Trang

Chủ Nhật, 8 tháng 5, 2016

09-05-2016 : THỨ HAI - TUẦN VII PHỤC SINH

09/05/2016
Thứ Hai tuần 7 Phục Sinh
Bài Ðọc I: Cv 19, 1-8

"Anh em tin mà đã nhận Thánh Thần chưa?"
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Xảy ra là khi Apollô ở Côrintô, thì Phaolô đi miền thượng du, rồi đến Êphêxô gặp một số môn đồ, và ngài hỏi họ: "Anh em tin mà đã nhận Thánh Thần chưa?" Họ trả lời: "Nguyên việc có Thánh Thần hay không, chúng tôi cũng chưa nghe nói". Ngài lại hỏi: "Vậy các ngươi đã chịu phép rửa của ai?" Họ thưa: "Phép rửa của Gioan". Phaolô liền bảo: "Gioan thanh tẩy dân chúng bằng phép rửa sám hối mà rằng: Hãy tin vào Ðấng sẽ đến sau ông, tức là Ðức Giêsu". Nghe vậy, họ đã chịu phép rửa nhân danh Chúa Giêsu. Và khi Phaolô đặt tay trên họ, thì Thánh Thần đến ngự xuống trên họ, họ liền nói được nhiều thứ tiếng và nói tiên tri. Tất cả đàn ông chừng mười hai người.
Ngài vào hội đường, và trong suốt ba tháng, Ngài mạnh dạn rao giảng, tranh luận và thuyết phục về nước Thiên Chúa.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 67, 2-3. 4-5ac. 6-7ab
Ðáp: Chư quốc trần ai, hãy ca khen Thiên Chúa (c. 33a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Thiên Chúa đứng lên, quân thù của Người tan rã, và những kẻ ghét Người chạy trốn khỏi long nhan. Như làn khói toả, chúng rã tan, như mẩu sáp ong gần lửa chảy ra, những đứa ác nhân tiêu vong trước nhan Thiên Chúa. - Ðáp.
2) Những người hiền đức mừng rỡ hỉ hoan, trước nhan Thiên Chúa họ mừng vui sung sướng. Hãy hát mừng Thiên Chúa, hãy đàn ca danh Người, danh hiệu Người là Chúa, hãy mừng rỡ hân hoan trước nhan Người. - Ðáp.
3) Là Cha kẻ mồ côi, là Ðấng bênh vực người quả phụ, Thiên Chúa ngự trong thánh điện của Người. Thiên Chúa tạo nhà cửa cho những người bị bỏ rơi, dẫn đưa những người tù tội ra nơi thịnh đạt. - Ðáp.

Alleluia: Mt 28, 19 và 20
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Các con hãy đi giảng dạy muôn dân: Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế". - Alleluia.

Phúc Âm: Ga 16, 29-33

"Hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, các môn đệ thưa Chúa Giêsu rằng: "Ðúng thế, bây giờ Thầy nói rõ ràng, và không dùng dụ ngôn nữa. Bây giờ chúng con biết rằng Thầy biết mọi sự, không cần có ai hỏi Thầy nữa. Bởi đó chúng con tin Thầy bởi Thiên Chúa mà ra". Chúa Giêsu đáp lại các ông: "Bây giờ các con mới tin ư? Này đến giờ, và đã đến rồi, các con sẽ tản mát mỗi người một ngả, bỏ mặc Thầy một mình. Nhưng Thầy không ở một mình đâu, vì có Cha hằng ở với Thầy. Thầy nói với các con những điều đó để các con được bình an trong Thầy. Giữa thế gian, các con sẽ phải đau khổ, nhưng hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian".
Ðó là lời Chúa.

Suy Niệm: Môn Ðệ Bỏ Thầy
"Nhưng Thầy không cô độc đâu, vì Chúa Cha luôn ở với Thầy".
Những lời này Chúa Giêsu nói trước để an ủi các môn đệ trong biến cố sắp xảy đến với Ðức Giêsu và cho chính họ. Họ đã mường tượng nhiều nguy cơ sẽ đến với họ và đến với Thầy mình. Họ hoang mang, nhưng Chúa Giêsu trấn tĩnh, Người bảo họ "đừng sợ", có Chúa Cha ở với Người, Người ở với họ và Người sẽ vượt thắng hết thế gian, cản trở mọi gian nan, Ngài nói: "Hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian rồi" (Ga 16,33).
Ðó cũng là những lời Chúa Giêsu nói với mỗi người chúng ta, nhất là chúng ta đều lo lắng về ngày mai, về những thử thách sẽ đến trong tương lai, ai không lo cho ngày mai thì bị xem như là kẻ khờ khạo và vô ý thức. Nỗi sợ hãi và lo lắng cho ngày mai còn đặc biệt hơn cho những người khi họ nghĩ đến năm 2000, họ nghĩ rằng có thể là tận thế hay gần đến tận thế. Lo lắng cho ngày mai là bản tính con người, vì ngày mai là một phần quyết định cho đời mình mà mình lại không quyết định được. Ngày mai ấy lại đáng lo vì chính mình Chúa Giêsu đã xác nhận rằng: "Trong thế gian anh em sẽ phải gian nan khốn khổ" (Ga 16,33).
Gian nan khốn khó như là thân phận con người và của mọi người. Anh em sẽ khốn khó hơn vì anh em là đồ đệ của Thầy, vì anh em tin và theo Thầy. Người nói: "Nếu thế gian ghét anh em thì nó đã ghét Thầy trước..." (Ga 15,18-22). Song chính vì đức tin mà chúng ta phải gian nan đau khổ, thì cũng chính nhờ đức tin vì Thiên Chúa mà chúng ta sẽ được an ủi. Cùng với Chúa, chúng ta vượt thắng đau khổ do thế gian gây nên, thắng sự chết bằng chính những đau khổ do thế gian gây nên, thắng sự chết bằng chính những đau khổ của Người, "lấy độc trị độc". Chính sự chết của Ngài mà Ngài đã chiến thắng sự chết và đem lại sự sống trưởng cửu cho những kẻ tin Ngài.
Chúng ta cần lưu ý để không thể sai lầm về sự chiến thắng của Thiên Chúa, thái độ và hành động chiến thắng của Người là bằng tình thương bằng hy sinh mà khắc phục được thế gian và đau khổ. Người không chủ trương thắng bằng những lối hống hách, nhưng thói kiêu căng "thừa thắng xông lên" để chà đạp những người yếu hèn hơn mình, không phải chiến thắng bằng tiền của hay khoa học, mà bằng tình thương chân thật, dám chết cho người mình yêu. Hiểu sai lầm về tình thương của Thiên Chúa sẽ khiến chúng ta đi lạc đường lầm lối như Chúa nói: "Giờ sẽ đến và khi đã đến rồi, anh em sẽ phân tán mỗi người một ngả và để Thầy cô độc một mình" (Ga 16,32); "Chúa Cha ở với Thầy và Thầy ở với anh em". Trước khi về trời, Chúa Giêsu nói: "Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Ðấng phù trợ khác và Ngài đến ở với anh em luôn mãi" (Ga 14,16).
Thiên Chúa ở gần chúng ta luôn mãi để nâng đỡ và che chở chúng ta, song tiếc thay chúng ta không biết hay không màng chi đến Ngài, như hai môn đệ trên đường Emmau có Chúa cùng đi với họ trong những lúc họ chán nản nhất mà họ không nhận ra. Như câu chuyện người đi trên cát kể rằng: Trong giấc mộng nửa đêm, một người kia mơ thấy mình đi bộ với Thiên Chúa trên bãi biển. Người kia đã hồi tưởng mọi giai đoạn cuộc sống của mình được chiếu lại trên bầu trời xanh, trong đó anh cũng thấy có hai cặp dấu chân in song hành trên cát, một của anh và một của Chúa. Nhưng khi nhớ lại đến một quãng đời đen tối nhất của mình, thì anh lại thấy lúc đó chỉ có một cặp dấu chân mà thôi. Như hoảng sợ, anh liền hỏi Chúa: "Lạy Chúa, Chúa nói rằng một khi con theo Chúa thì nhất định Chúa sẽ mãi mãi đồng hành với con, nên con không hiểu được tại sao lúc con cần Chúa hơn hết thì Chúa lại bỏ con?"
Thiên Chúa trả lời: "Này con yêu quí của Cha, Cha rất yêu thương con và không bao giờ lìa bỏ con, lúc con bị đau khổ thử thách nhất, con thấy có chỉ có một cặp dấu chân trên cát là vì lúc đó Cha bồng con trên tay". Amen.
Veritas Asia


Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Hai Tuần VII PS
Bài đọc: Acts 19:1-8: Jn 16:29-33.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Ngôn ngữ xử dụng trong việc rao giảng Tin Mừng.
Người rao giảng phải xử dụng ngôn ngữ nào để việc rao giảng Tin Mừng có hiệu quả? Trước tiên, xét về phía người rao giảng, vì họ là người đem lời chân lý của Chúa đến cho con người; nên lời của họ phải chứa đựng sự thật. Thứ đến, xét về phía người nghe, đại đa số là thường dân và không có vốn liếng văn chương nhiều để hiểu biết những lời nói bóng bảy, chải chuốt. Vì thế, ngôn ngữ các nhà giảng thuyết dùng phải làm sao cho đơn giản, trong sáng, và dễ hiểu. Hơn nữa, mục đích của việc rao giảng Tin Mừng là đưa khán giả tới niềm tin vào Thiên Chúa và thúc đẩy việc ăn năn xám hối; chứ không phải là để thưởng thức những áng văn hay phân tích văn chương. Vì thế, nhà giảng thuyết phải dùng những lời chân tình, do Thánh Thần hướng dẫn, để đánh động tâm hồn khán giả, giúp họ nhận ra tình thương Thiên Chúa, và nhận ra những yếu đuối và tội lỗi của họ, sẵn sàng cho sự hoán cải tâm hồn.
Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta những ví dụ cụ thể trong việc loan truyền Tin Mừng. Trong Bài Đọc I, khi Phaolô đến Ephesô và hỏi các tín hữu ở đây họ đã lãnh nhận Thánh Thần chưa, họ trả lời: "Ngay cả việc có Thánh Thần, chúng tôi cũng chưa hề được nghe nói." Phaolô giải thích cho họ về sự khác nhau giữa hai Phép Rửa, và khi họ đã hiểu, ông làm Phép Rửa nhân danh Đức Kitô cho họ, và họ được lãnh nhận Thánh Thần. Trong Phúc Âm, khi Chúa Giêsu biết Cuộc Thương Khó đã gần kề, Ngài xử dụng ngôn ngữ chân thành của tình yêu để giúp các Tông-đồ hiểu rõ những gì sắp xảy ra; để các ông biết cách đối phó khi phải đương đầu với tình thế.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Phaolô kiên nhẫn giáo dục các tín hữu tại Ephêsô.
1.1/ Phaolô phân biệt hai Phép Rửa: Trong thời kỳ đầu tiên của Giáo Hội, nhiều tín hữu nghĩ chỉ có một Phép Rửa duy nhất là Phép Rửa bằng nước của Gioan Tẩy Giả. Họ chưa bao giờ nghe tới Phép Rửa bằng Thánh Thần nhân danh Đức Kitô, và tại sao phải chịu Phép Rửa này, như lời các tín hữu tại Ephesô trả lời Phaolô hôm nay: "Ngay cả việc có Thánh Thần, chúng tôi cũng chưa hề được nghe nói." Hiểu biết sự thiếu thốn của dân, Phaolô kiên nhẫn mở trí cho họ:
(1) Phép Rửa bằng nước của Gioan Tẩy Giả: là Phép Rửa tỏ lòng sám hối. Ông Gioan làm Phép Rửa này để tha thứ và chuẩn bị tâm hồn cho dân để họ tin vào Đấng đến sau ông, tức là Đức Giêsu. Phép Rửa này cần thiết, nhưng không phải là Phép Rửa duy nhất.
(2) Phép Rửa bằng Thánh Thần của Chúa Giêsu: Chúa Giêsu chịu Phép Rửa bởi Gioan, nhưng không để được tha tội, vì Ngài chẳng có tội gì để được tha. Các Giáo Phụ cắt nghĩa, Chúa Giêsu chịu Phép Rửa bởi Gioan để thánh hiến Nước của sông Jordan và tất cả nước mà Giáo Hội dùng để rửa tội cho các tín hữu. Nhưng điều khác biệt chính giữa hai Phép Rửa là sự hiện diện của Thánh Thần đậu xuống trên Ngài.
Khi các tín hữu chịu Phép Rửa, họ không chỉ được tha tội, nhưng còn được thánh hóa bởi Thánh Thần. Thánh Thần thánh hóa con người bằng cách làm cho họ hiểu biết Lời Chúa, và ban những ơn thánh cần thiết để giúp họ sống xứng đáng ơn gọi của những người làm con Chúa. Chúng ta có thể nhận thấy điều này khi chứng kiến anh chị em tân tòng gia nhập đạo: họ không chỉ chịu Phép Rửa bằng nước, nhưng còn lãnh nhận Thánh Thần qua việc xức dầu, và sau cùng được lãnh nhận Bí-tích Thánh Thể trong cùng một nghi lễ. Đối với các em bé, Giáo Hội chia ra làm ba Bí-tích riêng biệt trong quá trình thành người trưởng thành của em: Rửa Tội khi ra đời, lãnh nhận Mình Chúa khi đến tuổi biết phân biệt, và Thêm Sức khi đến tuổi biết làm chứng.
1.2/ Phaolô làm Phép Rửa ban Thánh Thần cho các tín hữu: "Khi ông Phaolô đặt tay trên họ, thì Thánh Thần ngự xuống trên họ, họ nói tiếng lạ và nói tiên tri. Cả nhóm có chừng mười hai người." Nói tiếng lạ không chỉ giới hạn vào việc nói các ngôn ngữ khác nhau như các Tông-đồ trong ngày Lễ Ngũ Tuần; nhưng trải rộng trong việc nói ngôn ngữ làm cho người khác hiểu những gì mình nói: ngôn ngữ của sự thật và của tình yêu. Nói tiên tri cũng không giới hạn vào việc tiên báo những sự kiện sẽ xảy đến trong tương lai; nhưng là nói thay Chúa, loan truyền những Tin Mừng cho những người chưa được nghe Thiên Chúa nói trong cuộc đời của họ. Khi các tín hữu được nói tiếng lạ và nói tiên tri, họ không nói những lời vô nghĩa và lộn xộn như những người mất trí; nhưng là những lời sự thật và xây dựng mà các tín hữu khác có thể hiểu. Sau khi làm Phép Rửa, ông Phao-lô vào hội đường, và trong vòng ba tháng, ông mạnh dạn rao giảng, thảo luận về Nước Thiên Chúa và cố gắng thuyết phục họ.
2/ Phúc Âm: Chúng con tin Thầy từ Thiên Chúa mà đến.
2.1/ Đức tin và sự thử luyện:
(1) Chúa Giêsu nói từ tâm lòng với các môn đệ: Như chúng tôi đã đề cập trong những lần chia sẻ trước, trình thuật hôm nay nằm trong phần giáo dục dành riêng cho các môn đệ của Chúa Giêsu. Khán giả khác thì ngôn ngữ và lối suy luận dùng cũng phải khác, nhất là Chúa Giêsu không cón nhiều thời gian để dạy dỗ các ông, nên Ngài dùng ngôn ngữ của trái tim để chuẩn bị cho các ông những gì sắp xảy đến. Không lạ gì mà các ông hiểu và thưa Ngài: "Đấy, bây giờ Thầy nói rõ, chứ không còn dùng dụ ngôn nào nữa. Giờ đây, chúng con nhận ra là Thầy biết hết mọi sự, và Thầy không cần phải có ai hỏi Thầy. Vì thế, chúng con tin Thầy từ Thiên Chúa mà đến."
(2) Giờ các môn đệ có đức tin là giờ mà cả Thầy trò phải chịu thử thách. Đức Giêsu đáp: "Bây giờ anh em tin à? Này đến giờ - và giờ ấy đã đến rồi - anh em sẽ bị phân tán mỗi người mỗi ngả và để Thầy cô độc một mình. Nhưng Thầy không cô độc đâu, vì Chúa Cha ở với Thầy." Chúa Giêsu không có ý mỉa mai các môn đệ khi nói những lời này, nhưng Ngài muốn các ông hiểu hai sự thực quan trọng: Thứ nhất, đức tin cần phải được thử luyện để biết đâu là đức tin vững chắc. Thứ hai, người nào có đức tin vững chắc không bao giờ cô độc; người ấy luôn có Thiên Chúa đồng hành và vượt qua mọi thử thách của cuộc đời.
2.2/ Chúa Giêsu để lại hai nguồn bình an của Ngài cho các môn đệ.
(1) Các môn đệ được bình an khi phản bội Thầy: Làm sao chúng ta hiểu câu tuyên bố của Chúa: "Thầy nói với anh em những điều ấy, để trong Thầy anh em được bình an." Chúa biết các ông sẽ phản bội Ngài vì sợ hãi và yếu đuối trong Cuộc Thương Khó; nhưng Chúa vẫn yêu thương và trung thành với các ông. Chúa muốn nói những lời này trước khi sự phản bội xảy ra, để các ông đừng thất vọng đến chỗ tìm quyên sinh như Judah, nhưng biết tin vào sự tha thứ của Ngài.
(2) Lời hứa chiến thắng trước khi đụng trận: "Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian." Không có gì kích thích lòng nhiệt thành của các môn đệ hơn là lời hứa sẽ chiến thắng. Một khi đã nắm chắc phần thắng lợi trong tay, người môn đệ sẽ lao vào chiến trường mà không gian nguy nào có thể làm chùn chân ông.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta không cần dùng những lời lẽ văn chương bóng bảy hay chải chuốt trong việc loan báo Tin Mừng; nhưng cần những lời sự thật, đơn sơ mà mọi người đều có thể hiểu.
- Quan trọng hơn nữa là chúng ta nên dùng những lời chân tình phát xuất từ trái tim, và được sưởi ấm bởi Thánh Thần. Khán giả dễ nhận ra và đồng cảm với những người quan tâm đến cuộc sống của họ, vì Thánh Thần cũng là Người đang hoạt động trong khán giả.
- Chúng ta đừng sợ bất cứ điều gì trong hành trình rao giảng Tin Mừng, vì chúng ta tin tưởng Ba Ngôi Thiên Chúa luôn đồng hành để soi sáng, nâng đỡ và bảo vệ chúng ta.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

09/05/16 TH HAI TUN 7 PS
Ga 16,29-33


Suy nim: Nếu mt ca ci đã là s mt mát, mt sc khe là cái mt ln hơn, thì mt can đm là mt tt c. Vì thế, li Chúa hôm nay là li đy khích l cho nhng ai tin vào Chúa, đng thi gieo nim hy vng cho nhng người đang đi mt vi th thách bn phn và kh đau vì đc tin. Chúa Giê-su cho chúng ta tt c, bi Ngài  kêu gi các tín hu can đm chp nhn nhng gì xy đến cho mình. Li kêu gi này còn là mt bo chng, vì Chúa đã thng thế gian. Chúa thng thế gian, bi Ngài mnh hơn s vùng vy ca ác thn và uy quyn Ngài vượt tri s tàn phá ca ti li. Chúa đã thng thế gian, vì Ngài chi dy t cõi chết và đã sng li. Kh đau, bách hi và ngay c cái chết cũng không cưỡng bách được Ngài ri b ý đnh cu đ nhân loi; trái li, chúng càng làm cho lòng yêu mến ca Chúa Giê-su vi Chúa Cha và vi nhân loi càng thêm rõ ràng qua vic thc thi thánh ý Chúa Cha. Tình yêu và s sng li ca Chúa bo đm cho nhng ai can đm sng vi Ngài trong mi th thách.
Mi Bn: Gian nan tng làm bn nn chí, nghi ng lòng yêu thương và s quan phòng ca Thiên Chúa. Nhìn vào M Maria, bn hc được gương sáng gì khích l bn can đm tín thác vào Chúa trong hoàn cnh ca bn?
Sng Li Chúa: Ln mt tràng ht dâng lên M và xin M cho gia đình bn hay cho mt gia đình khác được can đm sng đc tin.
Cu nguyn: Xin Chúa dy con biết chiến đu mà không ngi thương tích,  biết hiến thân mà không mong ch phn thưởng nào hơn là được biết con đang thi hành thánh ý Chúa.

Thy không mt mình
Đc Giêsu không phi là người thích cô đơn, khép kín. Ngài d đến vi dân chúng, vi mi hng người. Ngài gp g h, loan Tin Vui, và cho h được tâm thân an lc. 


Suy nim:
Cô đơn trên đời là điều ai cũng sợ.
Phải chăng vì người ta không được dựng nên để sống một mình?
Chẳng phải chỉ người trẻ mới sợ cô đơn và tìm cách tránh né.
Người già cũng sợ không kém .
Người ta sợ đi về thế giới bên kia một mình.
Trong thân phận làm người, Đức Giêsu cũng phải đối diện với nỗi cô đơn.
Ngài không lập gia đình, không có một người bạn đời để chia sẻ.
Bù lại, Ngài có những người thân yêu ở làng Nazareth.
Nhưng ngay cả cha mẹ Ngài cũng không hiểu hết được Ngài (Lc 2, 50).
Khi đi rao giảng Tin Mừng, Ngài có những người bạn mới là các môn đệ.
Tiếc thay, họ không phải là những người luôn luôn hiểu Ngài.
Ngài muốn chia sẻ cho họ tất cả cái riêng tư giữa Ngài với Cha.
Nhưng họ chưa đủ sức kham nổi.
Đức Giêsu không phải là người thích cô đơn, khép kín.
Ngài dễ đến với dân chúng, với mọi hạng người.
Ngài gặp gỡ họ, loan Tin Vui, và cho họ được tâm thân an lạc.
Các bệnh nhân, tội nhân, trẻ em, phụ nữ,
cũng không ngại đến với Ngài để trò chuyện hay chia sẻ một bữa ăn.
Dù vậy tìm được một sự đồng cảm trọn vẹn nơi con người
vẫn là điều khó đối với Đức Giêsu,
bởi lẽ Ngài còn thuộc về một thế giới khác trên cao.
Ngài mãi mãi là một màu nhiệm đối với trí khôn hạn hẹp của con người.
Chỉ khi trở về với nguồn cội đời mình,
Đức Giêsu mới ra khỏi được nỗi cô đơn trống trải ấy.
“Tôi không (xét đoán) một mình, nhưng có tôi và Đấng đã sai tôi” (Ga 8, 16).
Chính vì Đức Giêsu luôn nói và làm mọi sự theo ý Cha,
nên Ngài chẳng bao giờ cô đơn .
“Đấng đã sai tôi vẫn ở với tôi; Người không để tôi một mình,
vì tôi luôn làm những điều đẹp ý Người” (Ga 8, 29).
Vào giây phút chia ly này, khi Đức Giêsu biết điều sắp xảy đến:
“Anh em sẽ bị phân tán mỗi người mỗi ngả, và để Thầy một mình.
Nhưng Thầy không một mình đâu, vì Chúa Cha ở với Thầy” (c. 32).
Đức Giêsu không cô đơn trong cuộc sống,
mà ngay cả khi Ngài kêu lớn tiếng trên thập giá :
“Lạy Thiên Chúa tôi, tại sao Chúa bỏ tôi?” (Mc 15, 34),
lúc đó lại là lúc Đức Giêsu gần Cha hơn cả, kết hợp với Cha hơn cả.
Đức Giêsu thực sự chẳng bao giờ cô đơn tuyệt đối,
vì Cha thực sự chẳng bao giờ bỏ Ngài,
và Ngài cũng chẳng bao giờ bỏ Cha.
Chúng ta xin được ơn dám chịu cô đơn trước thế gian tội lỗi,
để được một mình với Chúa.
Cầu nguyn:

Giữa những ồn ào của đám đông,
giữa những sôi nổi của thành công
và ê chề của thất bại,
xin dành một cõi rất riêng cho Giêsu.
Giữa những đam mê quay cuồng,
giữa những khát khao thèm muốn
và những trói buộc của sợ hãi, âu lo,
xin giữ một cõi rất riêng cho Giêsu.
Giữa lúc bị cuộc đời từ khước,
giữa lúc bơ vơ đi trong đêm mênh mông,
chẳng có ai để cậy dựa,
xin trở về với cõi riêng bên Giêsu,
để một mình ở đó,
trầm lắng và bình an.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
9 THÁNG NĂM
Ngài Đổi Mới Mọi Sự
Có một số nơi chốn đặc biệt mà chúng ta được dẫn tới để cảm nghiệm trong mùa Phục Sinh. Trước hết, đó là căn gác thượng ở Giê-ru-sa-lem. Căn gác thượng này đã trở thành nơi lẩn tránh cho các Tông Đồ; tại đó, Giáo Hội của những khoảnh khắc ban đầu phục sinh bắt đầu triển nở. Không lâu sau đó, căn gác ấy trở thành địa chỉ của một cuộc Xuất Hành mới – cuộc Xuất Hành của Dân Thiên Chúa trong giao ước mới đi vào thế giới. Tại nơi chốn thánh thiêng này, những lời của Sách Khải Huyền được ghi khắc: “Này đây, Ta đổi mới mọi sự” (Kh 21, 5).
Căn gác thượng này vốn cũng là nơi đánh dấu cuộc chia tay của Đức Kitô. Thật hàm súc ý nghĩa sự kiện rằng sau khi Giu-đa rời khỏi phòng Tiệc Ly, Đức Giêsu đã cho biết bằng cách nào Thiên Chúa Cha sẽ được tôn vinh nơi Người. Người cũng nói về cách thế mà chính Người sẽ được tôn vinh. Những lời ấy được Người nói ra đúng lúc mà kẻ phản bội sửa soạn cuộc giao nộp Người trong vườn.
Theo suy nghĩ thường tình nhân loại, thì người ta không kỳ vọng một diễn từ như thế. Bởi tất cả những gì sắp sửa xảy ra – theo cách nghĩ của con người – quả là một sự phủ nhận vinh quang của Đức Kitô. Người bị lăng nhục và bị hành hạ! Nhưng, lời Đức Giêsu vượt quá sự nhận hiểu nhân loại. Chúng ta nhận ra trong những lời ấy mầu nhiệm thần linh của Đức Kitô.
Nơi thập giá Đức Kitô, Thiên Chúa được tôn vinh là tình yêu và sự thật, công lý và từ bi. Thiên Chúa Cha cũng đã tôn vinh Đức Kitô, và dấu chứng của sự tôn vinh này là cuộc phục sinh của Người vào ngày thứ ba. Đó là lý do tại sao Đức Giêsu đã nói những lời ấy tại bữa tiệc chia tay. Những lời thật bất bình thường song đồng thời cũng thật tràn trề một sự thật khác: sự thật cứu độ. Nói lên những lời ấy, Người đang đổi mới mọi sự.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 09-5
Cv 19, 1-8; Ga 16, 29-33

Lời suy niệm“Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian.”
Trước những ngày Chúa Giêsu đi vào cuộc khổ nạn. Người không còn dùng dụ ngôn mà nói với các môn đệ nữa, nhưng Người nói rõ ra, để khi sự việc xãy ra các ông đã biết trước, mà vững tin với lòng trông cậy vào Người. Chính nhờ những điều được nói rõ của Người mà các môn đệ đã mạnh dạn công hai công bố: “Giờ đây chúng con nhận ra là Thầy biết hết mọi sự... vì thế, chúng con tin Thầy từ Thiên Chúa mà đến, và Thầy đã đến thế gian. Nay Thầy lại bỏ thế gian mà đến cùng Chúa Cha.
Lạy Chúa Giêsu. Đây là niềm tin của các Tông Đồ, và qua Giáo Hội, chúng con cũng nhận lãnh cùng một niềm tin này để sống và được ơn cứu độ của Chúa. Xin ban cho chúng con được ơn đức tin ngày càng trưởng thành dưới sự soi dẫn của Chúa Thánh Thần. Để chúng con sống đẹp lòng Chúa hơn.
Mạnh Phương


09 Tháng năm
Hòn Ðá Ném Ði
Văn hào Nga Leon Tonstoi có kể câu chuyện ngụ ngôn như sau: Có một người hành khất nọ đến trước cửa nhà của một người giàu có để xin bố thí. Một đồng xu nhỏ hay một miếng bánh vụn, đó là tất cả những gì người ăn xin chờ đợi nơi người giàu có. Nhưng, mặc cho người khốn khổ van xin, người giàu có vẫn ngoảnh mặt làm ngơ. Ðến một lúc không còn chịu nổi những lời van xin của người hành khất, thay vì bố thí, người giàu đã lấy đá ném vào con người khốn khổ.
Người hành khất lặng lẽ nhặt lấy hòn đá cho vào bị rồi thì thầm trong miệng: "Ta mang hòn đá này cho đến ngày nhà người sa cơ thất thế. Ta sẽ dùng nó để ném trả lại ngươi".
Ði đâu, người hành khất cũng mang theo hòn đá ấy. Tâm hồn ông lúc nào cũng cưu mang sự báo thù.
Năm tháng qua đi. Lời chúc dữ của người hành khất đã thành sự thật. Vì biển lận, người giàu có bị tước đoạt tất cả tài sản và bị tống giam vào ngục. Ngày hôm đó, người hành khất chứng kiến cảnh người ta áp giải người giàu vào tù ngục. Nỗi căm hờn sôi sục trong lòng ông. Ông đi theo đoàn người áp tải. Tay ông không rời bỏ hòn đá mà người giàu đã ném vào người ông cách đây mười mấy năm. Ông muốn ném hòn đá đó vào người tù để rửa sạch mối nhục hằng đeo đẳng bên ông. Nhưng cuối cùng, nhìn thấy gương mặt tiều tụy đáng thương của kẻ đang bị cùm tay, người hành khất thả nhẹ hòn đá xuống đất rồi tự nhủ: "Tại sao ta lại phải mang nặng hòn đá này từ bao nhiêu năm qua? Con người này, giờ đây, cũng chỉ là một con người khốn khổ như ta".
Tha thứ là điều khó khăn nhất nhưng cũng là điều cao cả nhất mà Kitô Giáo đã cống hiến cho con người.
Trao ban tiền của, trao ban thì giờ, trao ban chính mạng sống mình là điều xem ra dễ làm hơn trao ban lòng tha thứ. Tha thứ là tuyệt đỉnh của yêu thương bởi vì tha thứ là yêu thương chính kẻ thù của mình. Của lễ hy sinh trên thập giá củaChúa Giêsu đã nên trọn khi Ngài thưa với Chúa Cha: "Lạy Cha, xin tha thứ cho chúng, vì chúng lầm không biết việc chúng làm".
Tha thứ là của lễ đẹp lòng Chúa nhất, bởi vì qua đó, con người được nên giống Thiên Chúa hơn cả. Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta là Thiên Chúa tha thứ và tha thứ không ngừng. Và chỉ có một Thiên Chúa tha thứ không ngừng ấy mới có thể đòi hỏi con người phải tha thứ không ngừng...
Tha thứ là nét cao đẹp nhất của lòng người, bởi vì càng tha thứ, con người càng nên giống Thiên Chúa.
(Lẽ Sống)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét