Trang

Thứ Tư, 4 tháng 5, 2016

95-05-2016 : THỨ NĂM - TUẦN VI PHỤC SINH

05/05/2016
Thứ Năm đầu tháng tuần 6 Phục Sinh.

Bài Ðọc I: Cv 18, 1-8
"Ngài cư trú và làm việc tại nhà họ, và giảng trong hội đường".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, Phaolô rời Athêna đi Côrintô; ngài gặp một người Do-thái tên là Aquila, quê ở Pontô, vừa từ đất Ý-đại-lợi đến làm một với vợ là Priscilla (bởi vì vua Clauđiô đã ra lệnh trục xuất mọi người Do-thái khỏi Roma); Phaolô đến gặp họ. Và vì chung một nghề, nên ngài cư trú và làm việc tại nhà họ: họ làm nghề dệt bố để làm nhà lều. Mỗi ngày Sabbat, ngài đến tranh luận tại hội đường, nêu danh Chúa Giêsu, thuyết phục người Do-thái và Hy-lạp.
Khi Sila và Timôthêu từ Macêđônia đến, Phaolô chỉ chuyên lo việc giảng dạy, minh chứng cho người Do-thái biết Chúa Giêsu là Ðức Kitô. Nhưng họ công kích và lăng mạ Ngài, nên ngài dũ áo nói với họ: "Máu các ngươi đổ trên đầu các ngươi. Phần tôi, tôi vô can, từ đây, tôi sẽ đến với dân ngoại".
Ngài ra khỏi chỗ đó, vào nhà một người kia tên là Titô Giustô có lòng kính sợ Chúa, nhà ông ở bên cạnh hội đường. Bấy giờ Crispô trưởng hội đường, và cả nhà ông tin theo Chúa; nhiều người Corintô nghe giảng, cũng tin theo và chịu phép rửa.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 97, 1. 2-3ab. 3cd-4
Ðáp: Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người trước mặt chư dân (c. 2b).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu. Tay hữu Người đã tạo cho Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người. - Ðáp.
2) Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người, trước mặt chư dân, Người tỏ rõ đức công minh. Người đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành để sủng ái nhà Israel. - Ðáp.
3) Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hỉ, mừng vui và đàn ca. - Ðáp.

Alleluia: Ga 16, 28
Alleluia, alleluia! - Thầy bởi Cha mà ra, và đã đến trong thế gian; bây giờ Thầy lại bỏ thế gian mà về cùng Cha. - Alleluia.

Phúc Âm: Ga 16, 16-20
"Các con sẽ buồn sầu, nhưng nỗi buồn của các con sẽ trở thành niềm vui".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Một ít nữa các con sẽ không thấy Thầy, rồi lại một ít nữa các con sẽ thấy Thầy, vì Thầy về cùng Cha".
Bấy giờ trong các môn đệ có mấy người hỏi nhau: "Ðiều Người nói với chúng ta: "Một ít nữa các con sẽ không thấy Thầy, rồi lại một ít nữa các con sẽ thấy Thầy", và "Vì Thầy về cùng Cha", như thế có ý nghĩa gì?" Họ nói: "Lời Người nói 'Một ít nữa' có ý nghĩa gì? Chúng ta không biết Người muốn nói gì?"
Chúa Giêsu nhận thấy họ muốn hỏi Người, nên Người bảo họ: "Các con hỏi nhau vì Thầy đã nói: Một ít nữa các con sẽ không thấy Thầy, rồi lại một ít nữa các con sẽ thấy Thầy. Thật, Thầy bảo thật với các con: các con sẽ than van khóc lóc, còn thế gian sẽ vui mừng. Các con sẽ buồn sầu; nhưng nỗi buồn của các con sẽ trở thành niềm vui".
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Thầy Trò Ly Biệt
Kinh điển Phật Giáo có ghi lại câu chuyện: một người đàn bà nọ có đứa con độc nhất qua đời, trong niềm đau tột cùng, người đàn bà đến hàng xóm và khẩn cầu: "Xin vui lòng chỉ cho tôi bất cứ thuốc nào để làm cho nó sống lại". Nhưng ai cũng chỉ biết lắc đầu mà thôi. Cuối cùng có người mách cho người đàn bà biết có một người lương y có thể cải tử hoàn sinh đứa bé đó chính là Ðức Phật Thích Ca (Sakya: Thuỷ tổ Phật Giáo, ông sinh ở miền Bắc Ấn Ðộ, đã có vợ con, sau đi tu hành tại Tuyết Sơn).
Người đàn bà mang đứa bé đến cầu khẩn với ngài và xin ban cho đứa bé một liều thuốc. Ðức Phật Thích Ca liền nói: Ta cần một ít hạt cải. Người đàn bà liền tìm ít hạt cải mang lại cho Ðức Phật. Nhưng vừa thấy, Ðức Phật nói với người đàn bà: "Hãy đi mời nhà nào không có tang chế và hãy mời họ uống lấy những hạt cải này".
Tin lời Ðức Phật, người đàn bà đi gõ cửa từng nhà mời uống lấy những hạt cải này, nhưng tất cả đều từ chối vì thật ra không có nhà nào lại không có một người đã ra đi. Khi người đàn bà trở về nhà trời đêm đã buông xuống, bà đến ngồi bên xác con và nhìn ra phố phường đang lên đèn, càng về khuya màn đêm càng tối và đêm đen bao trùm vạn vật. Lúc ấy, người đàn bà mới bắt đầu nghĩ: đời là thế, sinh ra đau khổ rồi chết, vì thế bà đứng dậy mang xác con vào rừng chôn cất.
Như vậy, con người sinh ra rồi đến chịu đau khổ và tận cùng là cái chết. Ðó là phận số của kiếp người mà khi Nhập Thể Con Thiên Chúa cũng không thoát khỏi. Chúa Giêsu đã ba lần chính thức loan báo về cuộc khổ nạn mà Ngài đã trải qua, nhưng xem ra các môn đệ của Ngài không hiểu được và cũng không chấp nhận được, vì tại sao số phận nghiệt ngã như thế lại có thể xảy ra cho Thầy mình, một người có quyền phép trên tất cả sự chết và đang trên đường tiến tới một tương lai sáng lạn. Trong những giờ phút cuối cùng ngồi bên các ông, Chúa Giêsu nói đến cái chết một lần nữa, nhưng lần này Ngài nói đến cuộc tử nạn ấy như là cuộc ra đi mà không vĩnh biệt. Do đó, Chúa Giêsu đã nói: "Thầy ra đi, anh em sẽ buồn rầu, nhưng niềm vui của họ gấp bội khi Ngài sống lại" (Ga 16,20).
Cái chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu gắn liền với sự đau khổ và niềm vui của các môn đệ, đúng hơn cái chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu chiếu dọi ánh sáng vào mọi khổ đau của con người. Kitô giáo không chối bỏ cái chết và sự đau khổ, nhưng qua cái chết và sự Phục Sinh của Ðức Kitô, Kitô giáo không còn nhìn cái chết và khổ đau như một ngõ cụt của cuộc sống. Trái lại, trong ánh sáng Phục Sinh của Chúa Kitô, cuộc sống con người mang một ý nghĩa thật tuyệt vời, mặc cho bao đau khổ mà con người vẫn phải trải qua "một ít nữa các con sẽ không xem thấy Thầy, rồi một ít nữa các con sẽ xem thấy Thầy" (Ga 16,16).
Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ tham dự vào mầu nhiệm vượt qua của Ngài, có nghĩa là cả những lúc tăm tối nhất của cuộc đời, họ vẫn nhận thấy được Ngài, bám chặt lấy Ngài để tiến bước, cho dẫu khổ đau như thế nào đi chăng nữa, con người vẫn tìm được ý nghĩa đích thực cho cuộc sống. Tham dự vào mầu nhiệm của Ngài cũng có nghĩa là nhìn thấy người anh em đang đau khổ ở xung quanh chúng ta. Sự cảm thông phục vụ đối với người đau khổ sẽ cho chúng ta tham dự vào cuộc tử nạn của Chúa Giêsu và niềm vui Phục Sinh tràn ngập tâm hồn chúng ta.
Veritas Asia


Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Năm Tuần VI PS
Bài đọc: Acts 18:1-8: Jn 16:16-20.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Cuộc sống thay đổi.
Heraclitus, một triết gia Hy-lạp đã nói: "Không ai bước xuống hai lần trong cùng một giòng sông;" vì nước sông một người bước xuống lần trước khác với nước sông bước xuống lần thứ hai. Cuộc đời mỗi người cũng thế, những gì xảy ra ngày hôm nay khác với những gì đã xảy ra ngày hôm qua, và cũng khác với những gì sẽ xảy ra ngày mai. Ngày nào đều có sự vui tươi cũng như sự khốn khó của ngày ấy. Cuộc đời của mỗi người được dệt bằng một chuỗi những mắt xích nhỏ, là những biến cố xảy ra mỗi ngày. Điều cần thiết là con người phải biết học hỏi từ những biến cố đã và đang xảy ra, để biết cách đối phó với những gì sẽ xảy đến.
Các Bài Đọc hôm nay giúp chúng ta nhận ra cách cư xử của Phaolô và sự dạy dỗ của Đức Kitô trước những thay đổi của cuộc sống. Trong Bài Đọc I, Phaolô từ Athens, trung tâm văn hóa của Hy-Lạp, đến Corintô sinh sống bằng nghề chế lều; mỗi ngày Sabbath, ông đều vào hội đường để rao giảng. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu báo trước những gì sẽ xảy ra cho Ngài và cho các môn đệ. Mục đích là để giúp các ông biết cách chuẩn bị và đối phó với những gì sắp xảy ra.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Phaolô rời Athens và rao giảng Tin Mừng tại Corintô.
1.1/ Phaolô vừa làm việc để sinh sống vừa rao giảng Tin Mừng mỗi ngày Sabbath: Hành trình thứ hai là hành trình dài và lâu nhất trong 3 cuộc hành trình rao giảng Tin Mừng của Phaolô. Ông gặp nhiều thành công cũng như thất bại, được chấp nhận cũng như bị từ chối, có lúc an bình và có lúc sóng gió. Trình thuật hôm nay tường thuật những gì xảy ra khi ông bỏ Athens đến Corintô: "Tại đây, ông gặp một người Do-thái tên là Aquila, quê ở Pontus, vừa mới từ Italy đến, cùng với vợ là Priscilla, vì hoàng đế Claudio đã ra lệnh cho mọi người Do-thái phải rời Rôma. Ông Phaolô đến thăm hai ông bà, và vì cùng nghề, nên ông ở lại nhà họ và cùng làm việc: họ làm nghề chế lều. Mỗi ngày Sabbath, ông thảo luận tại hội đường, cố thuyết phục cả người Do-thái lẫn người Hy-lạp." Nghề chế lều là nghề cũ của Phaolô trước khi trở lại, chúng ta ngạc nhiên khi Phaolô trở về nghề cũ để sinh sống thay vì dùng toàn thời gian để rao giảng Tin Mừng; nhưng điều này có thể hiểu được, vì Giáo Hội sơ khai chưa có những trợ giúp cụ thể cho những nhà truyền giáo. Phaolô phải tự kiếm kế sinh nhai, nhất là khi mới chân ướt chân ráo đến những thành phố mới.
1.2/ Phản ứng của dân thành Corintô: Khi ông Silas và ông Timothy từ Macedonia xuống, thì ông Phaolô chỉ lo giảng, long trọng làm chứng cho người Do-thái biết rằng Đức Giêsu chính là Đấng Kitô.
(1) Những người từ chối không tin: Đa số là những người Do-thái. Bởi họ chống đối và nói lộng ngôn, nên ông giũ áo mà bảo họ: "Máu các người cứ đổ xuống trên đầu các người! Phần tôi, tôi vô can; từ nay trở đi, tôi sẽ đến với người ngoại." Mặc dù Phaolô được trao sứ vụ đặc biệt là rao giảng Tin Mừng cho Dân Ngoại, ông vẫn tìm dịp rao giảng Tin Mừng cho những người Do-thái, vì ông quan tâm đến phần rỗi linh hồn của họ; nhưng không có nhiều kết quả.
(2) Phaolô quay sang giảng cho Dân Ngoại và thu lượm nhiều kết quả: Thất vọng về sự cứng lòng và chống đối từ người đồng hương, "Ông rời bỏ chỗ ấy đến nhà một người ngoại tôn thờ Thiên Chúa, tên là Titius Justus, ở sát bên hội đường. Ông Crispus, trưởng hội đường, tin Chúa, cùng với cả nhà. Nhiều người Corintô đã nghe ông Phaolô giảng cũng tin theo và chịu phép rửa."
2/ Phúc Âm: Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui.
2.1/ Các môn đệ không thể hiểu Chúa Giêsu biết trước mọi sự sẽ xảy ra: Khi các môn đệ nghe Chúa Giêsu tuyên bố: "Ít lâu nữa, anh em sẽ không còn trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy;" vài người trong nhóm môn đệ của Đức Giêsu hỏi nhau: "Người muốn nói gì khi bảo chúng ta: "Ít lâu nữa, anh em sẽ không trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy" và "Thầy đến cùng Chúa Cha?" Vậy các ông nói: ""Ít lâu nữa" nghĩa là gì? Chúng ta không hiểu Người nói gì!"
Đối với chúng ta, những người đã đọc Cuộc Thương Khó, cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu, đoạn văn trên không có gì khó hiểu; nhưng đối với các môn đệ trước Cuộc Thương Khó, có ít nhất ba điều các môn đệ không thể hiểu:
(1) Các ông không thể hiểu một người biết rõ ngày chết và cách chết của mình, ngoại người tự kết liễu đời mình, như người Do-thái nghĩ về Chúa Giêsu (Jn 8:21-22).
(2) Các ông càng không hiểu một người biết trước mình sẽ sống lại. Truyền thống Do-thái không tin có sự sống lại như Nhóm Sadducees, hay quan niệm sống lại chỉ có trong Ngày Phán Xét (Jn 11:24). Các ông không ngờ Chúa sống lại chỉ ít ngày sau khi chết.
(3) Các ông cũng không hiểu lời Chúa nói "Thầy đến cùng Chúa Cha" có nghĩa gì; vì các ông chưa hoàn toàn tin tưởng mối liên hệ giữa Chúa Giêsu và Thiên Chúa.
2.2/ Phản ứng của con người trước Cuộc Thương Khó của Đức Kitô: Đức Giêsu biết là các ông muốn hỏi mình, nên bảo các ông: "Anh em bàn luận với nhau về lời Thầy nói: "Ít lâu nữa, anh em sẽ không trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy." Rồi Chúa Giêsu cắt nghĩa thêm cho các ông hiểu: "Thật, Thầy bảo thật anh em: anh em sẽ khóc lóc và than van, còn thế gian sẽ vui mừng. Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui."
(1) Các môn đệ sẽ buồn sầu và than khóc về sự đau khổ, cái chết, và sự vắng mặt của Chúa Giêsu trong cuộc đời các ông; nhưng khi thấy Ngài sống lại và hiện đến, những nỗi lo lắng và buồn sầu sẽ biến thành hy vọng và niềm vui. Trong cuộc sống của người Kitô hữu cũng thế: Có những lúc họ sẽ cảm thấy việc theo Chúa đòi hỏi quá nhiều cố gắng và hy sinh, khi bị cám dỗ về những thú vui thế trần; nhưng sẽ tới ngày những cố gắng và hy sinh của họ sẽ đơm bông kết trái, và họ sẽ tìm thấy niềm vui và hạnh phúc vĩnh cửu.
(2) Thế gian sẽ vui mừng: Thế gian được hiểu ở đây là những người chống lại Thiên Chúa, kết án, và giết Người Con Một của Ngài; một cách cụ thể là những người trong Thượng Hội Đồng. Họ tưởng là đã tiêu diệt được người quyến dũ dân chúng và làm cho họ mất quyền lợi và thế lực trên dân. Nhưng vui mừng của thế gian cũng chỉ tạm thời, vì sau đó sẽ là thời kỳ than khóc. Ai chạy theo những lạc thú của thế gian cũng thế, họ chỉ có thể vui vẻ trong một thời gian ngắn; nhưng sau đó sẽ là những mệt mỏi, chán chường. Nỗi than khóc bất hạnh nhất của thế gian là không biết, không có, hay đánh mất Chúa.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Trong cuộc sống, chúng ta phải đương đầu với nhiều thay đổi; nhưng may mắn cho những người tín hữu chúng ta, những gì chính yếu đã được Chúa Giêsu mặc khải qua Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa.
- Chúng ta cần học hỏi lịch sử và Kinh Thánh để biết những điều chính yếu trong cuộc đời, và biết cách chuẩn bị để đối phó với những thay đổi của cuộc đời.
- Mẹ Maria là mẫu gương lý tưởng cho chúng ta nhận ra thánh ý Thiên Chúa trong những thay đổi của cuộc sống: Mẹ luôn thinh lặng, ghi nhận mọi biến cố xảy ra, và suy niệm trong lòng.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

05/05/16 THỨ NĂM ĐẦU THÁNG TUẦN 6 PS 
Ga 16,16-20

Suy niệm: Một ngày 24 giờ, một giờ 60 phút, một phút 60 giây. Thế nhưng tại sao cũng một ngày, có người thấy dài lê thê, có người lại thấy nhanh như chớp? Thật ra, thời gian tự nó chẳng có ý nghĩa gì, nó chỉ có nghĩa khi đặt tình cảm con người vào đó. Nếu đặt đúng- biết nhìn về quá khứ trong yêu thương và hướng đến tương lai trong hy vọng- thời gian sẽ là niềm vui, hoặc ngược lại, thời gian sẽ là nỗi buồn chết người.
Bởi thế, trước khi từ giã các môn đệ, để cho các ông khỏi lạc hướng, Chúa Giê-su đã nhắc nhở rằng, sẽ có một khoảng thời gian họ sẽ không thấy Ngài, tuy nhiên, đừng quá lo buồn, song hãy nhìn lại quá khứ nhớ những Lời của Thầy, để vững tin và để niềm vui được nên trọn khi Ngài trở lại. Hay nói cách khác, với Chúa Giê-su, thời gian trở thành chuỗi ngày tràn trề vui một khi nhận ra Ngài hiện diện trong mỗi khoảng khắc thời gian. Có Ngài là có niềm vui. Có Ngài là có tất cả. Bởi Ngài đã Phục sinh, bởi Ngài đang vinh quang, đang rọi chiếu luồng sáng hy vọng ấy vào mọi thất bại, đớn đau, khó nhọc của con người.
Mời Bạn: Những lúc trống vắng, bạn thường làm gì? Bạn có nhìn lại những hồng ân trong quá khứ để can đảm tiến bước về tương lai hay không? Bạn có tin rằng trong Chúa Giê-su, bạn sẽ mừng vui và niềm vui đó không ai lấy mất được hay không?
Sống Lời Chúa: Cám ơn Chúa mỗi sớm mai thức dậy, vì Chúa cho thêm  ngày mới để yêu thương cùng, với và trong Ngài.
Cầu nguyện: Hát Kinh Hòa Bình.


Nỗi buồn trở thành niềm vui
Đời sống người Kitô hữu đan xen giữa vui với buồn. Có lúc thấy mất Chúa và mất hướng, thấy thất vọng và buồn chán. Nhưng rồi ngày nào đó, Chúa lại đến thăm, lại tỏ mình, lại vỗ về an ủi.


Suy nim:
Trong bầu khí của bữa Tiệc Ly,
Thầy Giêsu nói với các môn đệ một câu đối với họ là khó hiểu:
“Ít lâu nữa, anh em sẽ không còn trông thấy Thầy,
rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy” (c. 16).
Câu này có thể dễ hiểu với chúng ta
vì chúng ta biết rõ cái chết trên thập giá đang chờ Thầy Giêsu.
Chỉ một thời gian ngắn nữa thôi,
cái chết này sẽ khiến các môn đệ không còn được thấy Thầy nữa.
Chúng ta cũng biết rằng chỉ một thời gian ngắn sau,
Thầy Giêsu lại được phục sinh, và đã hiện ra cho các môn đệ thấy.
Mất Thầy là một thử thách lớn trong đời người môn đệ.
Thầy là chỗ dựa, là lý do khiến họ chấp nhận cuộc sống bấp bênh này.
Chính Thầy đã gọi, đã kéo họ ra khỏi gia đình và nghề nghiệp ổn định
để lang thang đó đây, sống nhờ lòng tốt của những người nghe giảng.
Gần ba năm sống bên Thầy, chia sẻ ngọt bùi, thành công thất bại,
tình Thầy trò gần gũi như tình bạn hữu.
Bây giờ mất Thầy, họ sẽ đi đâu và đi với ai?
Cái chết trên thập giá của Thầy là đại tang của một người thân.
Nỗi đau này được nhân lên nhiều lần
vì họ đã không dám có mặt để lo liệu việc mai táng.
“Anh em sẽ khóc lóc và than van… Anh em sẽ buồn phiền…” (c.20).
Khi tảng đá đã khép kín ngôi mộ, chẳng còn thấy Thầy nữa,
khi thế gian và thủ lãnh của nó hả hê vui sướng vì chiến thắng,
liệu các môn đệ có vượt qua được nước mắt đau đớn này không?
“Ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy… (c. 16)
và nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui” (c. 20).
Anh em sẽ lại thấy Thầy lúc Thầy hiện ra gặp anh em sau phục sinh,
lúc Thầy sai Thánh Thần đến ở với và nâng đỡ anh em,
và nhất là lúc Thầy đồng bàn với anh em trong bữa tiệc Thiên quốc.
Khi gặp lại Thầy và nhận ra Thầy đang sống,
thế nào anh em cũng hết phiền muộn đắng cay.
Nỗi buồn của anh em tan biến khi anh em biết rằng
Thầy mới là người chiến thắng.
Đời sống người Kitô hữu đan xen giữa vui với buồn.
Có lúc thấy mất Chúa và mất hướng, thấy thất vọng và buồn chán.
Chúng ta phải chia sẻ cuộc Khổ nạn và cái chết của Chúa mỗi ngày.
Nhưng rồi ngày nào đó, Chúa lại đến thăm, lại tỏ mình, lại vỗ về an ủi.
Niềm vui trong ta như sống lại với bao hy vọng dâng trào.
Chỉ xin đừng bỏ đi khi thấy Chúa vắng bóng và thất bại trong đời ta.
Cầu nguyn:

Lạy Chúa Giêsu,
có những ngày con cảm thấy
đời sống thật nặng nề;
có những lúc con muốn buông trôi,
để mặc cho dòng đời đưa đẩy;
có những khoảng thời gian dài,
con như mảnh đất khô khan cằn cỗi.

Xin cho con ánh sáng của Chúa
để con biết lối mà đi.

Xin cho con tấm bánh của Chúa
để con có sức mà dấn bước.

Xin cho con Lời của Chúa
để con vững một niềm tin.

Xin cho con sự sống của Chúa
để con lấy lại niềm hăng say và sự tươi tắn,
niềm vui và sáng tạo.

Lạy Chúa Giêsu,
con thấy mình cần Chúa
trong mỗi giây phút của cuộc đời.
Ước gì ai gặp con
cũng gặp được sự hiện diện của Chúa.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
5 THÁNG NĂM
Những Cành Nho Vươn Tới Mọi Thế Hệ
Để hiểu thực tại Giáo Hội là Dân Thiên Chúa, chúng ta cần đọc lại biểu tượng cây nho và các cành nho một cách kỹ lưỡng – và cần nghiền ngẫm ý nghĩa của biểu tượng ấy trong đáy lòng mình. “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái – vì không có Thầy, anh em sẽ chẳng làm gì được.” (Ga 15, 5).
Những cành nho nói trên không chỉ tượng trưng cho các cá nhân, mà còn tượng trưng cho các dân tộc thuộc mọi thời đại và mọi thế hệ. Những cành nho ấy siêu vượt trên thời gian và trên cả sự chết, vì Dân Thiên Chúa đã được qui tụ trong Đức Kitô. Dân tộc vĩ đại này của Thiên Chúa tạo thành một thân thể nhờ Đức Kitô. Nhờ Người, với Người và trong Người, mọi dân tộc trở nên một – như những cành của một thân nho. Và cây nho này là một cấu trúc hữu cơ sống động cung cấp cho tất cả chúng ta một sự sống duy nhất trong Đức Kitô.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 05-5
Cv 18, 1-8; Ga 16, 16-20

Lời suy niệm: “Thật, Thầy bảo thật anh em: anh em sẽ khóc lóc và than van, còn thế gian sẽ vui mừng. Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui”
Đây là những Lời của Chúa Giêsu đã nói với các Tông Đồ của Chúa trước khi Người đi vào cuộc khổ nạn. Đây cũng là kinh nghiệm của các Tông Đồ đã cảm nghiệm trong những ngày Người chịu chết và sau đó các Tông Đồ đã vui mầng khi Người Phục Sinh và được sai đi. Trong cuộc sống hiện tại của mỗi người cũng có lúc gặp phải hoàn cảnh này, nhất là trong những biến cố đau thương của mình, trước những bất công xãy đến cho bản thân, và sau đó lại được bình an mạnh khỏe.
Lạy Chúa Giêsu. Tình yêu của Thiên Chúa luôn bao trùm trên cuộc sống của mỗi người chúng con, kẻ cả khi chúng con không còn ý thức sự hiện diện và tình yêu của Người. Xin cho chúng con luôn ý thức sự hiện hữu của Chúa, để được sống trong Chúa và với Chúa.
Mạnh Phương


05 Tháng Năm
Nhà Thờ Cho Người Da Màu
Trong quyển tự thuật, Mahatma Gandhi, cha đẻ của chủ trương tranh đấu bất bạo động và là người đã giải phóng Ấn Ðộ khỏi ách thống trị của người Anh, đã kể lại rằng: Trong những ngày còn làm sinh viên, ông đã đi lại khá nhiều tại Nam Phi. Ông đã say mê đọc kinh thánh và vô cùng cảm kích về bài giảng trên núi của Chúa Giêsu. Chính Tám Mối Phúc Thực đã gợi hứng cho chủ trương tranh đấu bất bạo động của ông.
Mahatta Gandhi xác tín rằng Kitô giáo là giải pháp cho mối ung nhọt phân chia giai cấp đang đục khoét xã hội Ấn từ bao thế kỷ qua. Ông đã nghĩ đến chuyện gia nhập vào Giáo Hội. Thế nhưng, ngày nọ, khi đến nhà thờ để dự lễ và đón nhận một vài lời chỉ dẫn, ông đã thất vọng: Ông vừa vào đến cửa nhà thờ thì những người da trắng chận ông lại và nói với ông rằng nếu ông muốn tham dự thánh lễ thì hãy tìm đến một nhà thờ dành riêng cho người da màu.
Mahatma Gandhi đã ra khỏi nhà thờ và ông đã không bao giờ trở lại bất cứ nhà thờ nào nữa.
Câu chuyện trên đây của Mahatma Gandhi đáng cho chúng ta suy nghĩ: vô tình hay hữu ý, ai trong chúng ta cũng có thể là một chướng ngại vật ngăn cản nhiều người muốn tìm đến với Giáo Hội. Một lời nói, một cử chỉ, một cách sống, nếu đi ngược lại với tinh thần của Tin Mừng, đều có thể là một cách xua đuổi người khác ra khỏi nhà thờ.
Không ai là một hòn đảo. Chân lý này đúng cho những tương quan giữa người với người mà còn có giá trị hơn nữa trong tương quan của niềm tin. Không có một hành động nào của người Kitô hữu mà không ảnh hưởng đến người khác. Trong mầu nhiệm của sự thông hiệp, chúng ta biết rằng tất cả mọi chi thể của Ðức Kitô đều liên kết khăng khít với nhau đến độ sức mạnh của người này là nơi nương tựa cho người khác, sự yếu đuối và tội lỗi của người này có thể làm tổn thương đến người khác... Trong Thân Thể Mầu Nhiệm của Ðức Kitô, tất cả mọi chi thể đều liên đới với nhau, tất cả mọi người đều có trách nhiệm đối với nhau...
Không ai là một hòn đảo. Chân lý này cũng đúng cho tương quan của người tín hữu đối với người ngoài Giáo Hội. Mỗi người tín hữu đều phải là trung gian nhờ đó con người tìm đến với giáo Hội. Nói cho cùng, người tín hữu không sống cho mình mà sống cho tha nhân. Thật thế, có lẽ không ai trong chúng ta có thể vào Thiên Ðàng nếu chúng ta chưa giúp cho một người nào đó cũng vào Thiên Ðàng với chúng ta. Ðó chính là luận lý của Tin Mừng: Khi mất đi bản thân vì tha nhân, chúng ta mới tìm gặp lại chính mình.
(Lẽ Sống)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét