Trang

Thứ Tư, 3 tháng 8, 2016

04-08-2016 : THỨ NĂM - TUẦN XVIII THƯỜNG NIÊN - THÁNH GIOAN MARIA VIANNEY , Linh Mục - Lễ Nhớ

04/08
Thứ năm đầu tháng, tuần 18 thường niên
Thánh Gioan Maria Vianê, linh mục. Bổn mạng các Linh mục.
Lễ nhớ.

* Thánh nhân sinh năm 1786 ti Lyon. Sau biết bao khó khăn gian kh, người làm linh mc và được giao phó nhim v làm cha s h Ars thuc giáo phn Benle. Người qu là v mc t gương mu: hoàn toàn lo vic loan báo li Thiên Chúa, gii ti, cu nguyn và hãm mình. Có nhiu lúc, khuôn mt người rng r khác thường, nh tình yêu bt ngun t bí tích Thánh Th mà người đem hết lòng st sng đ va c hành, va th phượng. Người qua đi năm 1859.

BÀI ĐỌC I:  Gr 31, 31-34
"Ta sẽ ký kết giao ước mới và Ta sẽ không còn nhớ tội lỗi nữa".
Trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Chúa phán: "Đây tới ngày Ta ký kết giao ước mới với nhà Israel và nhà Giuđa, giao ước này không giống như giao ước Ta ký kết với tổ phụ chúng trong ngày Ta cầm tay chúng dắt ra khỏi đất Ai-cập, giao ước ấy chính chúng đã phản bội, mặc dầu Ta thống trị chúng". Chúa phán: "Đây là giao ước Ta sẽ ký kết với nhà Israel sau những ngày đó. Ta sẽ đặt lề luật của Ta trong đáy lòng chúng, và sẽ ghi trong tâm hồn chúng; Ta sẽ là Chúa của chúng, và chúng sẽ là dân của Ta". Chúa phán: "Người này sẽ không còn phải dạy người nọ, anh sẽ không còn phải dạy em rằng: 'Ngươi hãy nhìn biết Chúa', vì mọi người từ nhỏ chí lớn đều nhìn biết Ta, vì Ta sẽ tha tội ác của chúng, và sẽ không còn nhớ đến tội lỗi của chúng".  Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA:  Tv 50, 12-13. 14-15. 18-19
Đáp: Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch (c. 12a).
Xướng: 1) Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con.  -  Đáp.
2) Xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu độ, với tinh thần quảng đại, Chúa đỡ nâng con. Con sẽ dạy kẻ bất nhân đường nẻo Chúa, và người tội lỗi sẽ trở về với Ngài.  -  Đáp.
3) Bởi vì Chúa chẳng ưa gì sinh lễ; nếu con dâng lễ toàn thiêu, Chúa sẽ không ưng. Của lễ con dâng, lạy Chúa, là tâm hồn tan nát; lạy Chúa, xin đừng chê tấm lòng tan nát, khiêm cung. -  Đáp.
ALLELUIA:  Tv 144, 13cd
Alleluia, alleluia! - Chúa trung thành trong mọi lời Chúa phán, và thánh thiện trong mọi việc Chúa làm. - Alleluia.

PHÚC ÂM:   Mt 16, 13-23
"Con là Đá, Thầy sẽ ban cho con chìa khoá nước trời".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt thành Cêsarêa Philipphê, và hỏi các môn đệ rằng: "Người ta bảo Con Người là ai?" Các ông thưa: "Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó". Chúa Giêsu nói với các ông: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?" Simon Phêrô thưa rằng: "Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống". Chúa Giêsu trả lời rằng: "Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Vậy Thầy bảo cho con biết: Con là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được. Thầy sẽ trao cho con chìa khoá Nước trời. Sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở". Bấy giờ Người truyền cho các môn đệ đừng nói với ai rằng Người là Đức Kitô.
Kể từ đó, Chúa Giêsu bắt đầu tỏ cho các môn đệ thấy: Người sẽ phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ bởi các kỳ lão, luật sĩ và thượng tế, phải bị giết, và ngày thứ ba thì sống lại. Phêrô kéo Người lại mà can gián Người rằng: "Lạy Thầy, xin Chúa giúp Thầy khỏi điều đó. Thầy chẳng phải như vậy đâu". Nhưng Người quay lại bảo Phêrô rằng: "Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy: con làm cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người".  Đó là lời Chúa.
(thanhlinh.net)


Suy niệm : Vác Thập Giá Theo Chúa Giêsu
Có lẽ chúng ta quá quen thuộc với hình ảnh của Thập giá. Nơi nào có người Kitô hữu thì nơi đó có Thập giá. Vào thời Chúa Giêsu, Thập giá là một cực hình làm cho con người khiếp sợ, tủi hổ. Hằng ngày, người Do thái chứng kiến cảnh các tội nhân vác những khúc gỗ lớn tuần hành qua các khu phố trước khi đến Núi Sọ; những khúc gỗ sần sùi ấy sẽ được sử dụng để treo chính các tội nhân.
Chúa Giêsu đã loan báo về cái chết của Ngài, đồng thời mời gọi các môn đệ Ngài cũng hãy vác Thập giá của mình để tiến bước theo Ngài. Theo Chúa Giêsu, đó là lời mời gọi cốt yếu của Kitô giáo. Vì sự nghiệp, vì lý tưởng, người ta có thể hy sinh mạng sống của mình. Một người vô tín ngưỡng có thể vì lý tưởng dám hy sinh tất cả cuộc đời của mình; thế nhưng điểm chính yếu của Tin Mừng lại là một con người, đó là Chúa Giêsu Kitô. Ðời sống Kitô giáo chỉ có thể là đời sống, nếu nó được tiếp tục nuôi dưỡng bởi con người Chúa Kitô như là nguồn mạch của sự sống.
Chúng ta ghi dấu Thánh giá trên người chúng ta, chúng ta mang Thánh giá trong người chúng ta, đó không là dấu hiệu của sự chết, nhưng là biểu dương của một sức sống của Ðấng đã chết, đã phục sinh và đang tác động trong chúng ta. Nói như thánh Phaolô: "Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi". Chúa Kitô sống trong chúng ta để tiếp tục và hoàn tất công trình cứu rỗi của Ngài. Chúa Kitô đã vác Thập giá và đã chết một lần, cuộc Tử nạn ấy cần phải đươc tiếp tục qua các Kitô hữu. Cũng chính thánh Phaolô đã nói: "Tôi cần phải bổ khuyết những gì còn thiếu sót trong cuộc tử nạn của Chúa Kitô".
Thập giá đang được vẽ lại dưới muôn nghìn hình thức. Chúa Kitô đang tiếp tục vác Thập giá với những người đang bị giam giữ một cách bất công, những người bị tước đoạt quyền sống, những người bị tra tấn và hành hạ. Chúa Kitô đang tiếp tục cuộc tử nạn của Ngài qua con người chúng ta. Người Kitô hữu chịu gian khó thử thách vì ý thức rằng Chúa Kitô đang sống trong chúng ta.
Xin cho Lời Chúa và sức sống của Chúa nâng đỡ chúng ta, để giữa những đau khổ, thử thách của cuộc sống hiện tại, chúng ta luôn kiên vững và an vui.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)


Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Năm Tuần 18 TN2
Bài đọc: Jer 31:31-34; Mt 16:13-23

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Giao ước giữa Thiên Chúa và con người
Giao ước được thiết lập là do sự thỏa thuận của hai bên về một số những điều phải giữ: ví dụ: giao ước hôn nhân, khấn dòng. Nếu một bên vi phạm, giao ước sẽ không còn hiệu lực. Các bài đọc hôm nay đề cập đến những giao ước Thiên Chúa đã thực hiện với con người.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Sự khác biệt giữa hai giao ước: cũ và mới.
1.1/ Giao ước cũ: Giao ước này được thiết lập trên núi Sinai, khi Chúa đưa Israel ra khỏi Ai Cập và dẫn họ vào Đất Hứa. Chúa hứa nếu họ trung thành với Chúa và giữ Luật Chúa truyền, họ sẽ là dân riêng Chúa, và Chúa sẽ bảo vệ họ khỏi mọi quân lân bang xâm lấn.
Nhưng Israel đã hủy bỏ giao ước này như tiên tri Jeremiah tuyên sấm hôm nay: “Chính chúng đã huỷ bỏ giao ước của Ta, mặc dầu Ta là Chúa Tể của chúng.” Họ đã không trung thành với Chúa khi chạy theo các thần ngọai bang để thờ phượng chúng. Họ đã không tuân giữ các điều răn Chúa truyền bằng lối sống bất công và vô luân.
1.2/ Giao ước mới: Thay vì chia tay để con người chết trong tội, Thiên Chúa chọn để thiết lập một giao ước mới khi tuyên sấm hôm nay: “Này sẽ đến những ngày Ta sẽ lập với nhà Israel và nhà Giuđa một giao ước mới, không giống như giao ước Ta đã lập với cha ông chúng, ngày Ta cầm tay dẫn họ ra khỏi đất Ai-cập.”
Đây là nội dung của giao ước mới: “Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta. Chúng sẽ không còn phải dạy bảo nhau, kẻ này nói với người kia: "Hãy học cho biết Đức Chúa," vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta. Ta sẽ tha thứ tội ác cho chúng và không còn nhớ đến lỗi lầm của chúng nữa. Israel sẽ tồn tại mãi.”
2/ Phúc Âm: Giao ước mới giữa Chúa Giêsu và Hội thánh qua trung gian của Phêrô.
2.1/ Người ta bảo Thầy là ai? Bối cảnh lịch sử và địa dư của Caesar Philippi: Có hai nơi gọi là Caesar trên Đất Thánh: một gọi là Caesar Maritime, nằm gần bờ biển Mediteranean, và một gọi là Caesar Philippi vì nó nằm trong vùng thuộc tiểu vương Philip, một trong ba người con của Vua Herode. Nơi này cách Biển Hồ Galilee khỏang 25 miles về phía Đông Bắc, giáp biên giới với Syria, và được gọi là Banias ngày nay. Đây là vùng rất khác biệt với tất cả các nơi khác trong Đất Thánh: Điểm khác biệt đầu tiên là nước ở khắp mọi nơi, vì nó nằm dưới chân rặng núi Hermon, và khi tuyết chảy đều tập trung về đây lập thành đầu nguồn của sông Jordan trước khi chảy vào Biển Hồ Galilee.
Nơi đây là trung tâm của nhiều tôn giáo vì tính rất linh thiêng của nó: Thánh Vịnh 42:6 và 133:3 nhắc nhở cho mọi người Do-thái phải nhớ đến Chúa khi đến đây, vì sông Jordan là huyết mạch không thể thiếu trong đời sông của người dân. Nó là phúc lành và sức sống Chúa ban cho dân. Nơi đây cũng có khỏang 14 đền thờ của người Syria vì họ đã từng cư ngụ nơi này. Lại là nơi thờ thần Pan, thần thiên nhiên của người Hy-lạp khi họ đô hộ nơi này. Nơi thờ thần Pan là một cái động khổng lồ: đỉnh là một ngọn núi, chân là một vực thẳm rất sâu chứa đầy nước. Nơi đây, Philip cũng cho xây một đền thờ khổng lồ bằng đá cẩm thạch trắng trên núi để thờ hòang đế Caesar.
Đứng trước một trung tâm huyền bí và qui tụ rất nhiều các thần như nơi này, con người không khỏi lẫn lộn khi đặt cho mình một câu hỏi: Đâu là sự thật? Thần nào là thần phải thờ? Chúa Giêsu có ý định đặt câu hỏi để bắt các môn đệ phải tìm ra câu trả lời. Hơn nữa, hai sứ vụ chính của Ngài khi xuống thế là (1) mặc khải cho con người biết tất cả những gì Thiên Chúa muốn, và (2) huấn luyện các môn đệ để tiếp tục sứ vụ của Ngài trên trần gian. Đây là giờ phút quan trọng vì Ngài sắp sửa lên Jerusalem để chịu chết và hoàn thành sứ vụ của Ngài trên trần gian, nên Ngài cần phải biết chắc chắn những môn đệ của Ngài có hiểu sứ vụ của Ngài, nhất là biết rõ Ngài là ai trước khi có thể tiếp tục sứ vụ khi Ngài đã về trời.
Vì thế, Ngài bắt đầu bằng câu hỏi: "Người ta nói Con Người là ai?" Các ông thưa: "Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Elijah, có người lại cho là ông Jeremiah hay một trong các vị ngôn sứ." Tiểu vương Herode Antipas đã gọi Chúa Giêsu là Gioan Tẩy Giả sống lại từ cõi chết (Mt 14:2). Khi gọi Chúa là Eliiah, họ đã nhận ra phần nào sự quan trọng và uy quyền của Chúa vì người Do Thái tin tiên tri Eliiah chưa chết và sẽ trở lại trước thời Đấng Messiah sẽ tới (Mal 4:5). Họ vẫn để một ghế trống trong hội đường cho tiên tri khi họ cử hành Lễ Vượt Qua. Cũng vậy, khi gọi Chúa là Jeremiah vì họ cũng tin ông sẽ tới trước thời Đấng Messiah. Truyền thống tin là Jeremiah đã vào Đền thờ Jerusalem trước khi đi lưu đày bên Babylon để lấy Hòm Bia và hương án đem giấu trên núi Nebo và sẽ trở lại để “đúc lại” hai thứ này để Thiên Chúa tiếp tục hiện diện với Dân Người (2 Mac 2:1-12). Như thế, khi gọi Chúa Giêsu là Elijah hay Jeremiah, họ không tin Chúa Giêsu là Đấng Messiah, mà chỉ là tiên tri đến dọn đường trước khi Đấng Messiah đến. Nếu các môn đệ cũng tin như thế thì Chúa Giêsu sẽ thất bại!
2.2/ Các con bảo Thầy là ai? Vì vậy, giờ phút quyết liệt đã tới, Chúa Giêsu lại hỏi: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?" Ông Simon Phêrô thưa: "Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống." Chúa Giêsu nói với ông: "Này anh Simon con ông Jonas, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời.”
Đấng Kitô, Christ (tiếng Hy-lạp) chính là Đấng Messiah (tiếng Do-thái), có nghĩa là Đấng được xức dầu để làm vua mà toàn dân Do-thái đang mong đợi. Đây là câu trả lời Chúa Giêsu mong muốn, nhưng Chúa muốn cho Phêrô biết lý do tại sao ông biết điều mà người khác không biết: vì ông đã được mặc khải bởi Chúa Cha, Đấng ngự trên trời. Lý do này cũng được tuyên bố bởi Phaolô: Không ai có thể tuyên xưng Đức Kitô là Chúa mà không do Thánh Thần (I Cor 12:3).
Vì Phêrô đã đại diện các tông đồ để tuyên xưng con người đích thực của Chúa Giêsu, nên Ngài có thể an tâm sẽ có người kế vị để tiếp tục công việc Ngài đã khởi sự. Và Chúa Giêsu thiết lập giao ước mới với Phêrô: “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Đá, trên đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy." Rồi Người cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Người là Đấng Kitô.
Từ lúc đó, Chúa Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi Jerusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại. Ông Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: "Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!" Điều trên xảy ra cho Phêrô, chúng ta có thể hiệu được theo tính loài người: vì tuy Phêrô đã biết căn tính của Chúa là Đấng Thiên Sai phải đến, nhưng cũng như bao người Do-thái đương thời, ông nghĩ Chúa sẽ dùng uy quyền Thiên Chúa để thống trị các dân tộc. Vì thế, một Thiên Chúa phải cứu độ qua con đường đau khổ của Thập Giá là chuyện ông không thể tưởng tượng có thể xảy ra.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Trung thành với giao ước là điều kiện tiên quyết để được Thiên Chúa bảo vệ.
- Người khác có thể dạy cho chúng ta biết về Chúa, nhưng để nhận ra Chúa Giêsu là ai và tin vào Ngài đòi hỏi mối liên hệ của chúng ta với Chúa và phải được trợ giúp của Chúa Cha hay Thánh Thần.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

04/08/16 TH NĂM ĐU THÁNG TUN 18 TN
Th. Gio-an Ma-ri-a Vi-a-nê, linh mục                                 
Mt 16,13-23

Suy nim: Người ta nói Đc Giê-su là ngôn s. Điu này không sai, vì Đc Giê-su đến trn gian Người đm nhn s v ngôn s, là truyn đt li Chúa Cha cho nhân loi. Tuy nhiên, Đc Giê-su còn hơn c ngôn s. Người là Đng được xc du làm vua và làm Chúa; Người là Thiên Chúa. Do đó, câu tr li ca Phê-rô: “Thy là Đng Ki-tô, Con Thiên Chúa hng sng” là rt chính xác.
Mi Bn: Chúng ta có th ly câu nói ca thánh Phê-rô: Thy là Đng Ki-tô, Con Thiên Chúa hng sng làm câu tr li cho câu hi Đc Giê-su là ai. Tuy nhiên, nếu ch biết Đc Giê-su bng mt câu tr li suông như thế ch là biết theo lý thuyết. Trong khi cái biết sâu sc v Đc Giê-su là cái biết ca thc hành, ca vic đi theo Đc Giê-su và nên mt vi Người trong cuc thương khó, trong cái chết và phc sinh.
Chia s: Bn cm nghim thế nào khi liên kết đau kh ca mình vi cuc thương khó ca Đc Giê-su?
Sng Li Chúa: Nhm đi nhm li câu: Đi vi tôi Đc Giê-su là ai?
Cu nguyn: Ly Chúa Giê-su, con đường Chúa đi là đường thương khó và phc sinh, xin cho chúng con can đm chng minh rng chúng con biết Chúa bng cách chia s cuc thương khó và phc sinh vi Chúa.

Anh là tng đá
Cám d tránh con đường hp ca kh đau, nhc nhã, tht bi, khó nghèo là cám d muôn thu ca Giáo hi mi thi. 


Suy nim:
Chúng ta đã quen cầu nguyện cho Đức giáo hoàng với bài hát:
“Này con là đá, trên viên đá này Ta xây Giáo hội…”
Theo Tin Mừng Gioan, ngay từ lần đầu gặp gỡ (Ga 1, 42),
Đức Giêsu đã đặt cho anh Simon một tên mới: Kêpha, nghĩa là Đá.
Trong bài Tin Mừng bằng tiếng Hy Lạp, Đức Giêsu nói với Simon:
“Anh là Petros (Phêrô), và trên petra (đá) này, Thầy sẽ xây Giáo Hội Thầy.”
Rất có thể Ngài đã nói với Simon bằng tiếng Do Thái thời của Ngài như sau:
“Anh là Kêpha, và trên kêpha này Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy.”
Người Do Thái hầu như không có thói quen đặt tên con là Đá, Kêpha.
Khi đặt cho Simon cái tên lạ, Đức Giêsu đã muốn trao sứ mạng cho anh.
Anh sẽ là nền cho ngôi nhà mới của Thầy, do tay Thầy xây dựng (c. 18).
Ngôi nhà ấy chính là Giáo hội, là cộng đoàn giao ước mới do Thầy lập nên.
Chúng ta rất ngạc nhiên vì Đức Giêsu muốn đặt nền trên Kêpha (Phêrô),
một con người bình thường, một ngư phủ ít học.
Làm sao Giáo hội có thể xây nền trên một con người yếu đuối như thế?
Kêpha vững như bàn thạch không nhờ sức riêng, nhưng nhờ ơn Chúa.
Quyền lực của Tử thần, của Ác thần không thắng được cộng đoàn này.
Bất chấp những tấn công trong ngoài từ hai mươi thế kỷ qua,
Giáo hội vẫn đứng vững trên nền đá Phêrô, anh ngư phủ vùng Galilê,
đơn giản vì Chúa phục sinh vẫn luôn ở với Giáo hội (Mt 28, 20),
và vẫn tiếp tục xây dựng Giáo hội của Ngài trong sự thăng trầm của lịch sử.
Nhưng Phêrô cũng có những yếu đuối của mình.
Khi Thầy Giêsu loan báo về con đường khổ nạn và cái chết sắp đến,
Phêrô không thể chấp nhận được con đường hẹp này.
Dù đã được Cha mặc khải để biết Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa,
nhưng Phêrô lại chưa thể hình dung được một đấng Kitô thất bại ê chề.
“Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy” (c. 22).
Nếu Thầy là Con Thiên Chúa, thì Cha chẳng để Thầy phải chịu như vậy.
Trong phút chốc, từ Đá Tảng vững chắc (kêpha, petra)
Phêrô trở thành viên đá làm cho Thầy vấp phạm (scandalon),
trở thành cơn cám dỗ lớn cho Thầy đến từ Satan (c. 23).
Đức Giêsu đã phản ứng mạnh mẽ đối với anh môn đệ mà Ngài tin tưởng.
“Lui đi sau Thầy!”: Ngài nói giống như lần bị cám dỗ bởi Satan (Mt 4, 10).
Ngài muốn Phêrô trở lại vị trí đi sau của người môn đệ.
Cần có thời gian Phêrô mới hiểu được con đường Thầy đã đi.
và tự nguyện đón lấy cái chết thập giá mà chính Thầy đã chịu.
Cám dỗ tránh con đường hẹp của khổ đau, nhục nhã, thất bại, khó nghèo
là cám dỗ muôn thuở mà Thầy Giêsu và anh Phêrô đã trải qua,
cũng là cám dỗ muôn thuở của Giáo hội mọi thời.
Làm thế nào để chúng ta nghĩ như Thiên Chúa, chứ không như thế gian,
chọn sự ngu dại của Thập Giá hơn là sự khôn ngoan người đời (x. 1 Cr 1, 25)?
Cầu nguyn:
Lạy Chúa Giêsu,
Xin nhìn đến Hội Thánh của Chúa trên khắp hoàn cầu,
Hội Thánh Chúa đã lập bằng rất nhiều tình yêu.
Xin nhìn đến những nơi thiếu nhà thờ, cần chủ chăn,
những đồng lúa chín vàng chờ người gặt.
Xin nhìn đến những thánh đường vắng bóng giáo dân,
những chủng viện và tập viện phải đóng cửa vì thiếu ơn gọi.
Xin thương những kitô hữu đang bị bách hại ở nhiều nơi,
và  bao người trẻ mất đức tin, mất niềm hy vọng vào Chúa.
Lạy Chúa Giêsu,
Hội Thánh sau hai ngàn năm đã lớn mạnh hơn nhiều,
nhưng vẫn bị đe dọa bởi bao sóng gió bên ngoài và bên trong.
Xin cho Hội Thánh biết không ngừng canh tân nhờ Thánh Thần,
để có thể đồng hành và đối thoại với con người hôm nay.
Xin cho các kitô hữu sống thánh thiện như Cha trên trời.
để những khiếm khuyết của chúng con khỏi làm cớ cho nhiều người bỏ Chúa.
Cuối cùng, xin Chúa cho Hội Thánh chúng con những vị thánh mới,
tươi tắn, khiêm hạ và nhân từ như Chúa,
để cuộc sống ngát hương của họ khiến Hội Thánh đáng tin hơn,
và chinh phục được những tâm hồn chưa biết Chúa.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
4 THÁNG TÁM
Chúng Ta Không Đau Khổ Một Mình
Đối với câu hỏi bằng cách nào hòa giải sự dữ và đau khổ trên trần đời với chân lý về sự quan phòng của Thiên Chúa, chúng ta không thể đưa ra một câu trả lời đầy đủ mà không qui chiếu đến Đức Kitô. Một đàng, qua cuộc sống khó nghèo và khiêm nhường của Người – và nhất là qua cuộc Khổ Nạn và cái chết của Người – Đức Kitô xác nhận rằng Thiên Chúa có mặt với mọi người trong đau khổ của họ.
Hơn th ế nữa, Đức Kitô đã đảm nhận nơi chính Người tất cả những đau khổ của cuộc hiện sinh con người trên trái đất này. Đồng thời, Đức Giê-su Kitô mạc khải rằng đau khổ ấy có một giá trị và năng lực cứu độ. Trong đau khổ ấy có sự chuẩn bị của “một gia tài không thể hư hại, tàn phai” mà Thánh Phêrô đề cập đến trong Thư thứ nhất của ngài: “một gia tài được giữ trên trời cho anh em” (1Pr 1,4).
Như vậy, chân lý về sự quan phòng đạt được ý nghĩa cánh chung cuối cùng của nó xuyên qua “sức mạnh và sự khôn ngoan” của Thập Giá Đức Kitô. Câu trả lời đầy đủ cho vấn đề sự dữ và đau khổ được cung ứng bởi mạc khải của Thiên Chúa qua sự tiền định nơi Đức Kitô. Vì sự tiền định này cho ta thấy rằng ơn gọi của con người là đạt đến sự sống vĩnh cửu – tức tham dự vào trong chính sự sống của Thiên Chúa. Và đây là câu trả lời chính xác mà Đức Kitô đã đem lại cho chúng ta. Người đã xác nhận câu trả lời này qua Thập Giá và cuộc Phục Sinh của Người.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 04 – 8
Thánh Gioan Maria Vianney, linh mục
Gr 31,31-34; Mt 16,13-23.

Lời suy niệm: “Khi Đức Giêsu đến vùng kế cận thành Xê-da-rê Phi-líp-phê, Người hỏi các môn đệ rằng: Người ta nói Con Người là ai?”
Trước khi Chúa Giêsu lên Giêrusalem để đi vào cuộc tử nạn trên Thập Giá, Người muốn biết các Tông Đồ đã nhận ra Người là ai, nhưng Người tế nhị không hỏi trực tiếp với các ông bằng cách Người đặt câu hỏi: “ Người ta bảo Thầy là ai?” Các Tông Đồ đã thành thật trình bày: “Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ”. Với quan niệm này, đám đông dân chúng đã xem Người là một vị tôn sư tột đỉnh,  ngang hàng với các ngôn sứ lỗi lạc nhất. Sau khi đã nghe các ông trình bày, Người mới đặt câu hỏi với các Tông Đồ: “Còn các con, các con bảo Thầy là ai?” Ông Simon Phêrô thưa: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.”
Lạy Chúa Giêsu. Chúa đang đòi hỏi nơi mỗi người chúng con phải nhận ra Chúa là ai? Xin ban cho mỗi người chúng con có sự ham thích học hỏi Giáo lý, học hỏi Kinh thánh và suy niệm Lời Chúa để biết rõ Chúa và tình thương của Chúa đối với chúng con. Để hằng ngày chúng con vui sống đức tin.
Mạnh Phương


Gương Thánh Nhân
Ngày 04-08
Thánh GIOAN MARIA VIANEY
Linh Mục (1786 - 1859)

Gioan Maria Vianney sinh ngày 8 tháng 5 năm năm 1786 tại Dardilly. Cha mẹ Ngài là những nông dân trung kiên với đức tin. Suốt thời cách mạng Pháp, họ thường bí mật tiếp rước các linh mục đến trú ngụ. Vì vậy Gioan là một trẻ em có mặt trong các buổi lễ cử hành lén lút tại lẫm lúa và được chứng kiến rất nhiều mẫu gương anh hùng với đức tin.
Năm lên 11, Gioan được cha Greboz cho xưng tội lần đầu. Tháng 5 năm 1798 Gioan được mẹ dẫn sang nhà bà dì ở Ecully để dọn mình rước lễ vỡ lòng. Mùa xuân năm 1799 Gioan cùng với 15 em khác được rước lễ vỡ lòng trong một thánh lễ được cử hành giữa đống rơm. Ngài rước lễ rất sốt sắng và đã giữ cho đến chết tràng chuỗi Mân côi kỷ niệm ngày hạnh phúc này.
Năm 1800 thanh bình trở lại với các tín hữu, khi Napoléon nhận biết rằng không có tôn giáo thì không có một tổ chức nào có thể tồn tại vững bền được. Từ nhỏ Gioan đã muốn làm linh mục. Khi bày tỏ ý định tốt đẹp này, Ngài đã 17 tuổi và mới chỉ qua bậc tiểu học. Mẹ Ngài tán thành chí nguyện, nhưng cha Ngài với óc thực tế đã băn khoăn rất nhiều và không chấp nhận. Mãi tới năm 1805, Gioan đến sống với cha Belley, họ Ecully. Theo học với các bạn tuổi còn nhỏ, mà trí khôn Ngài lại quá trì trệ. Đã vậy vào năm 1890, Ngài lại còn phải nhập ngũ. Năm sau Ngài may mắn được trở về nhà.
Năm 1810, Gioan gia nhập tiểu chủng viện Verrières. Hai năm trôi qua, Ngài là một chủng sinh học hành rất kém. Dầu vậy Ngài cũng nhận vào đại chủng viện. Tại đây chuyển ngữ là tiếng Latinh, mà Gioan lại quá dở về môn này, khiến ban giám đốc khuyên thầy hồi tục. Không thất vọng một lần nữa cha Balley đảm nhận việc dạy dỗ người chủng sinh gương mẫu nhưng chậm trí này. Sau khi hoàn tất chương trình học, ngày 13 tháng 8 năm 1815, Gioan Maria Vianney thụ phong linh mục tại nguyện đường đại chủng viện Grênoble. Ngài được gọi lên chức linh mục chính vì đời sống đạo đức.
Sau khi thụ phong, cha Gioan Maria Vianney được cử làm phó xứ Ecully. Tháng 12 năm 1817, cha Balley qua đời, cha Vianney được cử về làm chánh sở họ Ars. Khi bổ nhiệm, cha tổng đại diện nhắn nhủ : - "Đây là một họ đạo nhỏ bé nghèo nàn, thiếu vắng tình yêu Chúa. Cha hãy mang tình yêu đến cho họ".
Ngày 9 tháng 2 năm 1818 cha đến xứ lần đầu với hành lý khiêm tốn chất trên một chiếc xe tay, gồm một chiếc giường cũ, một rương sách và ít đồ vặt vãnh khác. Tới gần làng, Ngài dừng chân hỏi đường. Bọn trẻ chăn chiên không hiểu tiếng nói khác với thổ ngữ chúng vẫn dùng nhưng cũng đoán biết và chỉ lối cho cha. Khi biết được điạ sở, cha Gioan quì gối cầu nguyện cho những người sẽ là đoàn chiên của mình. Tới nơi Ngài vào thẳng nhà thờ và chìm trong kinh nguyện.
Nhà xứ Ars thật nghèo nàn với vài đồ vật thật sơ sài. Chính cha sở trẻ họ đạo lại coi đời sống cầu nguyện hãm mình là phương thế để thành công. Trong khi mọi người còn triền miên giấc điệp, Ngài đã xách đèn từ nhà xứ sang nhà thờ để cầu nguyện. Trước nhà tạm, nhiều lần với nước mắt ướt cả sàn nhà, Ngài tha thiết cầu nguyện : - Lạy Chúa, con xin lãnh chịu tất cả, nhưng xin Chúa cải hóa họ đạo của con... Con bằng lòng chịu mọi đau khổ như Chúa muốn, miễn sao họ biết hồi tâm hối cải.
Chìm đắm trong kinh nguyện, cha Gioan không quan tâm tới nhu cầu thể xác, mà Ngài coi như cái thây ma. Ngủ đã ít, Ngài lại thường nằm trên sàn nhà. Đồ đạc người ta dâng cúng, Ngài đem cho người nghèo... Vui cười Ngài nói: - Tôi không hề mất áo choàng bao giờ. Chuyện ăn uống Ngài cũng chẳng quan tâm đến, tự mình nấu ăn, Ngài chỉ nấu một nồi khoai rồi treo lên tường.
Khi đói Ngài ăn một hai củ và củ thứ ba là "để cho vui miệng". Nồi khoai thường để lâu cho đến nỗi những củ cuối cùng thường bị mốc meo. Ngài hãm mình như vậy cho tới năm 1827, khi các chị dòng Chúa quan phòng nấu ăn cho Ngài.
Hơn nữa thánh nhân còn tự ý hãm mình. Mỗi đêm Ngài đều đánh tội trước khi ngủ. Trên tường phòng Ngài còn loang lổ nhiều vết máu.
Với một đời sống cầu nguyện hy sinh như vậy, thánh nhân nỗ lực canh tân họ đạo. Về xứ được ít lâu, Ngài sớm nhận ra được ba tệ đoan trong họ đạo là sự lãnh đạm với việc đạo đức, thói quen làm việc xác ngày Chúa nhật và tật ham khiêu vũ.
Để chấn hưng lại tình trạng suy dồi kia, dĩ nhiên thánh nhân gia tăng lời cầu nguyện và việc hãm mình. Trong hoạt động Ngài đi thăm viếng các gia đình. Sửa lại tình trạng thiếu hiểu biết về đạo, Ngài lo dạy giáo lý cho trẻ em. Suốt 27 năm, cha thánh Gioan ngày nào cũng trung thành với viêc dạy giáo lý. Đối với người lớn cha dọn bài giảng rất kỹ lưỡng. Ngồi trong phòng thánh cạnh nhà tạm, cha viết bài giảng, Đêm thứ bảy cha học và tập giảng - cho hôm sau lời giảng của cha rất đơn sơ, nhưng xoáy vào lòng người nghe.
Chẳng hạn Ngài nói: - Không có gì vững bền cả. Đời sống sẽ qua đi... danh giá cũng sụp đổ, của cải rồi sẽ tiêu tan, sức khỏe cũng bị tấn công, chúng ta ra đi như làn gió.
- Càng cầu nguyện người ta càng ham thích, như một con cá trồi lên mặt nước rồi chìm mình trở lại và luôn bơi đi mãi. Linh hồn đắm chìm trong lời cầu nguyện sẽ mất hút trong sự êm dịu của cuộc đàm thoại với Chúa.
Các câu chuyện nhỏ cha kể nhiều khi có giá trị như một bài giảng. Chẳng hạn cha nói về một em nhỏ bị đau bịnh :- Con đau đớn lắm không ?
Cậu bé trả lời "Hôm qua con không đau đớn gì và ngày mai con cũng hết khổ".
Cha hỏi lại : - Vậy con muốn được lành bệnh không ?
- Trước khi bệnh con hung dữ, khỏi bệnh con dám như vậy lắm. Để như thế nầy là tốt hơn cả.
Chống lại tật làm việc xác, cha nói: - Ngày chủ nhật là của Chúa. Mà anh em ăn trộm cũng chẳng lợi ích gì cho anh em. Tôi biết có hai phương thế chắc chắn để nên nghèo khó là làm việc ngày Chúa nhật và lấy của kẻ khác.
Để chống lại tật ham khiêu vũ, đã có lần cha đến giữa đám để giải tán. Lần khác cha bỏ tiền trả cho nhạc công để anh rút lui. Tích cực hơn, cha lập hội Mân Côi để tập họp các thiếu nữ vào việc thực hành đạo đức này.
Hơn nữa, trong họ có bảy quán rượu cha hết sức khuyên nhủ và cả chúc dữ nữa để họ đổi nghề. Cuối cùng cả 7 quán đều đóng cửa.
Thấy trọng trách của một chủ chiên quá nặng nề. Đã bốn lần cha Gioan tìm cách trốn khỏi họ đạo. Nhưng rồi cha đã bị phát giác, tiếng chuông reo vang và người ta đổ xô ra đường để giữ cha lại. Nỗ lực của cha không dễ dàng được tiếp nhận. Người ta tìm nhiều cách để vu khống cho cha nhiều tội tày trời. Thành công của cha khiến cho nhiều người nghi ngờ và ghen tị, đến nỗi tòa giám mục phải mở cuộc điều tra. Sau nữa chính quỉ dữ cũng phải công khai phá cha dưới nhiều hình thức như xê dịch đồ đạc, la lối om sòm, hiện hình kỳ quái... đến độ đốt cháy cả giường nằm.
Nhớ lại tất cả những gì đã trải qua, cha nói:
- Khi đến Ars, nếu biết được tất cả những gì tôi phải chịu chắc tôi chết liền.
Nhưng ơn thánh Chúa đã nâng đỡ Ngài. Mỗi ngày trong thánh lễ, Ngài được thấy chính Chúa Giêsu. Dần dần họ Ars đã được biến đổi, hương thơm thánh thiện còn bay lan rộng ra khỏi ngôi làng bé nhỏ và hẻo lánh này. Khách thập phương từ khắp nơi đổ xô đến, để được chiêm ngưỡng một cha sở thánh thiện, để được nghe lời Ngài, để xưng tội. Cha Gioan đã làm vui lòng mọi người.
Suốt hai mươi năm trời, cha như chôn mình trong tòa giải tội, từ sau lễ tới 11 giờ trưa, rồi từ 1 giờ chiều tới 8 giờ tối. Sau này khi được qua đời, cha được chôn cất tại nhà nguyện thánh Gioan tẩy giả, cạnh tòa giải tội mà người ta gọi là phép lạ lớn nhất ở Ars.
Tận tụy với các linh hồn, cha Gioan cũng được ơn thấu tỏ lòng người. Ngày kia có một du khách tới Ars để đi săn. Nhìn ông với con chó bên cạnh, Ngài nói : "Con chó của ông thật đẹp, nhưng linh hồn chẳng đẹp tí nào". Cúi mặt người du khách vào toà xưng tội.
Một người đàn bà khác nghe cha nói: "Ông ấy đã được rỗi. Giữa thành cầu và giòng nước, ông đã kịp ăn năn tội...". Thế là cha đã biết nỗi lo âu sầu của bà, vì cái chết mới đây của chồng bà. Ngài đã mang lại cho bà niềm an ủi khi cho biết rằng: nhờ những bó hoa và vài lần cầu nguyện với vợ mỗi tháng Đức Mẹ, mà người chồng xấu số kia đã được cứu rỗi.
Đời sống của cha Gioan là một mẫu gương tận tụy vì Chúa và vì các linh hồn, Ngài thường nói: "Hạnh phúc cho một vị linh mục được hao mòn vì Chúa và các linh hồn".
Quả thực, cha Gioan đã hao mòn vì phụng sự. Ngày 2 tháng 8 năm 1859 cha chịu các phép bí tích sau hết. Ngày 4 tháng 8 năm 1859 cha trút hơi thở cuối cùng với sự mãn nguyện.
- Phải chết lành khi người ta sống trên thánh giá.
Ngày tháng 5 năm 1925, cha Gioan được tôn phong hiển thánh và năm 1925 được đặt làm bổn mạng các cha sở trên toàn thế giới.
(daminhvn.net)


04 Tháng Tám
Sức mạnh Của Thiên Chúa

Ðược biết đến và được yêu mến như cha sở họ Ars, cha Gioan Maria Vianney, vị thánh được giáo hội mừng kính hôm nay, là một trong những người làm chứng về lời thánh Phaolô đã nói: "Thiên Chúa đã chọn những người không ra gì, để làm rối loạn những người mạnh mẽ".
Năm 1815, thầy Gioan được truyền chức linh mục.
Sau ba năm tập sự dưới sự hướng dẫn của cha Balley, cha Gioan được chỉ định đến xứ Ars. Trên đường đi nhận họ đạo, khi đi đến khúc đường chật hẹp, cỏ mọc ngụp đầu người, giữa lúc không còn biết hướng đi, cha Gioan đã dừng lại hỏi cậu bé mười tuổi tên Anton đang chăn cừu gần đấy. Cậu bé lịch sự chỉ lối cho cha.
Ngày nay tại nơi đây, dân làng Ars đã dựng một tượng đài để kỷ niệm cuộc gặp gỡ này, gồm có tượng đồng diễn tả thánh Gioan Vianney đang đứng trò chuyện với cậu Anton, một tay ngài đặt lên vai cậu, một tay chỉ lên trời. Dưới chân tượng, người ta ghi câu cám ơn của thánh nhân: "Cám ơn con đã chỉ cho cha đường đi tới Ars. Rồi đây, cha sẽ chỉ cho con đường về Thiên Ðàng".
Thực ra, cha Gioan đã không những giữ lời mình đã hứa chỉ đường cho một mình em Anton về quê Trời mà thôi, nhưng cho cả giáo xứ Ars và trăm ngàn người khác từ khắp nơi kéo đến hành hương, để được xưng tội và được hướng dẫn trở về đường ngay nẻo chính.
Ý thức bổn phận của linh mục là dấn thân phục vụ cho đàn chiên, cha Gioan đã hoạch định cho mình một chương trình sống, một chương trình chúng ta có thể gói gém vào ba hoạt động chính sau đây: Nếp sống khắc khổ hy sinh, tôn sùng Phép Thánh Thể và thi hành việc mục vụ qua lời giảng dạy cũng như trong tòa Giải Tội.
Ðể thi hành việc mục vụ, cha Gioan đã cho tha nhân thời giờ của mình: Mỗi ngày cha chỉ dùng 2 hay 3 giờ để nghỉ ngơi lấy sức. Giờ còn lại cha dùng để cầu nguyện và giải tội.
Quỳ lâu trong nhà thờ vào lúc canh khuya, cha Gioan duyệt lại trước Thánh Thể hoàn cảnh của tất cả 230 tín hữu trong họ đạo Ars, từng người một, từng nhu cầu của mỗi người.
Ngoài ra, mỗi ngày vào mùa đông lạnh lẽo, cha Gioan giải tội trung bình khoảng 11 hay 12 tiếng đồng hồ. Vào mùa hè, có khi ngài sử dụng đến 16 giờ để giao hòa các hối nhân lại với Thiên Chúa.
Cha Gioan thường gọi những giờ giải tội lâu dài này là "Giờ của Thiên Chúa". Trong suốt 41 năm mục vụ, cha Gioan có dịp nghe những tội lỗi của con người, những vấn đề, những khó khăn của trần gian. Ðể xoa dịu, mỗi sáng bước lên bàn thờ dâng Thánh Lễ, cha mang theo hết mọi ý nguyện, mọi hoài bão cũng như mọi yếu đuối, mọi lỗi lầm của toàn dân, để xin Thiên Chúa thanh luyện, cải hóa. Qua đó, tòa giải tội trở nên như một giếng nước trong lành, nơi giáo dân đến múc lấy Tình Thương Yêu của Thiên Chúa.
(Lẽ Sống)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét