Đạo Sĩ và dẫn họ đến đúng nơi chỗ Chúa Hài Đồng Giêsu ở.  Tràn đầy niềm vui mừng, họ tiến vào nhà và phủ phục sụp lạy Người; họ dâng tiến Người lễ vật quý giá vì họ nhận biết Người là vua và là Chúa.
Mt 2:12:  Khi đã chiêm ngắm và thờ lạy Chúa, các vị Đạo Sĩ nhận được sự mặc khải từ Thiên Chúa; chính Chúa nói với họ.  Các ông là những con người mới; họ có trong mình một trời mới đất mới.  Các vị Đạo Sĩ đã thoát khỏi sự lừa dối của vua Hêrôđê, và do đó, họ quay trở lại với đời sống mình bằng một nẻo đường hoàn toàn mới.   

c)  Phúc Âm:

Khi Chúa Giêsu sinh hạ tại Bêlem, thuộc xứ Giuđêa, trong đời vua Hêrôđê, có mấy nhà đạo sĩ từ Đông Phương tìm đến Giêrusalem. 2 Các ông nói:  “Vua người Do-Thái mới sinh ra hiện đang ở đâu?  Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Đông Phương, và chúng tôi đến để triều bái Người.”  
3 Nghe nói thế, vua Hêrôđê bối rối, và tất cả Giêrusalem cùng với nhà vua. 4 Vua đã triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân, và hỏi họ cho biết nơi mà Đức Kitô sinh hạ.  5 Họ tâu nhà vua rằng:  “Tại Bêlem thuộc xứ Giuđêa, vì đó là lời do đấng tiên tri đã chép: 6 “Cả ngươi nữa, hỡi Bêlem, đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta.”
7 Bấy giờ Hêrôđê ngầm triệu mấy nhà Đạo sĩ tới, cặn kẽ hỏi han họ về thời giờ ngôi sao đã hiện ra. 8 Rồi vua phái họ đi Bêlem và dặn rằng:  “Các khanh hãy đi điều tra cẩn thận về Hài Nhi, rồi khi đã gặp thấy, hãy báo tin lại cho trẫm, để cả trẫm cũng đến triều bái Người.” 9 Nghe nhà vua nói, họ lên đường.  Và kìa ngôi sao họ xem thấy ở Đông Phương, lại đi trước họ, mãi cho tới khi tới nơi và đậu lại trên chỗ Hài Nhi ở. 10 Lúc nhìn thấy ngôi sao, họ hết sức vui mừng. 11 Và khi tiến vào nhà, họ đã gặp thấy con trẻ và Đức Maria, mẹ Người, và họ đã quỳ gối xuống, sụp lạy Người. Rồi, mở bảo tráp ra, họ đã dâng tiến Người lễ vật:  vàng, nhũ hương, và mộc dược.
12 Và khi nhận được lời mộng báo “Đừng trở lại với Hêrôđê”, họ đã qua đường khác, trở về xứ sở mình.

3.  Giây phút thinh lặng cầu nguyện

Tôi lắng nghe thật sâu tiếng nói thì thầm của Chúa và để cho hơi thở của Chúa Thánh Thần đến với tôi và truyền cho tôi.  Trong sự thinh lặng này, tôi đi tìm kiếm Chúa và lặp lại trong lòng tôi:  “Lạy Thiên Chúa của con, Chúa đang ở đâu?”

4.  Một vài câu hỏi gợi ý

a)  Tôi dùng những lời đầu tiên phát ra từ miệng các nhà Đạo Sĩ và làm cho chúng trở thành của riêng tôi:  “Vua dân Do-Thái mới sinh ra hiện đang ở đâu?”  Tôi có thực sự cảm thấy bị lôi cuốn đến nơi Chúa ở bởi vì tôi mong ước được ở bên cạnh Người không?  Tôi có sẵn sàng lìa bỏ nơi tối tăm và cũ kỹ của thói quen của tôi, của sự thoải mái của tôi, để thực hiện một cuộc hành trình đức tin trong việc tìm kiếm Đức Giêsu không?

b)  “Chúng tôi đến để triều bái Người.”  Ở đây Lời Chúa kiểm định tôi, đặt tôi qua một thử thách:  tôi có thực sự sống trong một mối quan hệ yêu thương với Thiên Chúa không?  Tôi có thể nào rộng mở cuộc sống tôi trong sự hiện diện của Người và để cho Người ngự vào trong mỗi nhịp đập của tim tôi không?
c)  “Vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta.”  Tôi có khả năng đặt và dâng trọn xác hồn tôi cho sự hướng dẫn của Chúa, tin cậy nơi Ngài, tin vào tình yêu của Ngài, trong sự hiện diện rất thật của Ngài dù rằng Ngài vẫn vô hình không?
d)  “Khi tiến vào nhà, họ đã gặp thấy con trẻ.”  Đó chính là bởi vì họ chấp nhận bước vào trong nhà, bước vào sự hiệp thông, dâng trọn vẹn và thật sự con người họ để mắt họ có thể trống thấy, chiêm ngưỡng và nhận ra.  Tại sao tôi không nhận thức được thực tế là khi tôi càng ở bên ngoài, thì tôi càng xa cách với cuộc sống anh chị em tôi và tôi càng trở nên u buồn và trống trải?

5.  Chìa khóa dẫn đến bài đọc

Tôi tìm một số chữ chính, một số chủ đề căn bản, để có thể hướng dẫn và giúp tôi hiểu thấm hơn ý nghĩa của đoạn Tin Mừng này, để cho đời tôi có thể được soi sáng và thay đổi bởi Lời của Chúa.

*  Hành trình:  Đoạn Tin Mừng này dường như trải qua với chủ đề lớn của một cuộc hành trình, một cuộc xuất cư, một chuyến đi.  Các vị Đạo Sĩ, những nhân vật bí ẩn, ra đi, đi xa khỏi miền đất của họ và đi tìm kiếm vị vua, Chúa.  Thánh Mátthêu trình bày dữ kiện này bằng một số các động từ song song với sự phát triển của sự kiện:  tìm đến, chúng tôi đến, phái đi, đi, lên đường, đi trước họ, tiến vào, đừng trở lại, trở về.  Cuộc hành trình thể lý của các vị Đạo Sĩ ẩn dấu một cuộc hành trình rất quan trọng và có ý nghĩa hơn, cuộc hành trình đức tin.  Đây là sự chuyển động của tâm hồn được nảy sinh từ lòng ước ao gặp gỡ và biết Chúa.  Đồng thời, đó là lời mời gọi của Thiên Chúa, Đấng kêu gọi và lôi cuốn chúng ta với quyền năng của Người; chính Người là Đấng nâng chúng ta dậy và chuẩn bị cho chúng ta lên đường, Đấng ban cho chúng ta các dấu chỉ và không ngừng đồng hành với chúng ta.  Kinh Thánh cho chúng ta nhiều ví dụ quan trọng và những điều đó giúp cho chúng ta bước vào con đường của ân sủng và phúc lành này.  Thiên Chúa đã phán bảo ông Abraham rằng:  “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi” (St 12:1).  Ông Giacóp cũng là một người hành hương của đức tin và sự hoán cải; trên thực tế, Thánh Kinh đã viết về ông:  “Giacóp ra khỏi Bơ-e-Seba và đi về Kharan” (St 28:10) và “Giacóp cất bước đi về đất con cái Phương Đông” (St 29:1).  Nhiều năm sau đó, Đức Chúa đã phán với ông rằng: “Hãy trở về quê cha đất tổ, về với họ hàng ngươi; Ta sẽ ở với ngươi” (St 31:3). Ông Môisen cũng là người đi trên một cuộc hành trình; chính Thiên Chúa đã chỉ cho ông đường đi, cuộc Xuất Hành, trong tâm hồn ông, trong cõi lòng ông, và được làm bằng cả cuộc đời ông cho cuộc hành trình dài của ơn cứu độ cho ông và cho dân tộc ông:  “Bây giờ, ngươi hãy đi!  Ta sai ngươi đến với Pharaô để đưa dân Ta là con cái Israel ra khỏi Ai-Cập!” (Xh 3:10).  Dân riêng mới của Chúa cũng thế, chúng ta là con cái của lời hứa và giao ước mới, hằng được gọi để lên đường và ra đi trên cuộc hành trình theo chân của Chúa Giêsu.  Cuộc xuất hành không bao giờ ngừng; cuộc giải phóng xuất phát từ đức tin thì vẫn luôn năng động.  Chúng ta hãy nhìn vào Chúa Giêsu, vào các vị tông đồ của Người, vào thánh Phaolô:  không ai đứng yên tại chỗ, không ai lẩn tránh.  Tất cả các nhân chứng này nói với chúng ta ngày nay bằng những hành động của họ và họ lặp lại:  “Phúc thay kẻ lấy Ngài làm sức mạnh, ấp ủ trong lòng giấc mộng hành hương” (Tv 84:6).

*  Ngôi sao:  Đây là một yếu tố trọng tâm và rất quan trọng trong đoạn Tin Mừng này bởi vì ngôi sao có vai trò hướng dẫn các vị Đạo Sĩ đi đến nơi họ định đến, nó là sự soi sáng cho họ trong những đêm trên cuộc hành trình, nó chỉ đúng nơi có sự hiện diện của Chúa, nó cho một niềm vui tuyệt vời trong tim họ.  Khắp suốt bộ Kinh Thánh, ngôi sao xuất hiện như là dấu chỉ của sự chúc phúc và vinh quang, gần như là một hiện thân của Thiên Chúa, Đấng không bỏ rơi dân Ngài, và đồng thời, sự nhân cách hóa của dân tộc đã không quên Thiên Chúa của họ và chúc tụng Ngài (xem Tv 148:3; Br 3:34).  Từ ngữ ngôi sao xuất hiện lần đầu tiên trong Kinh Thánh trong sách Sáng Thế Ký 1:16, khi mà vào ngày thứ tư, câu chuyện về Thiên Chúa sáng tạo trời đất cho chúng ta biết về sự xuất hiện trên vòm trời: mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao, như là các dấu hiệu và ánh sáng, để thiết lập trật tự và cho ánh sáng.  Thuật ngữ của người Do Thái về chữ “ngôi sao” (kokhab) rất tuyệt đẹp và đầy ý nghĩa.  Thật ra, những mẫu tự tạo nên chữ mặc khải sự bao la của sự hiện diện mà các yếu tố thiên thể đi kèm với chúng.  Chúng ta thấy hai chữ caf, có nghĩa là “bàn tay” và kèm theo chữ waw, có nghĩa là con người, được hiểu trong cấu trúc sự sống của người ấy, trong xương sống người ấy, giúp cho anh ta đứng vững, giúp anh ta hướng lên trời, tiếp xúc với Thiên Chúa và là Đấng Tạo Dựng của anh ta.  Do đó, bên trong các ngôi sao có hai bàn tay, mẫu tự caf và caf, được giữ cách yêu thương trong mẫu tự “waw”, con người:  đó là đôi bàn tay của Thiên Chúa không bao giờ ngừng nắm lấy chúng ta, nếu chúng ta chỉ cần phó thác cho đôi bàn tay ấy.  Sau đó xuất hiện mẫu tự bet, có nghĩa là nhà.  Do đó, các ngôi sao nói với chúng ta về cuộc hành trình hướng về nhà chúng ta, về cuộc di cư liên tục từ đó và trở về, một khi chúng ta đã đến, từ ngày tạo thiên lập địa và thậm chí từ đời đời. Thiên Chúa thường so sánh con cháu của Abraham với sao trên trời, như thể mỗi người là một vì sao, được sinh ra để cho ánh sáng vào ban đêm:  “Hãy ngước mắt lên trời, và thử đếm các vì sao, xem có đếm nổi không” Và rồi Người lại thêm rằng: “dòng dõi ngươi sẽ như thế đó!” (St 15:5).  Đức Giêsu là một vì sao, một vì sao xuất hiện từ nhà Giacóp (Ds 24:17), rằng bắt nguồn từ trên cao, là Sao Mai sáng ngời, như sách Khải Huyền đã viết (22:16).  Thật ra, trong Người tình yêu vô hạn của Thiên Chúa đã mặc lấy xác thịt, mà chiếu hướng về phía chúng ta, con cái của Người, và mở rộng vòng tay để tụ tập và chào đón chúng ta.  Chỉ có tình yêu như vậy mới có thể ban cho sự yếu đuối vô hạn của chúng ta khả năng và lòng dũng cảm, sự kiên trì và niềm hân hoan của việc chấp nhận ra đi, đi trên cuộc hành trình dài và gian khổ của đức tin, dẫn chúng ta đến làng Bêlem, đến nơi Thiên Chúa xuất hiện với chúng ta.
  
*  Tôn thờ triều bái:  Hành động tôn thờ triều bái thì xưa như chuyện nhân loại, bởi vì ngay từ đầu, mối quan hệ với Thiên Chúa đã được đi kèm theo với nhu cầu của sự yêu thương, của sự khiêm nhường, của sự tận hiến.  Trước sự cao cả của Thiên Chúa, chúng ta, những con người bé nhỏ, cảm nhận và khám phá ra rằng chúng ta không là gì, một hạt bụi, một giọt nước trong biển khơi.  Trong Cựu Ước, cử chỉ tôn thờ xuất hiện như một hành động của tình yêu sâu sắc đối với Chúa, một cử chỉ đòi hỏi sự tham dự của cả bản thân: tâm trí, ý muốn chọn lựa, tình yêu tràn đầy ước vọng và một bản thân cúi lạy và thậm chí còn phủ phục dưới đất.  Người ta nói rằng ở một vài nơi cử chỉ tôn thờ triều bái được kèm theo cả việc phủ phục dưới đất; khuôn mặt của một người, ánh mắt, hơi thở của người ấy sẽ trở về bụi đất một khi người đó có nguồn gốc của mình và tại đó người ấy nhìn nhận mình là tạo vật của Thiên Chúa, như hơi thở đến từ Thiên Chúa.  “Hãy vào đây ta cúi mình phủ phục, quỳ trước tôn nhan Chúa là Đấng dựng nên ta” (Tv 95:6):  đây là lời mời của Kinh Thánh cho chúng ta mỗi ngày, chỉ cho chúng ta thấy đường đi để chúng ta có thể nhiều lần trở lại với sự thật và để sống trọn vẹn.
Tân Ước còn đi sâu hơn trong sự suy niệm tinh thần về sự kiện này và dường như còn muốn cùng đồng hành với chúng ta trên cuộc hành trình sư phạm của sự hoán cải và trưởng thành trong đời sống nội tâm của chúng ta.  Trong các sách Tin Mừng, chúng ta thấy các môn đệ, nam và nữ, thờ lạy Chúa Giêsu sau khi Người sống lại (Mt 28:9; Lc 24:52), bởi vì họ nhận ra Người chính là Thiên Chúa.  Lời của Chúa Giêsu trong cuộc đối thoại với người phụ nữ Samaritanô cho chúng ta một cái nhìn sâu sắc vào sự thật của cử chỉ này, mà sau cùng, liên quan đến cả cuộc đời và là thái độ của con tim:  việc thờ lạy là dành cho Chúa Cha và không xảy ra đây đó mà là trong Chúa Thánh Thần và trong chân lý, đó là trong Chúa Thánh Thần và trong Chúa Con, Đức Giêsu.  Chúng ta không được phép tự lừa dối mình; đó không phải là việc đi hết nơi này sang nơi nọ, cũng chẳng phải vì tìm kiếm một nhân vật thần thánh này hay nhân vật khác để chúng ta có thể tôn thờ Thiên Chúa.  Việc di chuyển, cuộc hành trình là một chuyến đi nội tâm và xảy ra trong nơi tận cùng sâu thẳm nhất của chúng ta và là sự hàng phục hoàn toàn của chính mình, của đời sống chúng ta, cả con người chúng ta, vào đôi cánh của Chúa Thánh Thần và trong vòng tay của Chúa Giêsu, đang mở rộng trên thập giá và luôn sẵn sàng đón nhận tất cả mọi thứ đến với Người.  Thánh Phêrô đã nói rõ ràng:  “Đức Kitô là Đấng Thánh, hãy tôn Người làm Chúa ngự trị trong lòng anh em” (1Pr 3:15).  Cử chỉ cúi mình trên đất, phủ phục trước mặt Chúa đến từ trái tim.  Nếu chúng ta để cho Chúa đụng chạm vào tâm hồn chúng ta, nếu chúng ta cho phép Chúa đi vào lòng mình, không gian thiêng liêng, thì Người sẽ thay đổi chúng ta hoàn toàn, biến đổi toàn bộ con người chúng ta và biến đổi chúng ta trở nên những con người mới.      

6.  Cầu nguyện:  Thánh Vịnh 84

Một bài Thánh Vịnh về lòng tin tưởng của con người trên cuộc hành trình tiến về nhà Chúa  

Đáp ca:  Lạy Chúa, con đã thấy ngôi sao của Chúa,
Và con đã đến để thờ lạy Chúa!
Lạy Chúa Tể càn khôn, cung điện Ngài xiết bao khả ái.
Mảnh hồn này khát khao mòn mỏi
mong tới được khuôn viên đền vàng.
Cả tấm thân con cùng là tấc dạ
những hướng lên Chúa Trời hằng sống mà hớn hở reo mừng.

Lạy Chúa Tể càn khôn là Đức Vua, là Thiên Chúa con thờ,
ngay chim sẻ còn tìm được mái ấm,
cánh nhạn kia cũng làm tổ đặt con
bên bàn thờ của Chúa!

Phúc thay người ở trong thánh điện
họ luôn luôn được hát mừng Ngài.

Phúc thay kẻ lấy Ngài làm sức mạnh,
ấp ủ trong lòng giấc mộng hành hương.

Lúc trẩy qua thung lũng Khô Cằn,
họ biến nó thành nguồn suối nước,
mưa đầu mùa đổ phúc lộc chứa chan.

Càng tiến lên, họ càng mạnh bước
đến chiêm ngưỡng Chúa Trời ngự trên núi Xi-on.

Lạy CHÚA là Chúa Tể càn khôn,
xin đoái nghe lời con cầu nguyện.
Xin lắng tai, lạy Chúa nhà Giacóp.

Lạy Chúa là khiên mộc chở che,
xin thương xem nhìn đến
gương mặt đấng Ngài đã xức dầu.

Một ngày tại khuôn viên thánh điện
quý hơn cả ngàn ngày.
Thà con ở cổng đền Thiên Chúa
vẫn còn hơn sống trong trại ác nhân!

Thiên Chúa là vầng thái dương, là thuẫn đỡ,
CHÚA tặng ban ân huệ với vinh quang.
Ai sống đời trọn hảo, Người chẳng nỡ từ chối ơn lành.

Lạy Chúa Tể càn khôn, phúc thay người tin tưởng vào Chúa!

7.  Lời nguyện kết                                                                         

Lạy Chúa, là Cha của chúng con, con đã thực sự nhìn thấy ngôi sao của Chúa, con đã mở mắt ra với sự hiện diện tình yêu và ơn cứu rỗi của Chúa và con đã lãnh nhận ánh sáng của sự sống.  Con đã lặng ngắm bóng đêm biến đổi thành ánh sáng, nỗi đau khổ trở nên niềm hân hoan, nỗi cô đơn thành sự hiệp thông; vâng, tất cả những điều này đã xảy ra trước nhan thánh Chúa, trong Lời Chúa.  Chúa đã dẫn con qua sa mạc; Chúa đã đưa con đến nhà Chúa và mở cửa cho con bước vào.  Ở đó con trông thấy Chúa, , Đức Giêsu Con Một Chúa, Đấng Cứu Độ của đời con; con đã cầu nguyện và thờ lạy, con đã khóc và tìm thấy nụ cười của Chúa, con giữ im lặng và học nói.  Trong nhà Chúa, là Cha nhân từ, con đã tìm được sự sống một lần nữa!
Và giờ đây con sắp trở lại, con tiếp tục cuộc hành trình của mình, nhưng đường đi không phải là con đường mà con đã đi trước đây và cuộc sống con không phải là cuộc sống như trước đó nữa.  Lời Chúa đã để lại trong con một quả tim mới, có khả năng mở ra để yêu thương, để lắng nghe, để chào đón và trở thành mái ấm cho nhiều anh chị em mà Chúa đã đặt để họ trên đường con đi.  Lạy Chúa, con đã không biết, nhưng Chúa đã làm cho con trở nên trẻ thơ một lần nữa, Chúa đã sinh ra con với Chúa Giêsu.  Lạy Cha, xin cảm tạ Cha, ôi Cha của con!




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét