12/05/2016
Thứ Năm tuần 7 Phục Sinh
Bài Ðọc
I: Cv 22, 30; 23, 6-11
"Con
phải làm chứng về Ta tại Rôma".
Trích
sách Tông đồ Công vụ.
Trong
những ngày ấy, toà án muốn biết đích xác người Do-thái tố cáo Phaolô về tội gì,
nên cởi trói cho ngài, và truyền lệnh cho các thượng tế và toàn thể công nghị họp
lại, rồi dẫn Phaolô đến đứng trước mặt họ. Phaolô biết có một số người thuộc
phe Sađốc, và một số khác thuộc phe biệt phái, nên kêu lớn tiếng giữa công nghị
rằng: "Thưa anh em, tôi là biệt phái, con của người biệt phái, tôi bị xét
xử vì niềm hy vọng và vì sự sống lại của những người đã chết". Ngài vừa
nói thế, thì xảy ra sự bất đồng ý kiến giữa các người biệt phái và Sađốc, và hội
đồng đâm ra chia rẽ. Vì các người Sađốc cho rằng không có sự sống lại, không có
thiên thần và thần linh; còn các người biệt phái thì tin tất cả điều đó. Tiếng
la lối inh ỏi, và có mấy người biệt phái đứng lên bênh vực rằng: "Chúng
tôi không thấy người này có tội gì; và nếu thần linh hay thiên thần nói với người
này thì sao?" Cuộc tranh luận đã đến hồi gây cấn, viên quản cơ sợ Phaolô bị
phân thây, nên sai lính xuống kéo ngài ra khỏi họ và dẫn về đồn.
Ðêm
sau, Chúa hiện đến cùng ngài và phán: "Hãy can đảm lên! Con đã làm chứng về
Ta tại Giêrusalem thế nào, thì cũng phải làm chứng về Ta tại Rôma như vậy".
Ðó là
lời Chúa.
Ðáp Ca:
Tv 15, 1-2a và 5. 7-8. 9-10. 11
Ðáp: Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con
tìm nương tựa Chúa (c. 1).
Hoặc
đọc: Alleluia.
Xướng:
1) Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa. Con thưa cùng Chúa:
Ngài là chúa tể con; Chúa là phần gia nghiệp và phần chén của con, chính Ngài nắm
giữ vận mạng của con. - Ðáp.
2)
Con chúc tụng Chúa vì đã ban cho con lời khuyên bảo, đó là điều lòng con tự nhủ,
cả những lúc đêm khuya. Con luôn luôn đặt Chúa ở trước mặt con, vì Chúa ngự bên
hữu con, con sẽ không nao núng. - Ðáp.
3) Bởi
thế, lòng con vui mừng và linh hồn con hoan hỉ, ngay cả đến xác thịt của con
cũng nằm nghỉ an toàn, vì Chúa chẳng bỏ rơi linh hồn con trong Âm phủ, cũng
không để thánh nhân của Ngài thấy điều hư nát. - Ðáp.
4)
Chúa sẽ chỉ cho con biết đường lối trường sinh, sự no đầy hoan hỉ ở trước thiên
nhan, sự khoái lạc bên tay hữu Chúa, tới muôn muôn đời! - Ðáp.
Alleluia:
Ga 14, 18
Alleluia,
alleluia! - Chúa phán: "Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi: Thầy sẽ đến với
các con và lòng các con sẽ vui mừng". - Alleluia.
Phúc
Âm: Ga 17, 20-26
"Xin
cho chúng nên một".
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy,
Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện rằng: "Con không cầu xin cho
chúng mà thôi, nhưng còn cho tất cả những kẻ, nhờ lời chúng mà tin vào Con, để
mọi người nên một, cũng như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để cả chúng
cũng nên một trong Ta, để thế gian tin rằng Cha đã sai Con. Con đã ban cho
chúng vinh hiển mà Cha đã ban cho Con, để chúng nên một như Chúng Ta là một.
Con ở trong chúng, và Cha ở trong Con, để chúng được hoàn toàn nên một và để thế
gian biết rằng Cha đã sai Con, và Con đã yêu mến chúng như Cha đã yêu mến Con.
Lạy Cha, những kẻ Cha ban cho Con thì Con muốn rằng Con ở đâu, chúng cũng ở đấy
với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con, vì Cha đã yêu
mến Con trước khi tạo thành thế gian. Lạy Cha công chính, thế gian đã không biết
Cha, nhưng Con biết Cha, và những người này cũng biết rằng Cha đã sai Con. Con
đã tỏ cho chúng biết danh Cha, và Con sẽ còn tỏ cho chúng nữa, để tình Cha yêu
Con ở trong chúng, và Con cũng ở trong chúng nữa".
Ðó là
lời Chúa.
Suy Niệm:
Cầu Cho Hiệp Nhất
Có một
câu chuyện cổ được kể lại như sau: trong một cuộc họp tất cả các muông thú rừng
xanh, dòng nhà cọp đã dành được ngôi vị chúa sơn lâm nhờ vào sức mạnh và bản
tính hung dữ của chúng. Ngày kia, cọp gặp người thợ săn, trước khi buông phát
tên, người thợ săn nói với cọp: "Hỡi chúa sơn lâm, hãy đón nhận các điều
mà con người gửi đến cho các muông thú". Và một phát tên đã cắm phập vào
lưng cọp, quá đau đớn nên cọp đã chạy vào rừng rậm.
Thấy
cọp bỏ chạy, một con sói già hỏi tại sao? Cọp lắc đầu đáp: "Chỉ một lời
con người muốn nói với chúng ta mà đã làm cho ta đau đớn đến thế này, thì làm
sao ta có thể chống lại được bọn họ". Sói già an ủi cọp: "Ðiều suy
nghĩ của chúa sơn lâm thật thực tế, tuy nhiên chúa sơn lâm đã quên một điều là
nếu tất cả các muông thú rừng xanh đoàn kết lại, chúng ta có thể chống lại con
người. Tỉ như họ hàng nhà sói chúng tôi tuy sức mạnh không bằng chúa sơn lâm,
nhưng một bầy sói vẫn có thể nuốt trọn tên thợ săn". Ý kiến thật hay, tuy
nhiên thú rừng vẫn cứ bị tiêu diệt vì chẳng bao giờ chúng học được hai chữ
"đoàn kết - hợp nhất".
Anh
chị em thân mến!
Trước
khi từ giả các môn đệ để về cùng Cha, Chúa Giêsu biết rằng những kẻ theo Ngài sẽ
bị thế gian ghét bỏ và vì quyền lực của sự dữ tấn công. Nếu đơn độc chiến đấu,
chắc chắn họ sẽ thất bại cũng như nguyên tổ của họ đã thất bại. Nếu con người
thua trận lần nữa thì việc cứu chuộc của Chúa Giêsu trở thành luống công vô
ích. Bởi thế mà Ngài đã cầu nguyện cho họ "như Cha ở trong Con và Con ở
trong Cha". Chúa Giêsu không cầu xin cho họ có sức mạnh, vì sức mạnh thường
đưa con người vào nguy cơ ỉ lại vào chính mình, không còn biết đến ai và lúc
đó, con người trở thành hòn đảo cô độc.
Ngài
cũng không cầu xin cho con người có quyền lực, vì quyền lực dễ đưa con người
vào hố sâu của tham vọng, tham vọng thống trị, buộc người khác phải phục vụ
mình, tham vọng giàu sang đã có quyền lại có thế để rồi từ đây sẽ phát sinh ra
biết bao nhiêu tham vọng khác.
Hẳn
thật, sức mạnh và quyền lực sẽ chóng giúp con người từ thành đạt đến thành
công. Có được hai yếu tố này, mọi tổ chức chẳng lo gì phải thất bại, Vậy mà khi
cầu nguyện cho Giáo Hội, cộng đoàn của những kẻ nhờ lời các tông đồ mà tin, thì
Chúa Giêsu lại không xin cho Giáo Hội được phát triển bằng sức mạnh và quyền lực,
nhưng Ngài chỉ xin cho tất cả được hiệp nhất trong Ngài và hiệp nhất với nhau,
để Ngài ở đâu thì họ cũng được ở đó, và để họ được chiêm ngưỡng vinh quang
Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã đem lửa xuống trần gian và Ngài hằng ao ước cho lửa ấy
cháy lên. Ngài vẫn luôn mong mỏi cả thế gian tin nhận rằng: Ngài là Ðấng Cứu Thế
duy nhất.
Tuy
nhiên, con đường Ngài đi và phương thế Ngài dùng lại hoàn toàn khác biệt, tất cả
được gói trọn trong hai chữ "Yêu Thương - Phục Vụ". Bởi thế, muốn phản
chiếu hình ảnh trung thực của Chúa Giêsu, không gì hiệu nghiệm cho bằng sống
yêu thương - hiệp nhất.
Lời mời
gọi của Chúa Giêsu tuy đơn giản nhưng lại rất khó thực hiện, Bởi vì bao lâu còn
góc cạnh là bấy lâu chẳng thể đặt sát gần nhau và nếu chỉ một phía cắt bỏ các
góc cạnh mà thôi thì vẫn còn xa cách. Sự hiệp nhất chỉ được phát sinh từ những
cố gắng của mọi phía. Chẳng thể ngồi chờ đợi kẻ khác, còn tôi cứ đóng khung
trong các chứng tật cố hữu của mình, xem như chẳng liên quan đến ai cả.
Lạy
Chúa, khi đã trở thành phần tử trong nhiệm thể Chúa Kitô, chắc chắn mỗi người
trong chúng con không thể đứng riêng rẽ một mình, nhưng phải liên kết với nhau
để thông truyền sức sống. Muốn liên kết chúng con phải cắt bỏ những chứng tật cố
hữu, phải hy sinh trong mọi lúc. Thế nhưng, nhờ những hy sinh này, chúng con sẽ
nên một trong Chúa và sẽ được chiêm ngắm quyền năng vinh quang Chúa hành động.
Amen.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Năm Tuần VII PS
Bài đọc: Acts 22:30, 23:6-11: Jn
17:20-26.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chia rẽ và hiệp nhất
Hiệp nhất là điều ao ước của con người cho gia đình, cộng đoàn, Giáo Hội, và toàn thế giới. Nhưng sự hiệp nhất hệ tại điều gì? Có phải là cùng chung một màu da hay nói cùng một ngôn ngữ? Nếu hiệp nhất chỉ cần như thế, thì đã không có những cuộc nội chiến tương tàn như chiến tranh Nam-Bắc tại Việt Nam! Có phải là mang cùng một tên gọi? Nếu thế, đã không có quá nhiều giáo phái giữa các Kitô hữu! Hay tin
vào cùng một Chúa? Cả ba tôn giáo độc thần: Do-thái, Kitô Giáo, và Hồi Giáo đều tin vào một Chúa mà vẫn không hiệp nhất với nhau! Các Đức Giáo Hoàng sau này đã kêu gọi và cổ võ cho sự hiệp nhất bằng cách chú trọng nhiều đến điểm tương đồng giữa các tôn giáo, để cùng nhau làm việc và làm cho mọi người nhận biết Thiên Chúa.
Các Bài Đọc hôm nay cho
chúng ta thấy sự hiệp nhất hòan hảo phải đặt căn bản trên sự thật và yêu thương quí trọng nhau.
Trong Bài Đọc I, Phaolô tuy là người rao giảng về hiệp nhất về nền học thần học thân thể, đã nói những lời gây ra cuộc ẩu đả dữ dội giữa hai phái Pharisees và Saduccees. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu chú trọng đến việc làm theo thánh ý Thiên Chúa và yêu thương. Đây là hai điều căn bản xây dựng sự hiệp nhất.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Chính vì hy vọng rằng kẻ chết sẽ sống lại mà tôi bị đưa ra xét xử.
1.1/ Phaolô gây chia rẽ giữa những người Pharisees và Saduccees trong THĐ:
(1) Sự sống lại: Phaolô rất tinh ý. Ông biết cả hai giáo phái đều chống ông về niềm tin vào Đức Kitô, nên ông không đề cập trực tiếp đến Đức Kitô; nhưng ông đề cập đến sự sống lại mà hai giáo phái khác biệt nhau, nên ông nói lớn tiếng giữa hội nghị: "Thưa anh em, tôi là người Pharisee, thuộc giòng dõi Pharisees; chính vì hy vọng rằng kẻ chết sẽ sống lại mà tôi bị đưa ra xét xử."
(2) Hậu quả của những gì Phaolô nói: Ông vừa nói thế, thì người
Pharisees và người Saduccees chống đối nhau, khiến hội nghị chia rẽ. Thật vậy, người Saduccees chủ trương rằng chẳng có sự sống lại, chẳng có thiên sứ hay quỷ thần; còn người Pharisees thì lại tin là
có.
Người ta la lối om sòm. Có mấy kinh sư thuộc phái Pharisees đứng lên phản đối mạnh mẽ: "Chúng tôi không thấy người này có gì là xấu. Biết đâu một vị thần hay một thiên sứ đã nói với ông ấy?" Hai bên chống đối gay gắt đến nỗi vị chỉ huy sợ người ta xé xác ông Phaolô, nên mới ra lệnh cho lính xuống lôi ông ra khỏi đám người đó mà đưa về đồn.
1.2/ Niềm tin của Phaolô vào sự sống lại: Một người có thể trách Phaolô đã gây chia rẽ trong THĐ, và đã không là sứ giả mang hòa bình tới cho mọi người; nhưng Phaolô
hoàn toàn có lý khi làm như thế vì những lý do sau:
+ Hiệp nhất lý tưởng là hiệp nhất trong sự thật; chứ không hiệp nhất trong sự gian dối. Những người trong THĐ đã không theo hướng dẫn của Lề Luật khi xét xử Chúa Giêsu, Phêrô, Phaolô, và các môn đệ của Ngài. Một THĐ gồm những người như thế, con người không buộc phải tuân theo, như Phêrô và Gioan đã từng nói: "Chúng tôi phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người đời." Phaolô không nói điều gì gian dối, nhưng hoàn toàn đúng theo sự thật: Ông tin có sự sống lại, và chính vì điều này mà ông vào tin Đức Kitô, khi Ngài hiện ra khuyến cáo ông trên đường ngã ngựa tại Damascus. Sự sống lại là nền tảng chính yếu cho đức tin của Kitô Giáo, đến nỗi Phaolô đã phải nói mạnh: "Nếu Đức Kitô không sống lại, niềm tin của chúng ta sẽ ra vô ích."
+ Hiệp nhất đòi con người phải công bằng: Người Kitô hữu không phải ngây thơ đến độ "cứ đưa má cho người ta vả;" nhưng có lúc họ phải chất vấn những người bắt nạt, như Chúa Giêsu đã chất vấn viên sĩ quan của Thượng Tế, khi hắn vả mặt Ngài: "Nếu Ta nói sai, hãy chứng minh; nếu ta nói phải, sao ngươi đánh
Ta" (Jn 18:22)?
+ Hiệp nhất đòi người môn đệ phải khôn ngoan: Phaolô biết cách phân tán lực lượng của kẻ thù; đồng thời ông cũng biết cách đặt vấn đề cho con
người phải suy nghĩ. Chính Chúa Giêsu cũng hài lòng về những gì ông làm, khi "đêm ấy Chúa đến bên ông Phaolô và nói: "Hãy vững lòng! Con đã long trọng làm chứng cho Thầy ở Jerusalem thế nào, thì con cũng phải làm chứng như vậy tại Rôma nữa.""
2/ Phúc Âm: Để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha.
2.1/ Mô hình lý tưởng của sư hiệp nhất: Sự hiệp nhất giữa Ba Ngôi Thiên Chúa.
+ Hiệp nhất trong sự thật: mọi người cùng chung một niềm tin vào Đức Kitô. Đây là lời cầu nguyện của Chúa Giêsu cho hết mọi người, trong đó có chúng ta, những người đã tin vào Ngài: "Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con, để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha
để họ cũng ở trong chúng ta. Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai con." Trong lời cầu nguyện này, chúng ta thấy biểu lộ một niềm tin không lay chuyển của Chúa Giêsu vào Thiên Chúa và vào con người, cho dẫu Ngài đã thấy trước sự phản bội của các môn đệ trong Cuộc Thương Khó. Ngài tin các môn đệ, sau khi đã trải qua sóng
gió, sẽ nhận ra sự thật, sẽ tin và làm chứng cho Ngài.
+ Hiệp nhất trong tình yêu: mọi người cùng chung một tình yêu đến từ Thiên Chúa. Chúa Giêsu biết rõ hai điều căn bản cho sự hiệp nhất là sự thật và tình yêu, nên Ngài cầu xin với Chúa Cha:
"Phần con, con
đã ban cho họ vinh
quang mà Cha đã ban cho con, để họ được nên một như chúng ta là một: Con ở trong họ và Cha ở trong con, để họ được hoàn toàn nên một; như vậy, thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con và đã yêu thương họ như đã yêu thương con." Tình yêu phải là đồng phục của hiệp nhất: các tín hữu có thể khác biệt về những điều khác, nhưng phải cùng một tình yêu, như Chúa đã nhấn mạnh: "Người ta cứ dấu này, mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau" (Jn 13:35).
2.2/ Vinh quang của Chúa Cha ban cho
Chúa Giêsu: Tình yêu đòi hỏi sự hiệp nhất với nhau trong mọi nơi và mọi lúc, khi
vinh quang cũng như lúc gian khổ. Chúa Giêsu cầu xin Chúa Cha liên kết Ngài với các môn đệ luôn: "Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu thương con trước khi thế gian được tạo thành."
Vinh quang Thiên Chúa đã ban cho Chúa Giêsu là những điều gì?
(1) Thập Giá là vinh quang của Chúa Giêsu: Theo Gioan, khi chịu treo trên Thập Giá là lúc Chúa Giêsu được vinh quang. Thiên Chúa cũng được vinh
quang vì Kế Hoạch Cứu Độ của Ngài hoàn tất. Con người cũng được vinh
quang vì từ nay con người không ở dưới ách của tử thần nữa. Vì thế, khi các môn đệ chịu đựng đau khổ vì Chúa Giêsu, họ mang lại vinh quang cho chính họ và cho Thiên Chúa.
(2) Hoàn toàn vâng lời làm theo thánh ý Thiên Chúa là vinh quang của Chúa Giêsu: Trong giờ phút hấp hối ở Vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu đã cầu nguyện để làm theo thánh ý Thiên Chúa. Vì thế, vượt qua mọi gian khổ để chu toàn thánh ý Thiên Chúa, làm Chúa Giêsu được vinh
quang.
(3) Làm cho các môn đệ nhận biết Chúa là vinh quang: "Con đã cho họ biết danh Cha, và sẽ còn cho họ biết nữa, để tình Cha đã yêu thương con, ở trong họ, và con cũng ở trong họ nữa."
Khi các môn đệ làm cho mọi người nhận biết Thiên Chúa, họ làm cho Danh
Chúa được cả sáng.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Để có hiệp nhất trong gia đình và cộng đoàn, chúng ta cần biết sống theo sự thật và yêu thương nhau bằng tình yêu Thiên Chúa.
- Mỗi con người đều có ý kiến khác nhau. Điều làm cho con người liên kết với nhau là cùng làm theo ý Thiên Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
12/05/16 THỨ NĂM TUẦN 7 PS
Th. Nê-rê-ô và A-ki-lê-ô, tử đạo
Ga 17,20-26
Th. Nê-rê-ô và A-ki-lê-ô, tử đạo
Ga 17,20-26
Suy niệm: Chỉ trong một đoạn ngắn Chúa Giê-su lập lại tới hai lần cũng một lời nguyện xin này: “Xin cho chúng nên một trong chúng ta.” Và Ngài
còn nói thêm đó là điều kiện để thế gian tin nhận Chúa. Trong Giáo Hội vẫn tồn tại một gương xấu lớn, đó là sự chia rẽ giữa các Ki-tô hữu. Công giáo Rô-ma, Chính thống giáo, các hệ phái Tin Lành, Anh giáo, tất cả đều tuyên xưng Đức Giê-su Ki-tô là Đấng Cứu Độ mà lại chia rẽ nhau, sự chia rẽ đã kéo dài cả thiên niên kỷ vẫn chưa hàn gắn được. Như thế thì thế gian làm sao tin được Chúa Giê-su Ki-tô được Chúa Cha sai đến để làm Đấng Cứu Độ trần gian?
Mời Bạn: Hằng năm có một tuần lễ cầu nguyện cho các Ki-tô hữu hiệp nhất. Bạn có biết tuần lễ đó vào ngày tháng nào không? Và quan trọng hơn, bạn có cảm thấy ưu tư vì sự chia rẽ vẫn còn tồn tại như một gương xấu lớn trong Giáo Hội không? Và nhất là bạn đã có ý thức làm một cái gì đó tốt đẹp để các Ki-tô hữu đang chia rẽ được xích lại gần nhau hơn không?
Chia sẻ: Theo bạn, phải làm gì cụ thể để bắt đầu công cuộc hiệp nhất này?
Sống Lời Chúa: Rủ một bạn nữa đi thăm một người anh em Ki-tô hữu khác (Tin Lành… chẳng hạn).
Cầu nguyện: Hát hoặc đọc: Lạy Cha xin hãy cho mọi người hiệp nhất nên một, như Cha ở trong con và như con ở trong Cha. Xin Cha cho mọi người nên một trong chúng ta, hầu cho thế gian tin rằng Cha đã sai con.
Để họ được nên một
Chúng ta cầu cho sự hiệp nhất yêu thương giữa các Kitô hữu trên thế giới. Nếu một phần ba dân số thế giới sống nên một trong yêu thương, hai phần ba còn lại sẽ sống trong hạnh phúc bình an.
Suy
niệm:
Bài
Tin Mừng hôm nay là phần cuối của Lời Nguyện sau Tiệc Ly.
Đức
Giêsu cầu nguyện, không phải cho các môn đệ đang hiện diện,
nhưng
cho các môn đệ tương lai, là chính chúng ta,
những
người tin nhờ nghe lời giảng của các môn đệ đi trước (c.20).
Hôm
nay Đức Giêsu là Thượng Tế trên trời, là Đấng Trung Gian duy nhất,
vẫn
dâng lên Chúa Cha lời nguyện tương tự.
Ngài
nhìn thấy một phần ba dân số thế giới là Kitô hữu, hơn hai tỷ người.
Ngài
nhìn thấy những người theo Công Giáo gồm hơn một tỷ,
theo
Chính Thống giáo, Tin Lành, Anh giáo và bao giáo phái khác.
Ngài
xin Cha cho họ nên một, như Cha và Con là một (c. 22).
Đức
Giêsu đã xin cho các môn đệ đang hiện diện bên Ngài
được
nên một “như chúng ta” (Ga 17, 11b).
Bây
giờ Ngài xin cho các môn đệ tương lai cũng được nên một.
Sự
hiệp nhất nên một giữa Cha và Con
vừa
là khuôn mẫu, vừa là nguồn mạch cho sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu.
“Để
tất cả nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha” (c. 21).
Cha
và Con ở trong nhau, đó là mẫu mực cho sự hiệp nhất.
Chúng
ta được mời gọi ở trong nhau khắng khít như Cha và Con.
Điều
này không thể thực hiện được, nếu chúng ta không được đưa vào
trong
mối tương quan thân thiết giữa Cha và Con:
“để
họ cũng ở trong Chúng Ta” (c. 21).
Các
Kitô hữu chỉ hiệp nhất khi họ được sống trong nguồn hiệp nhất
là
sự ở trong nhau giữa Cha và Con.
Trong
Lời Nguyện của Đức Giêsu, ta thấy có một tương quan ba chiều
giữa
Cha, Con và các môn đệ.
“Con
ở trong họ và Cha ở trong Con…
Cha
đã yêu thương họ như đã yêu thương Con” (c. 23).
“Tình
Cha đã yêu thương Con ở trong họ, và Con cũng ở trong họ nữa” (c.26).
Tương
quan này sâu lắng đến mức có sự ở lại trong nhau thật sự
giữa
Cha, Con và các môn đệ là chính chúng ta.
Tuy
vậy ít khi chúng ta dám nghĩ mình có tương quan gần gũi đến thế
với
thế giới siêu việt của Cha và Con.
Nhưng
Đức Giêsu còn nói đến tương quan giữa các môn đệ với thế gian.
Chỉ
khi có sự hiệp nhất giữa các môn đệ, lúc đó mới hy vọng
“Thế
gian sẽ tin rằng Cha đã sai Con” (c. 21),
“Thế
gian sẽ nhận biết rằng Cha đã sai Con (c. 23).
Chúng
ta cầu cho sự hiệp nhất yêu thương giữa các Kitô hữu trên thế giới.
Nếu
một phần ba dân số thế giới sống nên một trong yêu thương,
hai
phần ba còn lại sẽ sống trong hạnh phúc bình an.
Cầu
nguyện:
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi là Đấng con tôn thờ,
xin
giúp con quên mình hoàn toàn
để ở
lại trong Chúa.
lặng
lẽ và an bình
như
thể hồn con đã sống trong vĩnh cửu.
Lạy Đấng thường hằng bất biến,
mong
sao không gì có thể khuấy động
sự
bình an của con,
hay
làm cho con ra khỏi Chúa;
nhưng
ước chi mỗi phút lại đưa con
tiến
xa hơn vào chiều sâu của mầu nhiệm Chúa !
Xin làm cho hồn con bình an thanh thản,
xin
biến hồn con thành chốn trời cao,
thành
nơi cư ngụ dấu yêu của Chúa,
nơi
Chúa nghỉ ngơi.
Ước chi
con
không bao giờ để Chúa ở đó một mình
nhưng
con luôn có mặt, với trọn cả con người,
với
thái độ nhạy bén trong đức tin,
cung
kính tôn thờ
và
phó mình cho Chúa sáng tạo.
(Lời
nguyện của chân phước Elisabeth de Trinité)
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
12 THÁNG NĂM
Mệnh Lệnh Cuối Cùng
“Mọi quyền hành trên trời và dưới đất đã được trao cho Thầy” (Mt
28, 18). Vào ngày thứ bốn mươi sau phục sinh, sự sống mới nơi Đức Kitô biểu
hiện chiều kích thiêng liêng của nó vượt quá thời gian. Ngày Thăng Thiên, trọn
vẹn uy quyền của Đức Kitô Phục Sinh đã được mở ra cho thấy. Đó là “uy quyền
trên trời và dưới đất”. Sức mạnh và uy quyền đó, Đức Kitô đã có từ muôn thuở,
vì Người là Con đồng bản tính với Chúa Cha. Giê-su Na-da-rét, trong tư cách là
một con người, đã chiến thắng xuyên qua thập giá của Người; và Thiên Chúa Cha
đã trao cho Người mọi quyền uy và sức mạnh. Quyền hành ấy đến từ sức mạnh cứu
độ.
Và với quyền hành ấy, Đức Kitô đã trao cho các Tông Đồ mệnh lệnh
cuối cùng của Người trên dương thế: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở
thành môn đệ, làm phép Rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh
Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở
cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế!” (Mt 28, 19 – 20). Sứ mạng của các Tông
Đồ là rao giảng Tin Mừng: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Ga 20,
21).
Khi chúng ta nghe những lời ấy, những lời chứa đầy sức mạnh cứu
độ của Đức Kitô, chúng ta nghĩ ngay đến Nhóm Mười Hai là những người đầu tiên
đã nghe lệnh truyền ấy.
Nhưng chúng ta không thể tách rời mệnh lệnh này trong biến cố
Thăng Thiên ra khỏi hoa trái của nó trong đời sống Giáo Hội và trong lịch sử
của các quốc gia và các dân tộc. Hoa trái đó là sự cứu rỗi các linh hồn.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 12 - 5
Cv 22, 1-30; 23,6-11; Ga 17,
20-26.
LỜI
SUY NIỆM: “Con
không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà
tin vào Con”.
Chúa
Giêsu là Con Một yêu dấu của Chúa Cha, Người đẹp lòng Chúa Cha mọi đàng. Những
lời cầu nguyện của Chúa Giêsu chắc chắn được Chúa Cha nhậm lời. Chúa Giêsu
không những cầu nguyện cho các Tông Đồ yêu dấu của Người, nhưng Người còn cầu
nguyện cho tất cả chúng ta là những con người đã được các Tông Đồ truyền lại đức
tin đó, và đã chịu phép Rửa Tội.
Lạy
Chúa Giêsu. Tất cả chúng con đang sống trong lời cầu nguyện của Chúa. Xin cho mọi
thành viên trong gia đình chúng con luôn hiệp thông với Chúa trong lời cầu nguyện
này để được sống an lành trong tình yêu thương ơn cứu độ của Chúa.
Mạnh
Phương
12
Tháng Năm
Danh Dự Cho Ai
Văn
sĩ Pháp Alexandre Piron qua đời năm 1773, thường có thói quen đi dạo trong khu
rừng Boulogne giữa thủ đô Paris. Một ngày nọ, ông ngồi nghỉ trên một ghế đá tựa
vào một bức tường.
Chỉ
một lát sau, ông ngạc nhiên vô cùng, vì trong đám đông những người đang đi dạo
trong khu rừng, một vài người đến gần ông, ngả nón chào. Cũng có một vài người
bái cả gối nữa. Nhà văn mỉm cười đáp lễ cảm tình mà khách qua lại dành cho ông.
Ông không ngờ rằng ông được nhiều người mến mộ đến như thế. Ông mong sao một số
bạn bè trong văn giới chứng kiến được cảnh tượng này để thấy được vinh quang mà
ông đã đạt được...
Nhà
văn đang say với bã vinh hoa thì chợt trong đám người đang bái chào ông, một
lão bà để lộ một thái độ khác thường. Cũng giống như mọi người khác, bà lão cúi
chào, rồi tiến đến gần ghế đá. Bà thì thầm nói trong miệng mà nhà văn không hiểu
được, rồi ngước mắt nhìn lên cao. Ngạc nhiên trước cử chỉ khác thường của bà
lão, nhà văn cũng đưa mắt nhìn lên cao phía trên tường. Lúc bấy giờ ông mới
khám phá ra rằng trên đầu ông có một tượng thánh giá... Thì ra, những người đi
dạo trong khu rừng Boulogne này dừng lại không phải để tỏ lòng mộ mến đối với
ông, mà chính là tỏ lòng cung kính đối với Chúa Giêsu trên thập giá.
Hổ
thẹn vì sự khám phá ấy, Alexandre Piron đứng dậy bỏ đi nơi khác.
Sở dĩ
Chúa Giêsu đã có thái độ gay gắt đối với những người biệt phái giả hình, là bởi
vì họ muốn chiếm đoạt chính Vinh dự của Thiên Chúa. Họ cũng giống như văn sĩ
Alexandre Piron trong câu chuyện trên đây: người ta đến bái chào Chúa Giêsu
trên thập giá, nhưng ông lại muốn dành cho mình vinh dự ấy. Những người biệt
phái giả hình cũng giống như con lừa mà Chúa Giêsu dùng để cưỡi vào thành
Giêrusalem. Giữa những tiếng reo hò dân chúng dành cho Chúa Giêsu, con lừa cứ
nghĩ rằng nó là một anh hùng oai phong lẫm liệt...
Khao
khát danh vọng, quyền bính là đam mê chung của mọi người. Ai cũng thích xuất hiện
trước công chúng, ai cũng thích được người đời ca tụng, ai cũng thích được phục
vụ. Một cách nào đó, người tham vọng không những dùng người khác như bàn đạp,
mà còn tước đoạt chính Vinh quang của Chúa...
Chúa
Giêsu là con người đã sống trọn vẹn cho tha nhân và do đó cũng quy mọi vinh dự
về cho Thiên Chúa. Thánh Phaolô đã nói với chúng ta rằng: là Thiên Chúa, Ngài
đã không đòi cho được đồng hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hủy bỏ mình đi để mặc
lấy thân phận con người và vâng phục cho đến chết.
Chúa
Giêsu đã vạch cho chúng ta con đường được sống trọn vẹn ơn gọi làm người: đó là
sống cho Thiên Chúa. Chỉ khi nào con người sống cho Thiên Chúa, thuộc về Thiên
Chúa trong tất cả mọi sự, con người mới đạt được chính cùng đích của mình. Sống
cho Thiên Chúa là luôn tìm thấy Thánh ý của Ngài, là hoạt động cho vinh quang của
Ngài, là trở thành khí cụ trong bàn tay của Ngài...
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét