29/06/2016
THÁNH PHÊRÔ VÀ THÁNH PHAOLÔ, TÔNG ĐỒ.
Lễ trọng. Lễ HỌ. Cầu cho giáo dân.
* Thánh Phêrô và thánh Phaolô không
giống nhau về tính khí,
cũng không giống nhau về phạm vi hoạt động. Hoàn cảnh các vị gặp Chúa đã tạo
nên nét đặc biệt cho sứ vụ tông đồ của mỗi vị. Rồi tài ba của thánh Phaolô quả
là có một không hai trong Kitô giáo.
Nhưng hai
vị liên kết với nhau nhờ lòng tin sâu xa và lòng yêu mến nhiệt thành đối với
Đức Kitô. Các vị đã đổ máu mình để làm chứng cho Chúa Kitô tại Rôma;
có lẽ thánh Phêrô năm 64 và thánh Phaolô năm 67.
Bài Ðọc
I: Cv 12, 1-11
"Bây giờ tôi biết thật Chúa đã cứu tôi khỏi tay
Hêrôđê".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, vua Hêrôđê làm khổ mấy người
trong Hội thánh. Ông đã dùng gươm giết Giacôbê anh của Gioan. Ông thấy việc ấy
đẹp lòng người Do-thái, nên lại cho bắt cả Phêrô. Bấy giờ là ngày lễ Bánh Không
Men. Bắt được người, vua cho tống ngục, giao cho bốn đội binh, mỗi đội bốn người
canh giữ, có ý đợi sau lễ Vượt Qua, sẽ điệu người ra cho dân. Phêrô bị giam trong
ngục, nhưng Hội thánh vẫn luôn luôn cầu nguyện cùng Chúa cho người. Ðến khi vua
Hêrôđê sắp điệu người ra, thì đêm ấy, Phêrô phải mang xiềng xích, nằm ngủ giữa
hai tên lính, và có quân canh giữ trước cửa ngục. Bỗng có thiên thần Chúa đứng
kề bên, một luồng ánh sáng chiếu giãi vào ngục; thiên thần đập vào cạnh sườn
Phêrô, đánh thức người dậy mà rằng: "Hãy chỗi dậy mau". Xiềng xích liền
rơi khỏi tay người. Thiên thần bảo người rằng: "Hãy thắt lưng và mang giày
vào". Người làm y như vậy. Thiên thần lại bảo rằng: "Hãy khoác áo vào
mà theo ta".
Người liền đi ra theo thiên thần, mà chẳng biết việc
thiên thần làm có thật chăng, người tưởng như trong giấc mộng. Qua khỏi chặng
thứ nhất và chặng thứ hai, thì đến cửa sắt thông ra thành. Cửa ấy tự nhiên mở
ra. Thiên thần và Phêrô rảo qua một phố nọ, rồi thiên thần biến đi. Phêrô hoàn
hồn và nói rằng: "Bây giờ tôi biết thật Chúa đã sai thiên thần cứu tôi khỏi
tay Hêrôđê và khỏi mọi âm mưu của dân Do-thái".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 33, 2-3. 4-5. 6-7. 8-9
Ðáp: Chúa đã
cứu tôi khỏi điều lo sợ (c. 5b).
Xướng: 1) Tôi chúc tụng Chúa trong mọi lúc; miệng
tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Trong Chúa linh hồn tôi hãnh diện, bạn nghèo
hãy nghe và hãy mừng vui. - Ðáp.
2) Các bạn hãy cùng tôi ca ngợi Chúa, cùng nhau ta
hãy tán tạ danh Người. Tôi cầu khẩn Chúa, Chúa đã nhậm lời, và Người đã cứu tôi
khỏi điều lo sợ. - Ðáp.
3) Hãy nhìn về Chúa để các bạn vui tươi, và các bạn
khỏi hổ ngươi bẽ mặt. Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe, và Người đã cứu
họ khỏi mọi điều tai nạn. - Ðáp.
4) Thiên Thần Chúa hạ trại đồn binh chung quanh những
người sợ Chúa và bênh chữa họ. Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết
Chúa thiện hảo nhường bao; phúc đức ai tìm nương tựa ở nơi Người. - Ðáp.
Bài Ðọc
II: 2 Tm 4, 6-8. 17-18
"Từ đây triều thiên công chính đã dành cho
cha".
Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi
Timôthêu.
Con thân mến, phần cha, cha đã già yếu, giờ ra đi của
cha đã gần rồi. Cha đã chiến đấu trong trận chiến chính nghĩa, đã chạy đến cùng
đường và đã giữ vững đức tin. Từ đây triều thiên công chính đã dành cho cha. Và
trong ngày đó, Chúa là Ðấng phán xét chí công sẽ trao lại cho cha mũ triều
thiên ấy, nhưng không phải cho cha mà thôi, mà còn cho những kẻ yêu mến trông đợi
Người xuất hiện. Nhưng có Chúa phù hộ giúp sức cho cha, để nhờ cha, việc giảng
đạo nên trọn, và tất cả Dân Ngoại được nghe giảng dạy: và cha đã thoát được khỏi
miệng sư tử. Nguyện cho Người được vinh quang muôn đời. Amen.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia:
Mt 16, 18
Alleluia, alleluia! - Con là Ðá, trên đá này Thầy sẽ
xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được. - Alleluia.
Phúc
Âm: Mt 16, 13-19
"Con là Ðá, Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước
trời".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt thành Cêsarêa
Philipphê, và hỏi các môn đệ rằng: "Người ta bảo Con Người là ai?"
Các ông thưa: "Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác
lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó". Chúa Giêsu nói với các ông:
"Phần các con, các con bảo Thầy là ai?" Simon Phêrô thưa rằng:
"Thầy là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống".
Chúa Giêsu trả lời rằng: "Hỡi Simon con ông
Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con,
nhưng là Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời. Vậy Thầy bảo cho con biết: Con là Ðá,
trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được.
Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước trời. Sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời
cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở".
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm : Hủy bỏ con người cũ để mặc lấy con người mới
Kinh
Thánh có nhiều đoạn về hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô; nhưng phụng vụ đọc
cho chúng ta nghe 3 bài này trong thánh lễ hôm nay. Chắc chắn phải có một hay
nhiều ý tứ nào đó. Chúng ta được tự do tìm hiểu. Và nếu chúng ta đồng ý, chúng
ta thử xếp đặt lại thứ tự 3 bài đọc như sau để có một phương hướng suy nghĩ.
Trước hết bài Phúc âm gợi lên vinh dự của hai thánh Tông đồ được đặt làm rường
cột cho Hội Thánh Chúa, rồi bài sách Công vụ cho chúng ta thấy các ngài được bảo
hộ mạnh mẽ như thế nào khi thi hành sứ vụ; và cuối cùng bài Thánh thư kêu gọi
chúng ta hết thảy hãy tin tưởng phấn đấu như các ngài đã hy sinh không mỏi mệt.
A. Là
Những Tông Ðồ Ðược Ðặc Cách
Bài
Tin Mừng chỉ nói đến vinh dự đặc biệt đã được dành cho Phêrô. Nhưng vinh dự ấy
một ngày kia cũng sẽ được trao tặng Phaolô qua lời Chúa phán với Hananya: Hãy
đi tìm Saulô, vì nó là lợi khí Ta chọn để mang Danh Ta ra trước mặt các dân ngoại.
Và Hananya đã ra đi làm theo lệnh Chúa, vì ông hiểu Phaolô đã được đặc cách,
như Phêrô và các Tông đồ trước đây.
Phêrô
hôm ấy cùng đi theo Chúa với đồng bạn... Cuộc truyền giáo của Chúa ở Galilê đã
sửa soạn hoàn tất. Ngài sắp phải qua Yuđê để chịu thương khó. Ngài ý thức mọi sự
và mọi việc. Ðể đánh dấu khúc quanh lịch sử quan trọng này, Chúa Yêsu đột xuất
qua hỏi môn đệ: Người ta nói Con Người là ai? Ngài muốn đo kết quả của 3 năm
truyền giáo. Ngài muốn biết môn đệ đã hiểu Ngài đến mức nào?
Người
thì bảo Ngài là Yoan Tẩy giả; kẻ lại nói Ngài là Êlya; nhiều người khác nữa thì
tưởng Ngài là Yêrêmya hay một tiên tri nào đó. Như vậy chung chung thiên hạ đã
lờ mờ nghĩ rằng Ngài là Thiên sai cứu thế vì dư luận Dothái thời đó cho rằng
các vị tiên tri như thế sẽ trở lại trong thời Ðấng Thiên sai và có thể một
trong những vị đó sẽ chính là Ðấng muôn dân trông đợi. Ở đây chúng ta chỉ chú ý
điều này: một mình sách Tin Mừng Matthêô nhắc đến tên tiên tri Yêrêmya, có lẽ
muốn ngầm nói rằng: Ðấng Thiên sai sẽ đau khổ và bị bắt bớ như nhà Tiên tri đã
có cuộc đời gian nan khổ sở, mà Chúa nhật XII Thường niên chúng ta đã nghe nói.
Dù sao phần đông người ta vẫn chưa dám khẳng định dứt khoát Ðức Yêsu Kitô là
ai.
Còn
chính các môn đệ?
Chúa
đã hỏi thẳng các ông. Chưa ai dám lên tiếng thưa, thì Phêrô đã nói: "Thầy
là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống". Chắc chắn mọi người đã phải giật
mình. Chính Chúa Yêsu cũng thấy rõ không phải xác thịt đã nói lên được điều đó.
Con người tự nhiên không thể biết được như vậy. Quả là Cha trên trời đã mạc khải
cho Phêrô, đã nói qua miệng lưỡi người Tông đồ này. Vì lời tuyên xưng kia thật
là chính xác, là chính sự thật, vượt quá mọi hiểu biết và suy tư của con người.
Chỉ có Cha trên trời biết Con, thế mà cho đến nay Người chưa mạc khải ra. Ðúng
hơn, Người đã có lần công bố Yêsu Kitô là Con Chí Ái, nhưng Thánh Thần chưa được
ban xuống cho loài người thì làm sao ai hiểu được điều đó. Thế mà miệng lưỡi của
Phêrô vừa nói lên niềm tin chính xác mà chỉ sau này, khi đã được tràn đầy Thánh
Thần, Hội Thánh mới có thể tuyên xưng.
Như vậy
Phêrô đã được ơn mạc khải đặc biệt. Chúa Cha đã tỏ ra đặc cách Phêrô. Thế thì
luôn luôn thi hành Thánh ý Người, Ðức Yêsu liền tuyên bố sẽ chọn Phêrô làm nền
tảng để xây Hội Thánh của Người. Và quả thật tên của Phêrô như đã được tiền định
vì Phêrô trong tiếng Dothái có nghĩa là Ðá. Vậy Phêrô sẽ là đá tảng xây nên Hội
Thánh. Và Ðá này sẽ được củng cố để ngay sức mạnh hỏa ngục dấy lên cũng không
lung lay nổi. Nhưng không phải để Phêrô đè đầu thiên hạ; Hội Thánh của Ðức Kitô
là để cứu thế. Và cứu thế, trước hết là tha tội. Thế nên Ðức Kitô lại tiếp: Ta
sẽ ban cho con chìa khóa Nước Trời để con đóng mở cho người ta ra vào.
Chúng
ta mừng cho Phêrô đã được những vinh dự như vậy. Ðó là những ơn hoàn toàn nhưng
không mà Thiên Chúa đã ban cho người, vì hạnh phúc của tất cả chúng ta. Sự lựa
chọn hoàn toàn chỉ vì tình thương. Cũng như sau này, đang khi Phaolô hung hăng
phi ngựa trên con đường Ðama để bắt đạo, Ðức Kitô đã từ trời cao phán gọi người,
khiến người tức khắc ngã quỵ để rồi khi ngẩng lên, đã trở thành vị Tông đồ dân
ngoại.
Nhiều
người đã muốn thử giải thích vì những lý do tâm lý, xã hội và tôn giáo nào đã
khiến hai thánh Tông đồ được lựa chọn một cách đột xuất, và được trao phó những
sứ mạng cao cả như vậy? Nhưng chẳng có câu trả lời nào thỏa đáng, ngoại trừ
công nhận chính mạc khải của lòng nhân nghĩa Chúa.
Do
đó, ngày lễ hai thánh Tông đồ, trước hết chúng ta phải tuyên xưng điều ấy:
chính Thiên Chúa đã đặc cách hai ngài. Và việc này khiến chúng ta phải hân hoan
tạ ơn, bởi vì Hội Thánh chúng ta được xây trên nền tảng của hai ngài, mà hai
ngài được Chúa đặc cách như vậy, thì tòa nhà Hội Thánh của chúng ta tốt đẹp,
vinh dự và bảo đảm biết bao? Ngôi nhà của chúng ta không những vững bền mà còn
đầy phúc, vì nền tảng của nó là hai vị Tông đồ đã được tuyển chọn một cách tuyệt
diệu. Chúa Cha và Chúa Yêsu Kitô đã tỏ ra vô vàn ưu ái và rộng rãi, quyền năng
đối với nền tảng của tòa nhà Hội Thánh chúng ta. Chúng ta phải hân hoan cảm mến.
Và phải tiếp tục xem hai vị Tông đồ ưu tú đó đã thi hành sứ mệnh thế nào.
B.
Các Ngài Tiếp Tục Ðược Chúa Bảo Hộ
Bài
sách Công vụ cho thấy Lời Chúa nói với Phêrô khi đặt người làm nền tảng Hội
Thánh, luôn luôn thực hiện. Phêrô quả thật là Ðá vững vàng trong mọi sóng gió.
Hêrôđê bấy giờ bắt đạo. Hành động và thái độ của nhà vua rất đẹp lòng người
Dothái. Hêrôđê liền mạnh tay, truyền bắt giam chính Phêrô, thủ lãnh của Hội
Thánh mới. Sức mạnh của hỏa ngục rõ ràng mạnh mẽ. Nhưng bài sách nghe đọc hôm
nay cho thấy Phêrô bình tĩnh lạ thường. Dường như ông không nhúc nhích. Mặc cho
người ta cùm tay trói chân, và đặt lính gác trong ngoài cửa ngục, ông như chìm
đắm trong suy nghĩ nhớ đến giáo đoàn và hiệp ý cầu nguyện với tất cả nhiệm thể.
Bỗng dưng xiềng xích ở tay chân mở ra. Có người bảo Phêrô mặc áo, thắt lưng và
xỏ giầy vào. Rồi bảo ông đi theo. Ông không ngần ngại khoan thai cất bước, chẳng
cần tìm hiểu. Hai người tiến bước dễ dàng; đi đến đâu, người vật dường như đều
nhường bước. Kể cả cửa sắt có lính canh gác, cũng tự động mở ra mời hai người
ra phố. Ðến lúc thần Chúa biến đi, Phêrô mới nhận ra: quả thật Chúa đã giải cứu
mình.
Và về
sau, khi suy nghĩ lại sự việc, ông mới thấy câu chuyện thật là mầu nhiệm. Ông
đã bị bắt vào dịp lễ Bánh không men và cũng đã được giải thoát trong dịp ấy.
Chúa Yêsu cũng đã bị nộp, bị giết và được Thiên Chúa cho sống lại vào dịp lễ
Bánh không men. Phải chăng sự việc đã chẳng có ngụ ý rằng: đầy tớ không trọng
hơn Thầy và đường Thầy đi thì tớ cũng sẽ phải theo. Phêrô phải đi theo đường của
Chúa và sẽ đưa Hội Thánh Chúa đi vào. Ðó là con đường bị bắt, bị nộp, bị giết...
nhưng sẽ dẫn tới phục sinh vinh quang. Và những người đi trên con đường ấy đều
như thể chiên cừu bị đưa đi xén lông mà không hề kêu la. Phêrô trong câu truyện
bị bắt hôm nay đã bắt chước Chúa Yêsu, hoàn toàn vâng theo Thánh ý Thiên Chúa.
Và nếu chúng ta có đọc lại cuộc đời của Phaolô, chúng ta cũng thấy như vậy.
Những
lời đầu tiên trong bài thư hôm nay xác định điều đó. Phaolô thấy mình là
"tửu tế đã tiến", tức là cuộc đời mình đã trở thành lễ tế. Ðó là thứ
rượu người ta dâng khi thuyền rời bến... Và chính Chúa Yêsu cũng đã nói với Hananya
khi sai ông đi gặp Saulô. Ta sẽ tỏ cho nó biết tất cả những gì nó sẽ phải chịu
vì Danh Ta. Nên tất cả cuộc đời của Phaolô là chiến đấu trong cuộc chiến chính
nghĩa. Người đã chạy đến cùng đường... Và nhìn lại người có thể đếm trên con đường
ấy: bao nhiêu lần đắm tàu, nhịn đói, chịu khát, bị đánh, bị tù. Sức mạnh của hỏa
ngục cũng tung ra mạnh mẽ, nhưng Ơn Chúa vẫn đủ cho Phaolô cũng như cho Phêrô.
Ðến nỗi ngày hôm nay, nhắc lại việc tử đạo của hai ngài Hội Thánh hân hoan cử
hành một ngày vinh quang.
Quả
thật hôm nay chúng ta kính nhớ cuộc chiến vẻ vang của hai thánh Tông đồ. Gian
khổ các ngài đã chịu thật là sức mạnh của hỏa ngục. Nhưng Chúa đã bảo hộ các
ngài. Các ngài đã đưa con thuyền Giáo hội vượt xa qua bao sóng gió... Con thuyền
ấy cứ mỗi ngày một lớn. Và nhìn khắp mặt biển trần gian, không chỗ nào mà ta
không thấy nó. Có chỗ nó đang ung dung rẽ sóng. Chỗ khác, nó lại như thuyền của
các Tông đồ gặp bão trên mặt hồ Tibêria. Chính trong những trường hợp khó khăn
này, khuôn mặt của Phêrô và Phaolô như lại nổi lên, nhắc lại Lời Chúa hứa sẽ ở
cùng Hội Thánh mãi mãi và sức mạnh của hỏa ngục sẽ chẳng làm gì được.
Chúng
ta hãy lưu ý tỉ mỉ hơn đến điều nhắn nhủ của các ngài.
C.
Các Ngài Kêu Gọi Chúng Ta Tin Tưởng
Ðối với
chúng ta, các ngài có một tình yêu thương đặc biệt. Bài thư Phaolô gửi cho
Timôthê làm chứng điều ấy. Phêrô chắc chắn cũng đồng ý khuyên nhủ chúng ta như
vậy. Vì hôm nay là lễ của hai ngài, Giáo hội nhắc nhớ lại cuộc đời phấn đấu
kiên trung và thành quả của các ngài. Sự kiện này nào muốn nói lên gì khác hơn
việc kêu gọi chúng ta hãy bắt chước các ngài.
Phaolô
nói với Timôthê, tức là với tất cả chúng ta. Chúa đã phù hộ và ban sức mạnh cho
người. Chúa sẽ cứu và độ người vào Nước trên trời. Và hoàn lại cho người triều
thiên công chính, không phải cho người mà thôi, nhưng còn cho hết mọi người đầy
lòng mến yêu trông đợi cuộc hiển linh của Chúa. Nói tắt, hai thánh Tông đồ đã
muốn cho chúng ta cũng mến Chúa và tin tưởng phấn đấu cho Chúa.
Vì thế
chúng ta phải nhìn lại đời sống các ngài để thấy từ đầu các ngài đã đón nhận ơn
Chúa thế nào và đã tiếp tục làm sao để đi đến vinh quang ngày nay. Các ngài đã
được Chúa chiếu cố một cách đặc biệt và đã được Người tiếp tục bảo hộ. Có thể
nói các ngài chẳng có công trạng nào hết: Phêrô rõ ràng là người không có gì cả;
còn Phaolô đã có lần khẳng định mọi điều người có theo xác thịt, thì người đã bỏ
đi hết và coi như phân bón để được tình yêu nhưng không của Ðức Yêsu Kitô.
Ðó là
thái độ căn bản của Kitô giáo. Người ta phải hủy bỏ con người cũ và mọi sự thuộc
về nó để mặc lấy con người mới là Thần trí của Ðức Yêsu Kitô hầu chỉ còn sống
cho Thiên Chúa. Khi đó người ta mới là người của Chúa và là lợi khí để Người
dùng vào việc xây dựng Nước Trời. Và triều thiên công chính mới để dành cho người
ấy.
Chúng
ta có nên sợ trở thành những con người như vậy không? Có lẽ nhiều người ngại
ngùng khi nghe nói đến thái độ từ bỏ. Nhưng ai có gì lắm mà sợ phải bỏ? Ðàng
khác điều quan trọng là từ bỏ con người cũ; chứ từ bỏ những sự vật chất đâu đã
là điều khó lắm. Và con người cũ là tinh thần không muốn đón nhận mạc khải của
Chúa, không để cho Lời Chúa đi vào tâm hồn và sinh động ở trong đó để dần dần đổi
mới chúng ta từ bên trong. Cả Phêrô và Phaolô đều đã bắt đầu đi vào đường lối của
Chúa khi đón nhận lời mạc khải. Phêrô đã để Chúa Cha nói lên ở trong mình.
Phaolô đã để lời Chúa Yêsu lọt vào tai khiến mình quỵ xuống và trở nên con người
mới. Chúng ta phải bắt đầu nên thánh từ thái độ đầu tiên ấy: tức là đón nhận lời
mạc khải, đón nhận ơn Chúa vào mình và để cho chính ơn Chúa từ đó làm việc nơi
chúng ta.
Giờ
đây Chúa cũng đến với chúng ta trong thánh lễ. Mình Máu Thánh Chúa đến tăng cường
cho Lời Chúa chúng ta vừa nghe. Ai đón nhận Lời Chúa và Mình Thánh Chúa thật sự,
sẽ để Người tiếp tục sống trong mình. Chính Người sẽ hoàn thành công việc của
Người nơi chúng ta như nơi hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô. Chúng ta hãy cầu
xin hai thánh cho chúng ta biết bắt chước các ngài.
(Trích
dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của
Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Lễ
Thánh Phêrô và Phaolô
Bài đọc: Acts 12:1-11; 2 Tim 4:6-8, 17-18; Mt
16:13-19.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Trung thành làm chứng nhân cho Thiên
Chúa tới cùng.
Hội
Thánh được xây dựng vững chắc trên hai cột trụ; vì nếu chỉ xây trên một cột trụ,
sẽ không đứng vững, giống như người chỉ có một chân. Phêrô rao giảng cho dân
Do-thái, Phaolô rao giảng cho Dân Ngoại. Phêrô lo tổ chức và bảo vệ Hội Thánh,
Phaolô lo phát triển và bành trướng Hội Thánh.
Các
Bài Đọc hôm nay nói lên sự lựa chọn, bảo vệ, và ban ơn của Thiên Chúa dành cho
hai ông. Trong Bài Đọc I, Sách CVTĐ tường thuật việc thiên sứ giải thoát Phêrô
khỏi ngục tù. Trong Bài Đọc II, Phaolô xác quyết nhờ sức mạnh của Thiên Chúa,
ông đã chiến đấu một trận chiến cao đẹp, đã chạy đến cùng đường, và đã trung
thành giữ vững đức tin. Trong Phúc Âm, sau khi Phêrô được Thiên Chúa soi sáng để
nhận ra và tuyên xưng đức tin vào Đức Kitô, Ngài đã chính thức thiết lập Giáo Hội
trên Đá Tảng Phêrô; và Ngài hứa sẽ bảo vệ Giáo Hội khỏi mọi quyền lực của thế
gian và ma quỉ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài
đọc I: Ông Phêrô được thiên
sứ giải thoát khỏi ngục tù.
1.1/
Giáo Hội bị bách hại: Chúa
Giêsu đã báo trước cho các tông-đồ: "Tôi tớ không trọng hơn chủ và môn đệ
không hơn Thầy. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em." Sau khi
Chúa Giêsu về trời, Giáo Hội tại Jerusalem bị bắt bớ dữ dội, bắt đầu bằng cuộc
tử đạo tiên khởi của phó tế Stephanô. Trình thuật hôm nay liệt kê cuộc bắt bớ của
vua Herode: "Thời kỳ ấy, vua Herode ra tay ngược đãi một số người trong
Giáo Hội. Nhà vua đã cho chém đầu ông Giacôbê là anh ông Gioan. Thấy việc đó
làm vừa lòng người Do-thái, nhà vua lại cho bắt cả ông Phêrô nữa. Bấy giờ đang
là tuần lễ Bánh Không Men. Bắt được rồi, nhà vua truyền tống ngục và giao cho bốn
tốp lính canh gác, mỗi tốp gồm bốn người, định sau lễ Vượt Qua sẽ điệu ông ra
cho dân chúng."
Chúa
Giêsu đã từng nói với các môn đệ: "Họ sẽ giết chủ chăn và đoàn chiên sẽ
tan tác." Phêrô, Giacôbê, và Gioan được coi như những môn đệ thân tín nhất
của Chúa Giêsu; giờ đây Giacôbê đã bị giết, Phêrô bị cầm tù. Vì thế, Giáo Hội
không ngừng dâng lên Thiên Chúa lời cầu nguyện khẩn thiết cho ông.
1.2/
Thiên sứ giải thoát Phêrô:
Đức Kitô biết đau khổ do bắt bớ và tù đày cần thiết để tôi luyện niềm tin của
các tông-đồ và để bành trướng đức tin; nên Ngài để cuộc bách hại xảy ra. Nhưng
Ngài cũng biết Giáo Hội của Ngài cần sự lãnh đạo của Phêrô, nên Ngài sai một
thiên sứ tới để giải thoát ông khỏi ngục tù, như Ngài sẽ làm tương tự với
Phaolô sau này.
- Xiềng
xích và lính canh trở nên vô hiệu trước quyền lực của Thiên Chúa: Trình thuật kể:
"Trong đêm trước ngày bị vua Herode đem ra xử, ông Phêrô ngủ giữa hai người
lính, và bị khoá vào hai cái xiềng. Trước cửa ngục lại có lính canh. Bỗng thiên
sứ của Chúa đứng bên cạnh ông, và ánh sáng chói rực cả phòng giam. Thiên sứ đập
vào cạnh sườn ông Phêrô, đánh thức ông và bảo: "Đứng dậy mau đi!" Xiềng
xích liền tuột khỏi tay ông."
-
Phêrô làm theo lệnh thiên sứ một cách vô thức: "Thiên sứ nói tiếp:
"Thắt lưng lại và xỏ dép vào!" Ông làm như vậy. Rồi thiên sứ lại bảo
ông: "Khoác áo choàng vào và đi theo tôi!" Ông liền theo ra, mà không
biết việc thiên sứ làm đó có thật hay không, cứ tưởng là mình thấy một thị kiến.
Qua vọng canh thứ nhất, rồi vọng canh thứ hai, thiên sứ và ông tới trước cửa sắt
thông ra phố. Cửa tự động mở ra trước mặt hai người. Ra đến ngoài, đi hết một
đường phố, thì bỗng nhiên thiên sứ bỏ ông mà đi." Tất cả những việc này xảy
ra khi lính vẫn canh và cửa tù vẫn khóa.
-
Phêrô ý thức mình đã được cứu thoát: "Lúc ấy ông Phêrô mới hoàn hồn và
nói: "Bây giờ tôi biết thực sự là Chúa đã sai thiên sứ của Người đến, và
Người đã cứu tôi thoát khỏi tay vua Herode, và khỏi mọi điều dân Do-thái mong
muốn tôi phải chịu."" Khi Thiên Chúa muốn, Ngài vô hiệu hóa mọi quyền
lực thế gian.
2/ Bài
đọc II: Giờ đây tôi chỉ còn
đợi vòng hoa dành cho người công chính.
2.1/ Chiến
đấu cho chính nghĩa: Giống
như Chúa Giêsu khi sắp rời bỏ thế gian để về cùng Thiên Chúa, Ngài dành thời
gian để kiểm điểm những gì Ngài đã làm, những gì sắp xảy đến, và vinh quang
Ngài sẽ được hưởng trong tương lai; Phaolô cũng thế.
(1)
Nhìn lại quá khứ: "Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng
đường, đã giữ vững niềm tin."
+ Cuộc
thi đấu cao đẹp: Thế gian là một bãi chiến trường để Thiên Chúa thử luyện đức
tin của con người. Nhìn lại quá khứ, Phaolô biết mình đã cố gắng hết sức vượt
qua các gian khổ để chu toàn sứ vụ Đức Kitô đã trao phó cho ngài.
+ Đã
chạy hết chặng đường: Cuộc đời con người có thể ví như một cuộc chạy Marathon,
có nguồn gốc từ quốc gia Hy-lạp. Đây là một cuộc chạy đường dài rất gian khổ,
đòi người chạy phải có sức khỏe dẻo dai để chịu đựng. Nhiều người ghi danh,
không nhằm chạy nhanh để đạt đích trước, nhưng chỉ cần thử xem mình có thể dẻo
dai để về tới đích hay không. Nhiều người không chịu nổi phải bỏ cuộc dọc đường.
+ Đã
giữ vững niềm tin: Đây là điều tối quan trọng để lãnh phần thưởng từ Đức Kitô.
Nếu ai chạy đến đích mà đánh mất niềm tin ở dọc đường, người ấy sẽ không được
lãnh nhận phần thưởng từ Đức Kitô.
(2)
Kiểm điểm hiện tại: "Tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế, đã đến giờ tôi phải
ra đi." Thánh Phaolô được Đức Kitô hiện ra cho biết trước: ông sẽ bị bắt ở
Jerusalem để làm chứng cho Ngài; không những thế, ông sẽ còn làm chứng cho Đức
Kitô tại Rôma nữa. Nhiều tín hữu khóc thương ngăn cản; nhưng ông vẫn quyết chí
lên Jerusalem để chịu bắt bớ như Đức Kitô đã từng trải qua.
(3)
Hy vọng tương lai: Con người chiến đấu là cho một mục đích. Giống như lực sĩ thắng
giải được khoác vòng hoa chiến thắng, Phaolô biết rõ mình cũng sẽ được Đức Kitô
đeo vòng hoa chiến thắng cho như vậy. Ngài nói: "Giờ đây tôi chỉ còn đợi
vòng hoa dành cho người công chính; Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần
thưởng đó cho tôi trong Ngày ấy."Phaolô dùng kinh nghiệm cá nhân để động
viên tinh thần các môn đệ: "Và không phải chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả
những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện." Nếu Timothy, Titô, hay bất cứ
một tín hữu nào trung thành giao chiến tới cùng, họ cũng sẽ lãnh nhận phần thưởng
của các chứng nhân từ Đức Kitô.
2.2/
Phaolô chiến thắng là nhờ sức mạnh của Thiên Chúa: Ông biết rõ con người yếu đuối của mình,
nhất là qua biến cố ngã ngựa và bị mù trên đường đi Damascus; nhưng ông cũng biết
sức mạnh của Thiên Chúa hoạt động để nâng đỡ các yếu đuối của ông. Ông xác tín
niềm tin này nhiều lần, và trong trình thuật hôm nay: "Nhưng có Chúa đứng
bên cạnh, Người đã ban sức mạnh cho tôi, để nhờ tôi mà việc rao giảng được hoàn
thành, và tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng. Và tôi đã thoát khỏi
nanh vuốt sư tử. Chúa sẽ còn cho tôi thoát khỏi mọi hành vi hiểm độc, sẽ cứu và
đưa tôi vào vương quốc của Người ở trên trời. "
3/
Phúc Âm: "Còn anh em,
anh em bảo Thầy là ai?"
3.1/ Người
môn đệ phải biết Thầy của mình là ai:
(1)
Kiến thức về Đức Kitô: Khi Đức Giêsu đến vùng kế cận thành Caesarea Philippi,
Người hỏi các môn đệ rằng: "Người ta nói Con Người là ai?" Các ông
thưa: "Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Elijah, có người
lại cho là ông Jeremiah hay một trong các vị ngôn sứ." Vua Herode đã từng
nghĩ Chúa Giêsu là Gioan Tẩy Giả sống lại từ cõi chết. Elijah là một tiên tri
làm nhiều phép lạ như Chúa Giêsu; truyền thống tin ông sẽ trở lại trước thời Đấng
Thiên Sai, vì ông chưa chết. Jeremiah là tiên tri rất khí khái dám nói và làm
chứng cho sự thật, mà không lui bước trước bất cứ quyền lực nào của vua chúa. Tất
cả các nhận định này chỉ nói lên một khía cạnh của Đức Kitô, nhưng chưa nói lên
được căn tính của Ngài.
(2) Mối
liên hệ của người môn đệ với Đức Kitô: Chúa Giêsu không chỉ bằng lòng với những
gì các môn đệ biết về Ngài qua người khác; nhưng Ngài muốn các ông nghĩ sao về
Ngài, nên Ngài hỏi các ông: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?" Ông
Simon Phêrô, đại diện cho các tông đồ, tuyên xưng: "Thầy là Đấng Kitô, Con
Thiên Chúa hằng sống." Đây là câu trả lời mà Chúa Giêsu muốn nghe: Ngài
chính là Đấng Thiên Sai mà các ngôn sứ đã nói tới; đồng thời, Ngài cũng là Người
Con Một của Thiên Chúa hằng sống. Chỉ khi nghe được lời tuyên xưng này từ miệng
các môn đệ, Chúa Giêsu mới hoàn thành sứ mệnh mặc khải của Ngài.
3.2/ Hội
Thánh được xây dựng trên Tảng Đá là Phêrô: Đức Giêsu nói với ông Phêrô: "Này anh Simon, con ông Jonas,
anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy,
nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời." Thánh Phaolô cắt nghĩa rõ ràng
điều này hơn: Không ai tuyên xưng Đức Kitô là Thiên Chúa, mà không do Thánh Thần
soi sáng. Thánh Thần được gởi tới cho các tông-đồ là do sự can thiệp của Chúa Giêsu
với Chúa Cha.
Nhận
ra niềm tin xác thực của Phêrô, Chúa Giêsu thành lập Giáo Hội khi Ngài nói với
Phêrô: "Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá,
trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không
thắng nổi." Trong Kinh Thánh, khi Thiên Chúa đổi tên cho ai, Ngài tin tưởng
và trao sứ vụ cho người ấy. Ví dụ, Abraham từ Abram, Phaolô từ Saul, và Phêrô từ
Simon ... Chúa Giêsu muốn trao quyền điều khiển Giáo Hội vào tay Phêrô và các
người kế vị ông. Tảng Đá đây không phải là con người yếu đuối của Phêrô với ba
lần chối Thầy; nhưng là đức tin của ông vào Đức Kitô sau nhiều lần sa ngã và chịu
gian khổ.
Đức
tin của Giáo Hội được đặt trên niềm tin nền tảng của các tông-đồ. Đức tin này
được ví như "đá," có nghĩa vững chắc và không thay đổi với thời gian.
Nhiều người chỉ trích Giáo Hội cổ hủ, cứng nhắc, không chịu theo thời ... nhưng
cũng chính vì điều này mà Giáo Hội được thiết lập. Nếu Giáo Hội cũng thay đổi để
được con người chấp nhận, hòa giải nhượng bộ trước áp lực của ma quỉ và thế
gian, Giáo Hội sẽ không tồn tại đến ngày hôm nay.
Chúa
Giêsu trao chìa khóa Nước Trời để nói lên quyền cầm buộc và tháo cởi: "Thầy
sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời
cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ
tháo cởi như vậy." Công dụng của chìa khóa là để mở ra và đóng lại, cho
phép vào và từ chối không cho vào. Giáo Hội dùng quyền này để tha thứ hay cầm
buộc hối nhân nơi tòa cáo giải.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Đức
Kitô cần cả Phêrô lẫn Phaolô. Ngài muốn hai ông hợp tác để củng cố, bảo vệ, và
phát triển Giáo Hội. Chúng ta cũng phải biết cộng tác với nhau trong việc mở
mang Nước Chúa.
- Để
có thể làm việc cho Đức Kitô và bảo vệ Giáo Hội, chúng ta không chỉ cần biết về
Đức Kitô, nhưng phải sống mối liên hệ với Ngài.
-
Giáo Hội không phải chỉ là Đức Thánh Cha và hàng Giáo Phẩm; nhưng là tất cả các
tín hữu ở khắp nơi. Tất cả đều có bổn phận trong việc mở mang Nước Thiên Chúa.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
29/06/16 THỨ TƯ TUẦN 13 TN
Th. Phê-rô và Phao-lô, tông đồ, tử đạo
Mt 16,13-19
Th. Phê-rô và Phao-lô, tông đồ, tử đạo
Mt 16,13-19
Suy niệm: Có những chân lý người ta “ngộ” ra như trong một tia chớp của một phút xuất thần nhưng lại có tác động sâu xa, định hướng cả một đời người. Đó chính là cảm nghiệm của thánh Phê-rô khi ngài tuyên xưng Thầy mình là “Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống,” lời tuyên xưng “không phải do phàm nhân mạc khải” mà là do Thiên Chúa. Điều đó lại càng đúng với thánh Phao-lô khi ngài “ngộ” ra Đức Ki-tô qua lời phán trong “luồng ánh sáng” trên đường đi Đa-mát: “Ta là Giê-su mà ngươi đang bắt bớ” (x. Cv 9,1-9). Dù cảm nghiệm đức tin của hai ngài có nhiều khía cạnh khác nhau, cả hai đều cùng một niềm say mê Đức Ki-tô, lẽ sống của đời mình: “Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga
6,68). “Tôi sống, nhưng không còn là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2,20).
Mời Bạn: Niềm say mê Đức Ki-tô của các tông đồ cũng là động lực, là sức mạnh khiến các ngài hăng say rao giảng Tin Mừng và dũng cảm hy sinh mạng sống để làm chứng cho lời mình rao giảng. Chúa đã thương ban cho bạn ơn đức tin, để bạn trở thành chi thể của Hội Thánh, được xây trên máu của các thánh Tông Đồ và Tử Đạo. Với nhận thức đó, bạn hãy mạnh dạn sống niềm tin và lòng trung tín của mình.
Sống Lời Chúa: Nuôi dưỡng đức tin của mình bằng việc siêng năng lãnh nhận bí tích Thánh Thể.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa vì gương anh hùng của hai thánh Tông đồ Phê-rô và Phao-lô. Xin cho con hôm nay trung kiên theo bước các ngài sống chứng nhân Tin Mừng trong đời sống ki-tô hữu thường nhật.
Anh là tảng đá
Hội Thánh hôm
nay vẫn cần những Phêrô và Phaolô mới, dám bỏ, dám theo và dám yêu, dám sống và dám chết cho Ðức Kitô và Tin Mừng. Hội Thánh vẫn cần những chiếc cột và những tảng đá.
Suy
niệm:
Trong
ngày lễ kính thánh Phêrô và thánh Phaolô,
chúng
ta được mời gọi chiêm ngắm hai khuôn mặt,
rất
khác nhau mà cũng rất giống nhau.
Phêrô,
một người đánh cá ít học, đã lập gia đình.
Ông
theo Thầy Giêsu ngay từ buổi đầu sứ vụ.
Còn
Phaolô là người có nhiều điều để tự hào,
về
gia thế, về học thức, về đời sống đạo hạnh.
Ông
chưa hề gặp mặt Ðức Giêsu khi Ngài còn sống.
Nhưng
hai ông có nhiều nét tương đồng.
Cả
hai đều được Ðức Giêsu gọi.
Phêrô
được gọi khi ông đang thả lưới bắt cá nuôi vợ con.
Phaolô
được gọi khi ông hung hăng tiến vào Ðamát.
Cả
hai đã từ bỏ tất cả để theo Ngài.
Tất
cả của Phêrô là gia đình và nghề nghiệp.
Tất
cả của Phaolô là những gì ông cậy dựa vênh vang.
Bỏ tất
cả là chấp nhận bấp bênh, tay trắng.
Cả
hai đều đã từng có lần vấp ngã.
Vấp
ngã bất ngờ sau khi theo Thầy như Phêrô,
trong
một phút giây quá tự tin vào sức mình.
Ngã
ngựa bất ngờ và trở nên mù lòa như Phaolô,
trong
lúc tưởng mình sáng mắt và đi đúng hướng.
Vấp
ngã nào cũng đau và in một dấu không phai.
Vấp
ngã bẻ lái đưa con người đi vào hướng mới.
Phêrô
và Phaolô đều yêu Ðức Giêsu cách nồng nhiệt,
vì
họ cảm nhận sâu xa mình được Ngài yêu.
“Này
anh Simon, anh có mến Thầy không?
Thưa
Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy.” (Ga 21,16)
Cả
Phaolô cũng yêu Ðấng ông chưa hề chung sống,
vì
Ngài là “Con Thiên Chúa,
Ðấng
đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi.” (Gl 2, 20)
Phaolô
đã không ngần ngại khẳng định:
Không
gì có thể tách được chúng ta
ra
khỏi Tình Yêu của Ðức Kitô (x. Rm 8, 35.39)
Tình
yêu Ðức Kitô là linh hồn của đời truyền giáo,
vì
nói cho cùng truyền giáo chính là
giúp
người khác nhận ra và yêu mến
Ðấng
đã yêu tôi và yêu cả nhân loại.
Cả
hai vị tông đồ đều hăng say rao giảng,
bất
chấp muôn vàn nguy hiểm khổ đau.
Phêrô
đã từng chịu đòn vọt ngục tù (x. Cv 5,40)
Còn
nỗi đau của Phaolô thì không sao kể xiết (x. 2C 11, 23-28).
“Tôi
mang trên mình tôi những thương tích của Ðức Giêsu” (Gl 6, 1-7)
Cả
hai vị đã chết như Thầy.
Phêrô
bị dẫn đến nơi ông chẳng muốn (x. Ga 21, 18).
Phaolô
đã chiến đấu anh dũng cho đến cùng,
và
đã đổ máu ra làm lễ tế (x. 2Tm 4, 6).
Hội
Thánh hôm nay vẫn cần những Phêrô và Phaolô mới,
dám
bỏ, dám theo và dám yêu,
dám
sống và dám chết cho Ðức Kitô và Tin Mừng.
Hội
Thánh vẫn cần những chiếc cột và những tảng đá.
Cầu
nguyện:
Lạy Chúa,
chúng
con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon,
một
người đánh cá ít học và đã lập gia đình,
để
làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội.
Chúa
xây dựng Giáo Hội
trên
một tảng đá mong manh,
để
ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa.
Hôm
nay Chúa cũng gọi chúng con
theo
Chúa, sống cho Chúa,
đặt
Chúa lên trên mọi sự :
gia
đình, sự nghiệp, người yêu.
Chúng
con chẳng thể nào từ chối
viện
cớ mình kém đức kém tài.
Chúa
đưa chúng con đi xa hơn,
đến
những nơi bất ngờ,
vì Chúa
cần chúng con ở đó.
Xin
cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon,
bỏ
mái nhà êm ấm để lên đường,
hạnh
phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
29
Tháng Sáu
Ngài Là Cha Tôi
Truyện
cổ Roma thường ghi lại các cuộc chiến thắng khải hoàn của các vị Hoàng đế. Sau
một lần thắng trận, các vị hoàng đế thường hướng dẫn các đoàn quân tiến qua các
ngã phố cho dân chúng tung hô.
Lần
kia, các đường phố đều đông nghẹt. Người ta phải dựng một khán đài đặc biệt để
hoàng gia có thể theo dõi cuộc diễu hành. Khi hoàng đế và quân đội tiến đến gần
khán đài nơi hoàng hậu và các công chúa, hoàng tử đang chờ đợi, người ta kinh
ngạc vô cùng vì vị hoàng tử nhỏ nhất đã rời khỏi khán đài và chạy vụt đến chiến
xa của hoàng đế.
Những
người vệ binh có trách nhiệm giữ an ninh hai bên đường đã chận hoàng tử lại. Họ
giải thích cho cậu biết rằng: xa giá đang tiến lại gần chính là xa giá của
hoàng đế. Không ai được phép đến gần... Vị hoàng tử nhỏ điềm nhiên trả lời:
"Ngài là hoàng đế của các ông, còn đối với tôi thì ngài là cha tôi".
"Ngài
là cha tôi": đó phải là danh xưng mà chúng ta có quyền sử dụng để gọi
Thiên Chúa. Ðó cũng là danh xưng nói lên mối liên hệ mật thiết mà Thiên Chúa
luôn muốn thắt chặt với từng người trong chúng ta.
"Ngài
là cha tôi": danh xưng ấy cũng cho phép chúng ta khẳng định về giá trị của
con người chúng ta. Dù chúng ta có bất tài, yếu hèn, tội lỗi đến đâu, chúng ta
vẫn có thể gọi Chúa là Cha.
"Ngài
là cha tôi": danh xưng ấy không cho phép chúng ta thất vọng về chính mình.
"Hãy trở nên chính mình". Ðó là mệnh lệnh mà Thiên Chúa dành cho từng
người chúng ta. Thiên Chúa yêu thương từng người trong chúng ta và yêu thương
chúng ta vì những cá biệt của từng người.
Hôm
nay chúng ta mừng trọng thể hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô. Hai trụ cột của
Giáo hội, nhưng đồng thời cũng là hai tính khí khác nhau, có khi lại xung khắc
nhau.
Một
người xuất thân từ một dân chài, nóng nảy, cục mịch. Một người xuất thân là một
thư sinh học rộng, hiểu sâu.
Hai
trình độ khác nhau, hai tính tình khác nhau, nhưng mẫu số chung nối kết hai tâm
hồn: đó là cuộc gặp gỡ với Ðức Kitô. Cuộc gặp gỡ ấy cũng diễn ra trong hai trường
hợp khác nhau. Một người chỉ thực sự khám phá ra con người của Ðức Kitô sau ba
lần phản bội. Một người chỉ nhận biết Ngài sau những lần truy lùng gắt gao các
môn đệ của Ngài... Một người đã nhận ra tình yêu của Ngài qua những giọt nước mắt
của sám hối, một người đã gặp gỡ Ngài sau một lần ngã ngựa đớn đau.
Hai
tính khí khác nhau, hai trực giác khác nhau, hai đường hướng hoạt động tông đồ khác
nhau, nhưng đã gặp gỡ nhau trong tình yêu Chúa và bổ túc cho nhau để xây dựng
Giáo hội của Chúa.
Hai
thánh tông đồ Phêrô và Phaolô vừa là hình ảnh đa diện phong phú của Giáo Hội, vừa
là biểu trưng của Tình Yêu của Chúa đối với chúng ta. Thiên Chúa yêu thương
chúng ta trong sự yếu hèn, thiếu sót của chúng ta. Tình yêu đó không đòi hỏi
chúng ta phải chối bỏ con người tự nhiên của chúng ta. Trái lại Chúa muốn sử dụng
tất cả những khuyết điểm, những giới hạn của con người chúng ta để làm nổi bật
sức mạnh và sự khôn ngoan của Ngài.
Lẽ Sống
Lectio Divina: Lễ Thánh Phêrô và
Thánh Phaolô, Tông Đồ
Thứ
Tư, 29 Tháng 6, 2016
Đức
Giêsu nói với ông Phêrô: “Này con là Đá!”
Tảng
Đá của hỗ trợ và của cản lối
Mt:
16:13-23
1.
Lời nguyện mở đầu
Lạy
Chúa Giêsu, xin hãy sai Thần Khí Chúa đến giúp chúng con đọc Kinh Thánh với
cùng tâm tình mà Chúa đã đọc cho các môn đệ trên đường Emmau. Trong
ánh sáng của Lời Chúa, được viết trong Kinh Thánh, Chúa đã giúp cho các môn đệ
khám phá ra được sự hiện diện của Thiên Chúa trong nỗi đau buồn về bản án và
cái chết của Chúa. Vì thế, cây thập giá tưởng như là sự kết thúc của mọi
niềm hy vọng, đã trở nên nguồn mạch của sự sống và sự sống lại.
Xin
hãy tạo trong chúng con sự thinh lặng để chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa
trong sự Tạo Dựng và trong Kinh Thánh, trong các sự việc của đời sống hằng ngày
và trong những người chung quanh, nhất là những người nghèo khó và đau khổ.
Nguyện xin Lời Chúa hướng dẫn chúng con, để giống như hai môn đệ từ Emmau,
chúng con cũng sẽ được hưởng sức mạnh sự phục sinh của Chúa và làm chứng cho những
người khác rằng Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng con như nguồn mạch của tình
anh em, công lý và hòa bình. Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con Đức
Maria, Đấng đã mặc khải cho chúng con về Chúa Cha và đã sai Chúa Thánh Thần đến
với chúng con. Amen.
2.
Bài Đọc
a)
Chìa khóa dẫn đến bài đọc:
Văn bản
phụng vụ của ngày lễ các Thánh Phêrô và Phaolô được lấy từ sách Tin Mừng theo
thánh Mátthêu 16:13-19. Trong phần bình luận của chúng ta, chúng tôi cũng
bao gồm các câu 20-23, bởi vì trong toàn bộ của văn bản, các câu 13-23, Chúa
Giêsu quay về phía thánh Phêrô và hai lần gọi ông là “đá”. Một lần Chúa gọi
ông là đá nền tảng (Mt 16:18) và một lần là tảng đá cản đường (Mt 16:23).
Cả hai câu nói bổ sung cho nhau. Trong khi đọc Tin Mừng, chúng ta nên chú
ý đến thái độ của ông Phêrô và những lời trang trọng mà Chúa Giêsu nói với ông
trong cả hai lần.
b)
Phân đoạn bài Tin Mừng để trợ giúp cho bài đọc:
Mt
16:13-14: Chúa Giêsu muốn biết người ta nghĩ gì về Người.
Mt
16:15-16: Chúa Giêsu hỏi các môn đệ và ông Phêrô tuyên xưng đức tin của
mình: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa!”
Mt
16:17-20: Sau đó, chúng ta có câu trả lời trang trọng của Chúa Giêsu dành
cho ông Phêrô (câu nói chính cho ngày lễ hôm nay).
Mt
16:21-22: Chúa Giêsu giải thích ý nghĩa của Đấng Cứu Thế, nhưng ông Phêrô
phản ứng và từ chối chấp nhận ý nghĩa ấy.
Mt
16:22-23: Câu trả lời long trọng của Chúa Giêsu dành cho ông Phêrô.
c)
Phúc Âm:
13 Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt
thành Cêsarêa Philípphê, và hỏi các môn đệ rằng: “Người ta bảo Con Người
là ai?” 14 Các ông thưa: “Người thì bảo là Gioan Tẩy
Giả, kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó.”
15 Chúa Giêsu nói với các ông: “Phần
các con, các con bảo Thầy là ai?” 16 Simon Phêrô thưa rằng:
“Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống.”
17 Chúa Giêsu trả lời rằng: “Hỡi
Simon con ông Giôna, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mặc khải
cho con, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. 18Vậy Thầy bảo
cho con biết: Con là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa
địa ngục sẽ không thắng được. 19 Thầy sẽ trao cho con chìa
khóa Nước Trời. Sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc, và
sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở.” 20 Rồi
Người cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Người là Đấng Kitô.
21 Từ lúc đó, Đức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho
các môn đệ biết: Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các
kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống
lại.
22 Ông Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt
đầu trách Người: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” 23 Nhưng
Đức Giêsu quay lại bảo ông Phêrô: “Satan, lui lại đàng sau Thầy!
Con cản lối Thầy, vì tư tưởng của con không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà
là của loài người.”
3.
Giây phút thinh lặng cầu nguyện
Để Lời
Chúa được thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.
4.
Một vài câu hỏi gợi ý
Để
giúp chúng ta trong việc suy gẫm cá nhân.
a) Điều gì trong đoạn Tin Mừng làm
tôi chú ý nhất?
b) Người ta nghĩ Đức Giêsu là ai?
Phần ông Phêrô và các môn đệ thì nghĩ Chúa Giêsu là ai?
c) Đối với tôi, Chúa Giêsu là
ai? Tôi là ai đối với Chúa Giêsu?
d) Phêrô có nghĩa là tảng đá theo
hai cách: hai nghĩa đó là gì?
e) Cộng đoàn chúng ta thì thuộc loại
tảng đá nào?
f) Trong đoạn Tin Mừng, chúng ta thấy
có một số ý kiến về Đức Giêsu là ai và một số cách bày tỏ đức tin. Ngày
nay cũng vậy, có một số ý kiến về Đức Giêsu là ai. Ý kiến của cộng đoàn
chúng ta về Đức Giêsu là gì? Sứ vụ ngụ ý dành cho chúng ta là loại sứ vụ
gì?
5.
Chìa khóa dẫn đến bài đọc
Dành
cho những ai muốn đào sâu hơn vào chủ đề.
i)
Bối cảnh:
Trong
phần tường thuật Tin Mừng của mình, thánh Mátthêu đã dùng cùng trình tự của Tin
Mừng theo thánh Máccô. Tuy nhiên, ông cũng trích dẫn một tài liệu được
thánh Luca và ông biết đến. Hiếm khi ông đưa ra những dữ kiện hoàn toàn của
ông, như trong bài Tin Mừng hôm nay. Bài Tin Mừng này và cuộc đối thoại
giữa Chúa Giêsu và ông Phêrô được giải thích theo nhiều cách khác nhau, thậm
chí còn theo những chiều hướng đối nghịch trong các giáo hội Kitô giáo khác
nhau. Trong Giáo Hội Công Giáo, văn bản này là cơ sở cho tính ưu việt của
ông Phêrô. Dù sao chăng nữa, cũng không có bất kỳ điều gì làm giảm bớt tầm
quan trọng của văn bản này, tốt nhất là đặt nó vào trong bối cảnh của Tin Mừng
Mátthêu, nơi mà ở những chỗ khác, phẩm chất được gán cho ông Phêrô cũng là gán
cho những người khác. Chúng không hẳn là riêng cho ông Phêrô.
ii)
Lời bình giải về văn bản:
a)
Mt 16:13-16: Các ý kiến của dân chúng và của các môn đệ về Đức Giêsu.
Chúa
Giêsu muốn biết người ta nghĩ gì về Người. Câu trả lời khá là đa dạng:
là Gioan Tẩy Giả, là tiên tri Giêrêmia hay một tiên tri nào đó. Khi
Chúa Giêsu hỏi ý kiến của các môn đệ, ông Phêrô nhân danh các ông mà thưa rằng:
“Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống!” Câu trả lời của ông Phêrô
không có gì mới mẻ. Vào một dịp trước đó, khi Chúa Giêsu đi trên mặt nước,
các môn đệ đã tuyên xưng đức tin một cách tương tự: “Quả thật Thầy là Con
Thiên Chúa!” (Mt 14:33). Đây là lời thừa nhận rằng trong Đức Giêsu, những
lời tiên tri của Cựu Ước đã được thực hiện. Trong Tin Mừng của thánh
Gioan, bà Máctha cũng đã tuyên xưng tín điều tương tự: “Thầy là Đấng
Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian” (Ga 11:27).
b)
Mt 16:17: Câu trả lời của Chúa Giêsu dành cho ông Phêrô: Hỡi
Simon, con ông Giôna, con thật có phúc!
Chúa
Giêsu tuyên bố rằng ông Phêrô thật là “có phúc” bởi vì ông đã được mặc khải bởi
Đức Chúa Cha. Câu trả lời của Chúa Giêsu cũng chẳng mới lạ gì. Vào
một dịp trước đây, Đức Giêsu cũng đã thực hiện việc công bố cùng một niềm ân
phúc cho các môn đệ vì các ông đã được nghe và được thấy điều mà trước đây
không ai được nghe và thấy (Mt 13:16), và Người ca tụng Đức Chúa Cha vì Người
đã mặc khải Con Thiên Chúa cho những kẻ bé mọn mà không mặc khải cho những bậc
khôn ngoan thông thái (Mt 11:25). Ông Phêrô là một trong những kẻ bé mọn
mà chính Chúa Cha đã mặc khải cho. Việc nhận thức rằng Thiên Chúa hiện diện
trong con người Đức Giêsu không phải “đến từ xác thịt và máu”, đó không phải là
kết quả của sự nghiên cứu hoặc nỗ lực của loài người, mà là một ân sủng mà
Thiên Chúa tự ý ban cho người đó.
c)
Mt 16:18-20: Tư cách khả năng của ông Phêrô: Là nền đá
tảng và giữ chìa khóa cửa Nước Trời.
1. Là Tảng Đá: ông Phêrô phải
là đá, đó là, ông phải là nền tảng vững chắc cho Hội Thánh, để Giáo Hội có thể
đứng vững trước các cuộc tấn công của cửa địa ngục. Qua những lời này của
Chúa Giêsu nói với ông Phêrô, thánh Mátthêu khuyến khích các cộng đoàn đang bị
bách hại và đau khổ tại Syria và Paléstine, là những người đã chứng kiến sự
lãnh đạo của ông Phêrô được đánh dấu từ lúc đầu. Dù rằng yếu ớt và bị đàn
áp, họ đã có một nền tảng vững chắc, được bảo đảm bởi Lời của Chúa Giêsu.
Vào những ngày ấy, các cộng đoàn được gieo trồng một mối quan hệ tình cảm rất vững
chắc với các nhà lãnh đạo đã tạo lập ra cộng đoàn. Do đó, các cộng đoàn tại
Syria và Paléstine đã vun trồng mối quan hệ của họ với con người Phêrô; những
người thuộc cộng đoàn Hy Lạp thì với thánh Phaolô; một số cộng đoàn ở tiểu Á
thì với Người Môn Đệ Chúa Yêu và những cộng đoàn khác thì với thánh Gioan của
sách Khải Huyền. Xác định căn tính của mình với nhà lãnh đạo của xứ sở họ
đã giúp cho cộng đoàn phát triển tốt hơn trong phần bản sắc và tâm linh.
Nhưng điều này cũng có thể làm phát sinh xung đột như trong trường hợp của cộng
đoàn Côrintô (1Cr 1:11-12).
Là nền
đá tảng của đức tin, gợi nhớ lại trong trí Lời Chúa nói với dân chúng trong thời
gian lưu đày ở Babylon: “Hỡi ai theo đuổi sự công chính, hỡi kẻ đi tìm Đức
Chúa, hãy nghe Ta! Hãy đưa mắt nhìn lên tảng đá: từ tảng đá này,
các ngươi sẽ được đẽo ra; hãy đưa mắt nhìn vào hầm đá: từ hầm đá này, các
ngươi sẽ được lấy ra. Hãy ngước mắt nhìn tổ phụ Ápraham và Sara, người đã
sinh ra các ngươi; vì khi được Ta gọi, Ápraham chỉ có một mình, nhưng Ta đã ban
phúc lành cho nó, và cho nó trở nên đông đảo” (Is 51:1-2). Khi được áp dụng
cho ông Phêrô, phẩm chất của nền đá tảng này hướng đến một khởi đầu mới cho dân
riêng của Thiên Chúa.
2. Chìa khóa của Nước Trời:
ông Phêrô nhận lãnh chìa khóa Nước Trời để cầm buộc và tháo gỡ, có nghĩa là, để
hòa giải con người với Thiên Chúa. Cùng một quyền lực cầm buộc và tháo gỡ
cũng được trao cho các cộng đoàn (Mt 18:8) và các môn đệ (Ga 20:23). Một
trong những điểm mà Tin Mừng Mátthêu khẳng định là ơn hòa giải và tha thứ (Mt
5:7,23-24,38-42,44-48; 6:14-15). Thực tế là vào những năm của thập niên
80 và 90, có rất nhiều căng thẳng và chia rẽ giữa các gia đình trong cộng đoàn
tại Syria vì đức tin vào Chúa Giêsu. Có một số người chấp nhận Ngài là Đấng
Mêssia trong khi những kẻ khác thì không, và điều này là nguồn gốc của nhiều
quan điểm trái ngược và xung đột. Thánh Mátthêu khẳng định về việc hòa giải.
Sự hòa giải tiếp tục là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của các điều
phối viên của cộng đoàn. Giống như ông Phêrô, họ cũng phải ràng buộc và
tháo gỡ, có nghĩa là, làm việc để mang lại sự hòa giải, chấp nhận lẫn nhau, và
xây dựng tình huynh đệ đích thực.
3. Hội Thánh: từ ngữ Hội
Thánh, tiếng Hy Lạp là ekklesia, được tìm thấy 105 lần trong Tân Ước,
hầu như luôn tìm thấy trong sách Tông Đồ Công Vụ và các Thánh Thư. Chúng
ta chỉ tìm thấy chữ này ba lần trong các sách Tin Mừng và chỉ trong sách Tin Mừng
của Mátthêu mà thôi. Từ ngữ này có nghĩa là “cộng đoàn được gọi” hay là
“cộng đoàn được tuyển chọn”. Từ ngữ này áp dụng cho những người tụ tập lại,
được mời gọi bởi Lời Thiên Chúa, những người tìm kiếm để sống sứ điệp về Nước
Trời được đem đến bởi Chúa Giêsu. Giáo Hội không phải là Nước Trời, mà là
một khí cụ và là một dấu chỉ của Nước Trời. Nước Trời thì cao trọng
hơn. Trong Giáo Hội, cộng đoàn, tất cả mọi người phải trông thấy hoặc nên
thấy những gì sẽ xảy ra khi một nhóm người để cho Thiên Chúa cai trị và chiếm hữu
đời sống của mình.
d)
Mt 16:21-22: Chúa Giêsu hoàn chỉnh những gì thiếu sót trong câu trả lời của
ông Phêrô, và Phêrô phản ứng bằng cách không chấp nhận.
Thánh
Phêrô đã tuyên xưng: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống!”
Để phù hợp với ý tưởng thịnh hành thời bấy giờ, ông đã tưởng tượng ra một Đấng
Cứu Thế vinh quang. Chúa Giêsu đã sửa ông: “Thật là cần thiết cho Đấng
Cứu Thế phải chịu đau khổ và sẽ bị giết chết tại Giêrusalem”. Với những
chữ “cần thiết”, Chúa nói rằng sự đau khổ đã được dự kiến trong những lời tiên
tri (Is 53:2-8). Nếu các môn đệ chấp nhận Chúa Giêsu như là Đấng Cứu Thế
và là Con Thiên Chúa, thì các ông cũng phải chấp nhận Người như là Đấng Mêssia
Tôi Tớ phải chịu chết. Không những chỉ có chiến thắng vinh quang mà cũng
còn phải qua con đường thập giá! Nhưng ông Phêrô không chịu nghe lời sửa
dạy của Chúa Giêsu và cố gắng thuyết phục Người.
e)
Mt 16:23: Câu trả lời của Chúa Giêsu cho ông Phêrô: Tảng đá cản đường
Câu
trả lời của Chúa Giêsu thật đáng ngạc nhiên: “Satan, lui lại đàng sau Thầy!
Con cản lối Thầy, vì tư tưởng của con không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà
là của loài người!” Satan là một trong những kẻ đã lôi kéo chúng ta ra khỏi
con đường mà Thiên Chúa đã vạch ra cho chúng ta. Chúa Giêsu, theo đúng
nghĩa đen, nói rằng: “Hãy lui lại đàng sau Thầy!” (theo tiếng
Latin, vada retro!). Ông Phêrô muốn lèo lái và chỉ đường.
Chúa Giêsu nói: “Hãy lui lại đàng sau Thầy!” Đức Giêsu là người chỉ
đường và giữ nhịp chứ không phải ông Phêrô. Người môn đệ phải đi theo sau
thầy mình. Người ấy phải sống trong sự chuyển đổi liên tục. Lời của
Chúa Giêsu cũng là một thông điệp cho tất cả những ai đang đứng đầu cộng
đoàn. Họ phải “đi theo” chúa Giêsu và không thể đi ở phía trước như ông
Phêrô đã muốn đi. Không phải chỉ có họ mới là những người có thể vạch ra
đường hướng hay cách thức. Mà trái lại, giống như ông Phêrô, thay vì phải
là tảng đá hỗ trợ, họ có thể trở thành tảng đá cản đường. Như có một số
người lãnh đạo cộng đoàn tại thời ông Mátthêu. Mơ hồ rằng hình như cũng
có những chuyện tương tự xảy ra giữa chúng ta ngày nay.
iii)
Phụ chú Tin Mừng liên quan đến ông Phêrô:
Chân
dung thánh Phêrô.
Thánh
Phêrô được biến đổi từ một ngư phủ đánh cá sang một ngư phủ đi lưới người (Mc
1:7). Ông đã lập gia đình (Mc 1:30). Ông là một người tốt bụng và rất
nhân bản. Ông có khuynh hướng đảm nhận vai trò lãnh đạo cách tự nhiên
trong số mười hai môn đệ của Chúa Giêsu. Đức Giêsu tôn trọng khả năng
thiên phú này và chọn Phêrô làm người lãnh đạo cho cộng đoàn đầu tiên của mình
(Ga 21:17). Trước khi gia nhập cộng đoàn của Chúa Giêsu, Phêrô có tên là
Simon con ông Giôna (Mt 16:17). Chúa Giêsu đặt tên cho ông là Kêpha có
nghĩa là Đá, và từ đó trở thành tên Phêrô (Lc 6:14).
Cách
tự nhiên, ông Phêrô có thể là bất cứ điều gì, ngoại trừ là đá. Ông dũng cảm
trong lời nói, nhưng trong giờ phút lâm nguy ông trở thành kẻ sợ hãi và trốn chạy.
Ví dụ, khi Đức Giêsu đi trên mặt nước, ông Phêrô đã hỏi: “Lạy Thầy Giêsu,
con cũng có thể đi trên mặt nước mà đến với Thầy không?” Chúa Giêsu trả lời:
“Cứ đến, Phêrô!” Ông Phêrô liền từ thuyền bước xuống và bắt đầu đi trên mặt
nước. Nhưng khi một làn gió lớn thổi lên, ông đã sợ và bắt đầu
chìm. Khi ấy ông kêu lên: “Lạy Chúa, xin cứu con với!” Chúa
Giêsu nắm lấy tay ông và cứu ông (Mt 14:28-31). Trong bữa Tiệc Ly, ông
Phêrô đã thưa với Chúa Giêsu: “Lạy Chúa, con sẽ không bao giờ chối Chúa!”
(Mc 14:31); thế mà chỉ ít giờ sau đó, tại dinh thượng tế, trước mặt một cô tớ
gái, khi Chúa Giêsu đã bị bắt, ông Phêrô đã chối Chúa Giêsu và thề độc rằng ông
không biết Người là ai (Mc 14:66-72). Trong vườn Cây Dầu, khi Chúa Giêsu
bị bắt, ông thậm chí còn dùng đến gươm đao (Ga 18:10), nhưng sau đó bỏ trốn, để
lại một mình Chúa Giêsu (Mc 14:50). Ông Phêrô tự nhiên không là một tảng
đá! Thế nhưng là một ông Phêrô yếu hèn và con người, cũng như chúng ta,
đã trở nên tảng đá bởi vì Chúa đã cầu nguyện cho ông: “Phêrô, Thầy đã cầu
nguyện cho con để con khỏi mất lòng tin. Phần con, một khi đã trở lại,
hãy làm cho anh em của con nên vững mạnh” (Lc 22:31-32). Đó là lý do tại
sao Chúa Giêsu đã có thể nói: “Con là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng
đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” (Mt 16:18). Chúa Giêsu đã giúp
ông trở thành tảng đá. Sau khi sống lại, ở Galilêa, Chúa Giêsu đã hiện ra
với ông Phêrô và hỏi ông hai lẩn: “Phêrô, con có yêu mến Thầy
không? Và ông Phêrô đã thưa lại hai lần: “Lạy Chúa, Chúa biết con
yêu mến Chúa” (Ga 21:15,16). Khi Chúa Giêsu hỏi cùng câu hỏi đến lần thứ
ba với ông, Phêrô đã buồn. Chắc ông đã nhớ đến việc mình đã chối Chúa ba
lần. Vì vậy, ông đã trả lời: “Lạy Chúa, Chúa biết tất cả mọi sự!
Chúa biết rằng con yêu mến Chúa!” Đến lúc đó Chúa Giêsu mới trao phó cho
ông việc chăm sóc đàn chiên: “Phêrô, hãy chăm sóc chiên của Thầy!” (Ga
21:17). Với sự giúp đỡ của Chúa Giêsu, sức mạnh của tảng đá tăng triển
trong con người Phêrô và ông đã tự tỏ lộ vào ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống.
Vào ngày hôm ấy, khi Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các môn đệ, ông Phêrô đã mở
các cánh cửa của căn phòng trên lầu nơi tất cả các ông đã cùng tụ họp đàng sau
các cánh cửa khép kín vì sợ người Do Thái (Ga 20:19), và được truyền cho lòng
can đảm, đã bắt đầu công bố Tin Mừng của Chúa Giêsu cho dân chúng (Cv
2:14-40). Từ đó ông không bao giờ ngừng nghỉ! Trong câu chuyện về
việc công bố dũng cảm này về sự sống lại, ông đã bị tống ngục (Cv 4:3).
Trong khi bị thẩm vấn, ông đã bị cấm không được loan báo về Tin Mừng của Chúa
Giêsu nữa (Cv 4:18), nhưng ông Phêrô đã không tuân theo lệnh cấm. Ông
đáp: “Chúng tôi phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời loài người!” (Cv
4:19; 5:29). Ông lại bị bắt lần nữa (Cv 5:18,26). Ông đã bị đánh
dòn (Cv 5:40). Nhưng ông đã nói: “Cảm ơn quý vị rất nhiều.
Nhưng chúng tôi phải tiếp tục giảng dạy! (xem Cv 5:42).
Truyền
thống cho chúng ta biết rằng vào cuối đời của ông, khi ở thành Rôma, ông Phêrô
đã lại có một khoảng khắc sợ hãi. Nhưng sau đó ông đã trở lại, bị bắt và
bị kết án tử hình đóng đinh trên thập giá. Tuy nhiên, ông đã xin cho được
đóng đinh ngược đầu xuống đất. Ông nghĩ rằng mình không xứng đáng để chết
trong cùng một cách như Thầy mình, Đức Giêsu. Ông Phêrô đã sống thật với
chính mình cho đến phút cuối cùng.
6.
Thánh Vịnh 103
(102)
Chúc
tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi,
toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh!
Chúc tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi,
chớ khá quên mọi ân huệ của Người.
CHÚA tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi,
thương chữa lành các bệnh tật ngươi.
Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt,
bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà,
ban cho đời ngươi chứa chan hạnh phúc,
khiến tuổi xuân ngươi mạnh mẽ tựa chim bằng.
CHÚA phân xử công minh,
bênh quyền lợi những ai bị áp bức,
mặc khải cho Môisen biết đường lối của Người,
cho con cái nhà Ít-ra-en
thấy những kỳ công Người thực hiện.
CHÚA là Đấng từ bi nhân hậu,
Người chậm giận và giàu tình thương,
chẳng trách cứ luôn luôn,
không oán hờn mãi mãi.
Người không cứ tội ta mà xét xử,
không trả báo ta xứng với lỗi lầm.
Như trời xanh trổi cao hơn mặt đất,
tình Chúa thương kẻ thờ Người cũng trổi cao.
Như đông đoài cách xa nhau ngàn dặm,
tội ta đã phạm, Chúa cũng ném thật xa ta.
Như người cha chạnh lòng thương con cái,
CHÚA cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn.
Người quá biết ta được nhồi nắn bằng gì,
hẳn Người nhớ: ta chỉ là cát bụi.
Kiếp phù sinh, tháng ngày vắn vỏi,
tươi thắm như cỏ nội hoa đồng,
một cơn gió thoảng là xong,
chốn xưa mình ở cũng không biết mình.
Nhưng ân tình CHÚA thiên thu vạn đại,
dành cho kẻ nào hết dạ kính tôn.
Người xử công minh cả với đời con cháu,
cả những ai giữ giao ước của Người
và nhớ tuân hành mệnh lệnh Người ban.
CHÚA đặt ngai báu trên trời cao thẳm,
quyền đế vương bá chủ muôn loài.
Chúc tụng CHÚA đi, hỡi muôn vì thiên sứ,
bậc anh hùng dũng mãnh thực hiện lời Người,
luôn sẵn sàng phụng lệnh.
Chúc tụng CHÚA đi, toàn thể thiên binh,
hằng hầu cận và tuân hành thánh ý.
Chúc tụng CHÚA đi, muôn vật Chúa tạo thành,
thuộc quyền Người thống trị khắp nơi nơi.
Chúc tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi!
toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh!
Chúc tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi,
chớ khá quên mọi ân huệ của Người.
CHÚA tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi,
thương chữa lành các bệnh tật ngươi.
Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt,
bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà,
ban cho đời ngươi chứa chan hạnh phúc,
khiến tuổi xuân ngươi mạnh mẽ tựa chim bằng.
CHÚA phân xử công minh,
bênh quyền lợi những ai bị áp bức,
mặc khải cho Môisen biết đường lối của Người,
cho con cái nhà Ít-ra-en
thấy những kỳ công Người thực hiện.
CHÚA là Đấng từ bi nhân hậu,
Người chậm giận và giàu tình thương,
chẳng trách cứ luôn luôn,
không oán hờn mãi mãi.
Người không cứ tội ta mà xét xử,
không trả báo ta xứng với lỗi lầm.
Như trời xanh trổi cao hơn mặt đất,
tình Chúa thương kẻ thờ Người cũng trổi cao.
Như đông đoài cách xa nhau ngàn dặm,
tội ta đã phạm, Chúa cũng ném thật xa ta.
Như người cha chạnh lòng thương con cái,
CHÚA cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn.
Người quá biết ta được nhồi nắn bằng gì,
hẳn Người nhớ: ta chỉ là cát bụi.
Kiếp phù sinh, tháng ngày vắn vỏi,
tươi thắm như cỏ nội hoa đồng,
một cơn gió thoảng là xong,
chốn xưa mình ở cũng không biết mình.
Nhưng ân tình CHÚA thiên thu vạn đại,
dành cho kẻ nào hết dạ kính tôn.
Người xử công minh cả với đời con cháu,
cả những ai giữ giao ước của Người
và nhớ tuân hành mệnh lệnh Người ban.
CHÚA đặt ngai báu trên trời cao thẳm,
quyền đế vương bá chủ muôn loài.
Chúc tụng CHÚA đi, hỡi muôn vì thiên sứ,
bậc anh hùng dũng mãnh thực hiện lời Người,
luôn sẵn sàng phụng lệnh.
Chúc tụng CHÚA đi, toàn thể thiên binh,
hằng hầu cận và tuân hành thánh ý.
Chúc tụng CHÚA đi, muôn vật Chúa tạo thành,
thuộc quyền Người thống trị khắp nơi nơi.
Chúc tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi!
7.
Lời Nguyện Kết
Lạy
Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa về Lời Chúa đã giúp chúng con hiểu rõ hơn
ý muốn của Chúa Cha. Nguyện xin Thần Khí Chúa soi sáng các việc làm của
chúng con và ban cho chúng con sức mạnh để thực hành Lời Chúa đã mặc khải cho
chúng con. Nguyện xin cho chúng con, cũng được trở nên giống như Đức
Maria, thân mẫu Chúa, không những chỉ lắng nghe mà còn thực hành Lời
Chúa. Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha trong sự hiệp
nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét