Trang

Thứ Năm, 2 tháng 2, 2017

03-02-2017 : THỨ SÁU - TUẦN IV THƯỜNG NIÊN

03/02/2017
Thứ 6 tuần 4 TN


Bài Ðọc I (Năm I): Dt 13, 1-8
"Ðức Giêsu Kitô hôm qua, hôm nay và cho đến muôn đời vẫn như thế".
Trích thơ gửi tín hữu Do-thái.
Anh em thân mến, tình bác ái huynh đệ phải tồn tại trong anh em. Anh em đừng lãng quên việc cho khách đỗ nhà: vì khi làm như vậy, có kẻ không ngờ mình đã đón tiếp các thiên thần. Anh em hãy nhớ đến những tù nhân như chính anh em bị tù đày chung với họ, và hãy nhớ đến những kẻ đau khổ, vì chính anh em cũng đang ở trong thân xác như họ. Mọi người phải tôn trọng hôn nhân, hãy giữ phòng the cho tinh khiết, vì Thiên Chúa sẽ đoán phạt các người tà dâm và ngoại tình. Trong nếp sống, anh em đừng tham lam; hãy bằng lòng với những gì đang có, vì Chúa đã phán: "Ta sẽ không để mặc ngươi và không bỏ rơi ngươi đâu", đến nỗi chúng ta có thể tin tưởng mà thưa rằng: "Chúa là Ðấng phù trợ tôi, tôi chẳng sợ người đời làm gì được tôi". Anh em hãy nhớ đến các vị lãnh đạo anh em, là những người đã rao giảng lời Chúa cho anh em. Hãy nhìn xem đời họ kết thúc ra sao mà noi gương đức tin của họ. Ðức Giêsu Kitô hôm qua, hôm nay, và cho đến muôn đời vẫn như thế.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 26, 1. 3. 5. 8b-9abc
Ðáp: Chúa là sự sáng và là Ðấng cứu độ tôi (c. 1a).
Xướng: 1) Chúa là sự sáng, là Ðấng cứu độ tôi, tôi sợ chi ai? Chúa là Ðấng phù trợ đời tôi, tôi sợ gì ai? - Ðáp.
2) Nếu thiên hạ đồn binh hạ trại để hại tôi, lòng tôi sẽ không kinh hãi, nếu thiên hạ gây chiến với tôi, tôi vẫn tự tin. - Ðáp.
3) Vì ngày tai hoạ, Chúa sẽ che chở tôi trong nhà Chúa, Chúa sẽ giấu tôi trong nơi kín đáo ở Ðền Người, trên tảng đá vững chắc Người sẽ cất nhắc tôi lên. - Ðáp.
4) Và lạy Chúa, con tìm ra mắt Chúa. Xin Chúa đừng ẩn mặt xa con, xin đừng xua đuổi tôi tớ Ngài trong thịnh nộ. Chúa là Ðấng phù trợ con, xin đừng hất hủi con. - Ðáp.

Alleluia: Mt 4, 4b
Alleluia, alleluia! - Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra. - Alleluia.

Phúc Âm: Mc 6, 14-29
"Ðó chính là Gioan Tẩy Giả trẫm đã chặt đầu, nay sống lại".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, vua Hêrôđê nghe nói về Chúa Giêsu, vì danh tiếng Người đã lẫy lừng, kẻ thì nói: "Gioan Tẩy giả đã từ cõi chết sống lại, nên ông đã làm những việc lạ lùng"; kẻ thì bảo: "Ðó là Êlia"; kẻ khác lại rằng: "Ðó là một tiên tri như những tiên tri khác". Nghe vậy, Hêrôđê nói: "Ðó chính là Gioan trẫm đã chặt đầu, nay sống lại". Vì chính vua Hêrôđê đã sai bắt Gioan và giam ông trong ngục, nguyên do tại Hêrôđia, vợ của Philipphê anh vua mà vua đã cưới lấy. Vì Gioan đã bảo Hêrôđê: "Nhà vua không được phép chiếm lấy vợ anh mình". Phần Hêrôđia, nàng toan mưu và muốn giết ông, nhưng không thể làm gì được, vì Hêrôđê kính nể Gioan, biết ông là người chính trực và thánh thiện, và giữ ông lại. Nghe ông nói, vua rất phân vân, nhưng lại vui lòng nghe. Dịp thuận tiện xảy đến vào ngày sinh nhật Hêrôđê, khi vua thết tiệc các quan đại thần trong triều, các sĩ quan và những người vị vọng xứ Galilêa. Khi con gái nàng Hêrôđia tiến vào nhảy múa, làm đẹp lòng Hêrôđê và các quan khách, thì vua liền nói với thiếu nữ ấy rằng: "Con muối gì, cứ xin, trẫm sẽ cho", và vua thề rằng: "Con xin bất cứ điều gì, dù là nửa nước, trẫm cũng cho". Cô ra hỏi mẹ: "Con nên xin gì?" Mẹ cô đáp: "Xin đầu Gioan Tẩy Giả". Cô liền vội vàng trở vào xin vua: "Con muốn đức vua ban ngay cho con cái đầu Gioan Tẩy Giả đặt trên đĩa". Vua buồn lắm, nhưng vì lời thề và vì có các quan khách, nên không muốn làm cho thiếu nữ đó buồn. Và lập tức, vua sai một thị vệ đi lấy đầu Gioan và đặt trên đĩa. Viên thị vệ liền đi vào ngục chặt đầu Gioan, và đặt trên đĩa trao cho thiếu nữ, và thiếu nữ đem cho mẹ. Nghe tin ấy, các môn đệ Gioan đến lấy xác ông và mai táng trong mồ.
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Sự bất tử của thánh nhân

Những bậc vĩ nhân thường được nhân gian biến thành bất tử. Người Do thái tin rằng vị tiên tri vĩ đại nhất của họ là Êlia đã không chết, nhưng được cất nhắc về Trời; khi Gioan Tẩy Giả xuất hiện, người ta lại tin rằng ngài chính là hiện thân của Êlia: rồi đến lượt Gioan Tẩy Giả bị giết chết, người ta lại cho rằng ngài đang sống lại trong con người Chúa Giêsu.
Có lẽ để xóa tan những lời đồn đoán như thế, thánh sử Marcô đã kể lại từng chi tiết cuộc xử trảm Gioan Tẩy Giả, cũng như ghi lại việc chôn cất thánh nhân. Gioan Tẩy Giả đã thực sự chết và ngài đã không bao giờ sống lại, cũng chẳng được cất nhắc lên trời như Êlia.
Gioan Tẩy Giả là nạn nhân của bất công. Có bất công khi người ta đặt chính trị lên trên những giá trị khác của cuộc sống, như tinh thần và niềm tin; có bất công khi người ta hành động theo bản năng hơn là theo tinh thần. Vua Hêrôđê lẫn nàng Hêrôđia đều đã hành động theo lối ấy. Hêrôđia sống bất chấp luân thường đạo lý, còn Hêrôđê thì cho dù vẫn sáng suốt để phân biệt được điều ngay với lẽ trái, nhưng lại chọn sống theo bản năng hơn là lý trí.
Gioan Tẩy Giả đã lên tiếng tố cáo bất công và sẵn sàng chết cho công lý. Trong ý nghĩa ấy, ngài là vị tiền hô của Chúa Giêsu, ngài qua đi nhưng tinh thần ngài vẫn sống mãi trong các môn đệ của ngài, và một cách nào đó, ngài cũng sống trong chính con người Chúa Giêsu và nơi mỗi người Kitô hữu. Từ 2000 năm qua, Giáo Hội vẫn sống trong niềm xác tín đó. Chính tinh thần của Gioan Tẩy Giả, của các Tông Ðồ, của các Thánh Tử Ðạo, đã sống mãi trong Giáo Hội và trở thành giây liên kết mọi Kitô hữu. Ðiều này luôn được Giáo Hội thể hiện qua cử chỉ hôn kính hài cốt các thánh được đặt trên bàn thờ. Tập san Giáo Hội Á Châu do Hội Thừa Sai Paris xuất bản tháng 12/1995, có ghi lại chứng từ của một vị Giám mục:
"Chúng tôi đã cất giữ hài cốt của vị Giám mục tiên khởi của Giáo Hội chúng tôi. Chúng tôi tin rằng hài cốt này là thánh thiêng đối với chúng tôi, là dấu chỉ mà chúng tôi không bao giờ được phép quên lãng. Hài cốt này là sợi giây liên kết với Giáo Hội mọi thời, mọi nơi. Chúng tôi đã luôn nghĩ rằng chúng tôi không thể cất khỏi sợi giây liên kết hữu hình ấy. Ðây là một dấu chỉ nối kết chúng tôi trực tiếp với Chúa Kitô. Làm sao người ta có thể đánh mất Chúa Kitô? Chúng tôi cất giữ hài cốt này, chúng tôi vẫn tiếp tục yêu mến Chúa Kitô và kết hiệp với Người mãi mãi".
Chúng ta cũng hãy hiên ngang nói lên niềm tin và lòng trung thành với Chúa Kitô. Cùng với thánh Phaolô, chúng ta cũng hãy thốt lên: "Không gì có thể tách tôi ra khỏi lòng yêu mến Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô".
Veritas Asia


Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Sáu, Tuần IV TN2
Bài đọcHeb 13:1-8; Mk 6:14-29.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Con người cần trung thành sống theo sự thật.

Đối với những người không có đức tin nơi Thiên Chúa, họ không tin có sự thật tuyệt đối, và hầu hết mọi sự thật đều có giá trị tương đối – chỉ đúng trong một thời gian và hoàn cảnh nào đó thôi. Vì thế, họ quan niệm, để có thể bảo đảm thành công trong cuộc đời, con người cần phải biết sống theo thời; chẳng hạn sống như các câu tục ngữ dạy: “Gặp thời thế thế thời phải thế!” hay “gió chiều nào che chiều đó!”
Nhưng đối với những người có đức tin, Đức Giêsu Kitô vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời; và thành công trong cuộc đời này không bảo đảm sự thành công trong cuộc đời mai sau. Vì thế, nếu muốn đạt được cuộc đời mai sau, con người không thể sống theo thời, mà phải sống theo sự thật.
Các Bải Đọc hôm nay đưa ra những mẫu người sống theo 2 lối sống khác nhau. Trong Bài Đọc I, năm lẻ, tác-giả Thư Do-thái khuyên các tín hữu phải sống theo sự thật, tức là sống theo những gì Thiên Chúa dạy. Lý do là vì Đức Kitô đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, con người được bảo đảm cuộc sống mai sau.
Trong Phúc Âm, Thánh Marcô tường thuật hậu quả của những con người không sống theo sự thật mà chỉ muốn làm vui lòng người khác như vua Herode, bà hoàng Herodia, và Salome, con gái của Bà; trong khi Gioan Tẩy Giả sẵn sàng chịu cầm tù và chết cho sự thật.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I (năm lẻ)Đức Giêsu Kitô vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời.
Sau khi đã chứng minh Chúa Giêsu, Vị Trung Gian của Giao Ước Mới, đã lấy máu mình mà rửa sạch tội lỗi của con người, và đem lại Ơn Cứu Độ cho con người, tác giả khuyên các Kitô hữu phải giữ 7 điều sau đây:
(1) Bác ái huynh đệ: “Anh em hãy giữ mãi tình huynh đệ.” Đây là một trong hai giới răn căn bản nhất của Đạo Công Giáo: “Mến Chúa yêu người.” Thánh Gioan nêu lý do tại sao giới răn này cần thiết: người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là các con yêu thương nhau.
(2) Tinh thần hiếu khách: “Anh em đừng quên tỏ lòng hiếu khách, vì nhờ vậy, có những người đã được tiếp đón các thiên thần mà không biết.” Trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã sai các thiên thần đến loan tin vui cho con người: cho Abraham và Sarah (Gen 18), cho cha mẹ của Samson (Judg 13), và cho Tobit (Tob 3:17)
(3) An ủi kẻ ưu phiền: “Anh em hãy nhớ đến các người bị xiềng xích, chẳng khác gì anh em cũng bị xiềng xích với họ; anh em hãy nhớ đến những người bị hành hạ, chẳng khác gì mình với họ chỉ là một thân thể.” Đạo lý này trùng hợp với thần học về thân thể của Thánh Phaolô.
(4) Trong sạch, khiết tịnh: “Ai nấy phải tôn trọng hôn nhân, chớ làm cho loan phòng ra ô uế, vì Thiên Chúa sẽ xét xử các kẻ gian dâm và ngoại tình.” Lý do tại sao phải sống khiết tịnh vì chỉ có những ai có lòng trong sạch mới được nhìn thấy Thiên Chúa.
(5) Trung thành tin tưởng nơi Thiên Chúa: “Trong cách ăn nết ở, anh em đừng có ham tiền, hãy coi những gì mình đang có là đủ, vì Thiên Chúa đã phán: Ta sẽ không bỏ rơi ngươi, Ta sẽ không ruồng bỏ ngươi! đến nỗi chúng ta có thể tin tưởng mà nói: Có Chúa ở cùng tôi mà bênh đỡ, tôi chẳng sợ gì. Hỏi người đời làm chi tôi được?” Nếu Thiên Chúa đã sẵn sàng hy sinh Người Con Một cho con người, hỏi còn điều gì quí giá hơn Người Con này? Thiên Chúa không ban của cải dư đầy vì nó gây nhiều thiệt hại hơn là lợi ích.
(6) Theo gương anh hùng của người xưa: “Anh em hãy nhớ đến những người lãnh đạo đã giảng Lời Chúa cho anh em. Hãy nhìn xem cuộc đời họ kết thúc thế nào mà noi theo lòng tin của họ.” Người Công Giáo không thiếu những gương sáng để noi theo: trước hết và trên hết là gương Đức Kitô, sau đó đến các tổ-phụ, tiên-tri, rồi đến gương các thánh nam nữ ở mọi thời, sau cùng gương cha mẹ và các cha xứ, các thầy, các sơ, những người sống gần gũi trong thời chúng ta.
(7) Đừng sống theo những ngụy thuyết của thế gian: Sự thật không thay đổi: “Đức Giêsu Kitô vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời.”
3/ Phúc ÂmGioan Tẩy Giả chết làm chứng cho sự thật.
3.1/ Rau nào sâu nấy: Nhìn vào gia đình của Herode, một người có thể nhìn thấy quyền lực vủa ma quỉ thống trị gia đình này. Vua Herode Cả có tất cả 5 đời vợ (Cleopatra của Jerusalem, Doris, Mariamne của Hasmonean, Mariamne của Boethusian, và Malthake). Chính ông đã giết 3 người con: Antipater bởi Bà Doris, Alexander và Aristobulus bởi Bà Mariamne của Hasmomean. Loạn luân xảy ra khi Herodias, con của Aristobulus, kết hôn với Philip, chú của Bà; rồi lại muốn kết hôn với Herode Antipas, em của Philip, như trình thuật kể hôm nay. Chuyện loạn luân khác nữa là Salome, người con gái của Bà Herodias trong trình thuật hôm nay, lại kết hôn với Philip, con của bà Cleopatra.
3.2/ Các thái độ sống khác nhau trong cuộc đời:
(1) Vua Herode Antipas: thừa hưởng một nếp sống hoang dâm và ác độc của vua cha, ông cũng không sống theo lập trường rõ rệt. Ông đã sai người đi bắt ông Gioan và xiềng ông trong ngục: lý do là vì vua đã lấy bà Herodia, vợ của người anh là Philíp; và Gioan đã công khai chỉ trích nhà vua. Thái độ không lập trường của ông được Marcô mô tả: “Thật vậy, vua Herode biết ông Gioan là người công chính thánh thiện, nên sợ ông, và còn che chở ông. Nghe ông nói, nhà vua rất phân vân, nhưng lại cứ thích nghe.”
Sự tình xảy ra là khi nhà vua mở một bữa tiệc thết đãi quan khách tại Galilee, con gái bà Herodia, Salome, vào biểu diễn một điệu vũ, làm cho nhà vua và khách dự tiệc vui thích. Vua nói với cô gái: "Con muốn gì thì cứ xin, ta sẽ ban cho con." Vua lại còn thề: "Con xin gì, ta cũng cho, dù một nửa nước của ta cũng được." Được sự cố vấn của mẹ, cô xin “đầu của Gioan Tẩy Giả đặt trên đĩa.” Nhà vua buồn lắm, nhưng vì đã trót thề, lại thề trước khách dự tiệc, nên không muốn thất hứa với cô. Lập tức, vua sai thị vệ đi và truyền mang đầu ông Gioan tới. Thị vệ ra đi, chặt đầu ông ở trong ngục, bưng đầu ông trên một cái mâm trao cho cô gái, và cô gái trao cho mẹ.
(2) Bà Herodia và Salome: sống và làm chứng cho sự gian trá. Bà Herodia căm thù ông Gioan vì đã dám ngăn cản hôn nhân của Bà, và muốn giết ông nhưng chưa được. Khi cơ hội tới qua câu hỏi của cô con gái: "Con nên xin gì đây?" Bà đã lạnh lùng trả lời: "Đầu Gioan Tẩy Giả." Lập tức, cô vội trở vào đến bên nhà vua và xin rằng: "Con muốn ngài ban ngay cho con cái đầu ông Gioan Tẩy Giả, đặt trên mâm."
(3) Gioan Tẩy Giả: sống và làm chứng cho sự thật. Ông không chú ý đến nhu cầu vật chất, danh vọng, chức quyền; nhưng can đảm sống và kêu gọi mọi người ăn năn xám hối.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải trung thành sống theo sự thật, vì một cuộc sống theo thời thế sẽ không đưa chúng ta tới đích điểm của cuộc đời.
- Chúng ta sẽ phải trả giá đắt để sống theo sự thật, nhưng lối sống theo sự thật sẽ đem lại cho chúng ta niềm vui, và giúp chúng ta đoàn tụ với Thiên Chúa và các chứng nhân của sự thật.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP

Th. Bla-xi-ô, giám mục, tử đạo  Mc 6,14-29

CÁI CHẾT NGÔN SỨ


Vua Hê-rô-đê nói: “Ông Gio-an, ta đã cho chém đầu, chính ông đã trỗi dậy !” (Mc 6,16)

Suy niệm: Kết thúc cuộc đời Gio-an Tẩy Giả là một bi kịch mang tính ngôn sứ, nhưng là một bi kịch dễ hiểu. Là ngôn sứ, ông mạnh dạn nói tiếng nói của công lý. Tiếng nói của ông đụng chạm đến người nắm giữ quyền lực, người có quyền giết ông. Vì thế, điều xảy ra là ông… bị giết! Bị giết, nhưng ông vẫn không ‘chết’. Thật vậy, Hê-rô-đê có chém đầu ông, nhưng vẫn bị ám ảnh khôn nguôi rằng ông lại… tiếp tục xuất hiện: “Ông Gio-an, ta đã cho chém đầu, chính ông đã trỗi dậy!” Cái chết của Gio-an, là một cái chết ngôn sứ vì nó tiên báo cái chết của Chúa Giê-su. Bi kịch này dễ hiểu, vì trong suốt giòng lịch sử, không thời nào và không nơi nào thiếu những cái chết ngôn sứ như thế, những cái chết vì bênh vực công lý, vì bảo vệ sự thật, như cái chết của Martin Luther King (1968), của Oscar Romero (1980)… và biết bao cái chết khác đầy tính ‘ngôn sứ’ nhưng rất âm thầm, rất vô danh, không kể hết được.

Mời Bạn: Suy nghĩ về những cái chết ngôn sứ đó để thấy rằng “Đối với Chúa thật là đắt giá, cái chết của những ai trung hiếu với Người” (Tv 116,15). Ngôn sứ có thể chết song uy lực của tiếng nói ngôn sứ không thể bị dập tắt kể cả trong chính lương tâm của kẻ cường quyền làm điều bất công.

Chia sẻ: Ta có thể chết cái chết ngôn sứ mỗi ngày không? Bằng cách nào?

Sống Lời Chúa: Tôi đặc biệt lưu ý sống thật trung thực trong ý nghĩ và lời nói.

Cầu nguyện: Lạy Chúa xin cho con được ơn cảm nếm được mối phúc thật thứ tám để con dám chịu bách hại vì sống công chính làm ngôn sứ cho Chúa mỗi ngày. (Hoặc đọc Tv 116)


Vì đã trót th (3.2.2017 – Th sáu Tun 4 Thường niên)

 Sau này, Philatô cũng phm đúng ti ca Hêrôđê trước đám đông (Mc 15, 15), coi ghế ngi ca mình quý hơn mng sng ca Đc Giêsu, người vô ti


Suy nim:
Như mọi con người khác ở trên đời,
con người của Hêrôđê bị giằng co giữa cái xấu và cái tốt.
Vấn đề là ông ta sẽ ngả theo cái nào.
Hêrôđê biết Gioan là người công chính thánh thiện nên sợ ông.
Hêrôđê đã bảo vệ che chở cho Gioan và thich nghe ông nói,
dù những điều đó làm Hêrôđê hết sức bối rối (c. 20).
Nhưng Hêrôđê cũng là người đã sai bắt Gioan và xiềng ông trong ngục,
chỉ vì Gioan dám nói: “Nhà vua không được lấy vợ của anh mình.”
Rõ ràng cái ác trong Hêrôđê đã thắng cái thiện, cái xấu đã thắng cái tốt.
Hêrôđê thuộc loại người “nghe lời thì liền vui vẻ đón nhận,
nhưng không đâm rễ, mà là những kẻ nông nổi nhất thời…” (Mc 4, 16-17).
Chính vì thế khi gặp thử thách thì ông vấp ngã ngay.
Hêrôđê còn quỵ ngã một lần nữa nặng hơn.
Ngày sinh nhật của ông cũng là ngày chết của một vị ngôn sứ.
Khi con gái bà Hêrôđia biểu diễn một điệu múa làm vui lòng mọi người,
Hêrôđê đã lỡ thề hứa một điều thiếu khôn ngoan,
trước mặt bá quan văn võ và các thân hào miền Galilê:
“Con xin gì, ta cũng cho, dù một nửa nước của ta cũng được” (c. 23).
Không biết lúc đó Hêrôđê đã say chưa,
nhưng chắc chắn nhà vua đã quên một điều quan trọng.
Ông quên mình chỉ là một tiểu vương nắm vùng Galilê và Pêrê (Lc 3,1),
nên ông không có quyền cho đất hay chia đất.
Bà Hêrôđia đã không bỏ lỡ cơ hội ngàn vàng này để trả thù Gioan.
Bà nói với cô con gái xin đầu Gioan Tẩy giả (c. 24).
Hẳn điều này là một bất ngờ lớn đối với Hêrôđê .
Lập tức ông bị đặt vào thế giằng co xâu xé.
Một mặt ông hết sức đau buồn vì quý mạng sống của Gioan.
Mặt khác ông lại không muốn thất hứa với cô bé,
một lời hứa đã trót nói ra công khai trước mặt quan khách dự tiệc.
Hêrôđê có dám chịu đánh mất chút danh dự của mình không
khi khiêm tốn xin rút lại lời thề hứa vội vàng, bồng bột?
Ông có dám nhận mình đã sai và chịu mất mặt không?
Tiếc quá! Hêrôđê đã không có được can đảm này.
Như người thanh niên giàu có buồn rầu bỏ đi (Mc 10, 22),
Hêrôđê cũng sẽ buồn suốt đời vì cái chết do ông gây ra.
Như Hêrôđê, sau này Philatô cũng chịu áp lực khi ông xử án Đức Giêsu.
Ông cũng phạm đúng tội của Hêrôđê trước đám đông (Mc 15, 15),
coi ghế ngồi của mình quý hơn mạng sống của Đức Giêsu, người vô tội.
Cầu nguyn:
Lạy Thiên Chúa, đây lời tôi cầu nguyện:
Xin tận diệt, tận diệt trong tim tôi
mọi biển lận tầm thường.
Xin cho tôi sức mạnh thản nhiên
để gánh chịu mọi buồn vui.
Xin cho tôi sức mạnh hiên ngang
để đem tình yêu gánh vác việc đời.
Xin cho tôi sức mạnh ngoan cường
để chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó,
hay cúi đầu khuất phục trước ngạo mạn, quyền uy.
Xin cho tôi sức mạnh dẻo dai
để nâng tâm hồn vươn lên khỏi ti tiện hằng ngày.
Và cho tôi sức mạnh tràn trề
để âu yếm dâng mình theo ý Người muốn.
(R. Tagore - Ðỗ Khánh Hoan dịch)

Lm Antôn Nguyn Cao Siêu, SJ


Lời Chúa Trong Gia Đình
Thứ Sáu tuần IV thường niên
THÁNH BLASIÔ, GIÁM MỤC TỬ ĐẠO, THÁNH ANSGARIÔ, GIÁM MỤC; Dt 13, 1-8; Mc 6, 14-29.

LỜI SUY NIỆMKhi Chúa Giêsu đã nổi danh, đám đông đồn thổi đến tai vua Hêrôđê. “Vua Hêrôđê nghe thế, liền nói: Ông Gioan, ta đã cho chém đầu, chính ông đã chỗi dậy.” (Mc 6,16).
Tiếng nói của lương tâm luôn là tiếng nói chân chính. Một khi đã làm một điều gì sai trái với đạo đức con người nhất là những trọng tội thì con người không còn một nơi ẩn náu hay trốn thoát được. Vua Hêrôđê bị mặc cảm tội lỗi vì đã cho phép xử tử Gioan Tẩy Giả, nên giờ đây, nhà vua bị ám ảnh vì việc mình đã làm. Tự thâm tâm ông không còn điều khiển được chính tư tưởng của ông, và hễ ông suy nghĩ, tư tưởng của ông vẫn quay về với điều gian ác ông đã làm.
          Chẳng ai có thể tránh được việc phải sống riêng với chính mình và khi nội tâm tự tố cáo, đời sống sẽ trở nên đau khổ, muốn thoát ra khỏi tâm trạng này con người cần phải thật tình sám hối ăn năng, chạy đến cội nguồn tình yêu tha thứ nhân hậu của Thiên Chúa.
Mạnh Phương


Gương Thánh Nhân
Ngày 03-02
Thánh ANSGARIÔ
Giám mục tông đồ các xứ Bắc Âu
(801-865)

Ansgariô (hay là Anskar theo Anh ngữ) đã trở thành biệt danh Oscar ngày nay, có nghĩa là "cây lao của Thiên Chúa". Ansgario gốc người Đức, sinh tại Picardia. Cha Ngài là một viên chức trong triều đình vua Charlemagne, đã gởi Ngài theo học tại tu viện thánh Phêrô ở Corbia. Cậu thiếu niên đã gặp được ở đó những bậc thầy có thế giá. Các môn học trần tục làm Ngài say mê đến độ nơi tâm trí Ngài ý nghĩa tôn giáo ngày một lạc phai. Nhưng một biến cố đã đánh động Ngài mạnh mẽ, nhà vua mà Ngài biết được là rất nổi danh nơi triều đình đã chết.
Cái chết đó cho Ngài thấy được tính cách hư không của mọi cái gọi là nhân bản và trần tục, Ngài cũng nhớ lại rằng: hồi nhỏ khi mất mẹ, trong một giấc mơ, Ngài thấy Đức Trinh Nữ Maria hứa sẻ bảo vệ Ngài luôn mãi, nếu biết giữ gìn đức tin và lòng mến. Sau cùng Ngài cảm thấy rằng: Chúa muốn mình làm tông đồ. Từ đó Ngài không ngừng tiến tới trong việc học hành cả về đạo lý lẫn việc đời, Ngài nhiệt thành làm tất cả những gì là tốt đẹp. Những tiến bộ và nhiệt tâm ấy lớn lao đến nỗi chẳng mấy chốc tới phiên Ngài phải dạy lại cho các tu sĩ trẻ và trẻ em. Vào tuổi hai mươi mốt, Ngài trở thành một trong những thủ lãnh tu viện Corvey. Ở Saxe hay là Corbia-Nova, được thiết lập ngay giữa trung tâm trí thức. Là giáo sư thần học, Ngài cũng đảm nhận việc giảng dậy cho dân chúng nữa.
Vào thời này, Harold là vua miền Nam Đan mạch, khi bọn phản loạn săn đuổi, đã xin trú ngụ tại triều đình vua Lu-y đặt tại Mayence. Ong đã trở lại đạo và lãnh nhận phép rửa. Khi trở về quê hương, ông đã xin các nhà truyền giáo tới rao giảng Phúc âm cho xứ sở mình. Ebbon, giám mục Reims đã dấn thân trước hết, rồi một khi gần trở lại nước Pháp, Ngài đã chỉ định Ansgario. Ansgario lên đường với một tu sĩ khác nữa. Họ làm liều đi vào miền còn hoàn toàn ngoại giáo. Những người trẻ bị bắt làm nô lệ đã trở thành các Kitô hữu đầu tiên của xứ sở. Công việc tông đồ thật vất vả nhọc mệt. Các Ngài bị trục xuất. Các tu sĩ trở lại lãnh trách nhiệm.
Một tòa đại sứ Thụy Điển xin các thừa sai. Lần này Ansgariora đi với một tu sĩ người Corbia. Vì người bạn đường cũ đã chết. Khi đi nagng qua biển Baltique, họ bị bọn cướp tấn công bóc lột hết và bị người Nang lấy trọn quà tặng họ mang dâng nhà vua ở Upsala. Các nhà truyền giáo tới biệt thự của Birca, hoàn toàn trơ trụi. Tại đây các Ngài đã thiết lập một cộng đoàn Kitô hữu. Sau một năm rưỡi mệt nhọc làm việc tông đồ, các Ngài trở về Pháp. Nhà vua đã đặt Ansgario làm tổng giám mục Hambourg bao gồm miền Scandinavia (Bắc Âu) Ansgario đi Roma để được Đức Thánh Cha bổ nhiệm và Đức Gregôriô IV đã đặt Ngài làm đại diện tại cả Na-uy và Thụy Điển. Ngài xây cất một nhà thờ chính tòa ở Hambourg, thiết lập một tu viện cho các tu sĩ Corbia.
Người ta thấy Ngài quỳ lạy dưới chân người nghèo và khiêm tốn phục vụ họ. Ngài cũng rao giảng trong các miền lân cận bất kể những thủ địch hung ác. Khi ấy như một đám mây người Normandie đặt Hambourg vào vòng máu lửa, Ansgario chỉ còn là một kẻ lang thang sống vất vưởng. Vharles de Chauve đã chiếm một tu viện miền Flandre là nơi Ngài đã thiết lập một trường truyền giáo. Giữa cao điểm của cuộc sống khốn cực âu lo, Ngài đã không hề đánh mất lòng trông cậy vào Chúa. Cuối cùng những kẻ bách hại bị xua đuổi. Xứ truyền giáo Thụy Điển lại vùng lên.
Một cộng đồng ở Constane đã đặt Ansgario làm giám mục Brême. Ngài trở lại truyền giáo ở Đan mạch, thiết lập một trung tâm tôn gíao mới, cải hóa nhà vua.
Ansgario muốn hiến trọn đời mình cho Thiên Chúa bằng việc tử đạo nhưng Ngài đã qua đời êm ái tại Brême năm 865. Cuộc tử đạo của Ngài chính là cuộc chiến kiên trì suốt đời với nhiều những thất bại, lại ít có những thành công rực rỡ. Nhưng sự nhẫn nại của vị anh hùng giám mục lang thang này đã chuẩn bị cho cuộc trở lại các xứ vùng Bắc Âu.
****
Thánh BLASIÔ
Giám mục Tử đạo (.... - 316)

Có nhiều câu chuyện vây quanh thánh Blasiô. Ngài là giám mục Sêbasta, miền Armênia; Ngài hiến cả xác hồn cho dân chúng... nhất là dân nghèo, Ngài đã học nghề thuốc, nhưng không bao giờ chữa bệnh cho ai mà không xin Chúa giúp trước đã, dường như vị y sĩ vĩ đại này muốn nói rằng: "Tôi băng bó cho họ nhưng Thiên Chúa chữa lành cho họ". Ngài rao giảng, day dỗ, nhưng không có bài học nào hay hơn chính gương mẫu đời Ngài.
Năm 315, một cuộc bách hại bùng ra dưới triều đại vua Luciniô. Đức giám mục giúp đỡ các vị tử đạo. Rồi để trốn thoát các kẻ thù địch, Ngài ẩn mình ở hang núi Agêa, là nơi Ngài sống bằng rễ cây và nước lã. Thú rừng thân tình bao quanh Ngài và Ngài chữa lành cho những con bệnh tật. Mỗi ngày một đông dân chúng tuốn đến với với Ngài. Nếu thấy Ngài đang cầu nguyện chúng lặng lẽ không ngăn trở và đợi cho đến khi Ngài cầu nguyện xong. Khi đó Thánh nhân quay lại với đoàn vật và chúc lành cho chúng và đoàn vật mãn nguyện trở lại sa mạc.
Agricôla, quan cai trị Cappadecia tìm thú rừng sống trong các khu rừng gần Sêbasta, để xé các Kitô hữu. Đoàn người đi săn ngạc nhiên khi thấy cả bầy sói, gấu, sư tử trong một cái hang vây quanh một người, đang cầu nguyện. Họ vội về báo tin cho Agricôla và ông này đã truyền bắt vị tu rừng này.
Thấy binh sĩ của nhà vua. Blasiô bình thản nói:- Tôi đã sẵn sàng. Đêm qua Chúa hiện ra và nói với tôi, là Ngài ưng nhận lễ hy sinh của tôi.
Trên đường Ngài đi qua, dân chúng tuốn đến, trong số ấy có cả các lương dân. Họ khóc lóc xin người chúc lành. Một người mẹ đặt đứa trẻ đang hấp hối dưới chân Blasiô và nhìn trời bà la: - Lạy Chúa nhân từ, xin đừng bỏ qua lời cầu của tôi tớ Ngài. Xin hãy trả lại sức khỏe cho tạo vật bé bỏng của Ngài.
Blasiô cúi xuống đứa trẻ hấp hối, cầu nguyện. Trời cao đã nghe Ngài, và người mẹ hân hoan đón nhận lại đứa con tràn đầy sức sống.
Khi đức Giám mục xuất hiện, Agricôla đưa nhiều hứa hẹn lẫn lời đe dọa. Nhưng điều này đã luống công. Thánh nhân nói: - Tôi không sợ các cực hình Ngài đe dọa vì thân xác tôi nằm trong tay Ngài, nhưng linh hồn tôi thì không.
Ngài đã bị đánh đập tàn nhẫn và bị tống ngục. Các Kitô hữu tới thăm, Ngài an ủi khích lệ và chữa lành cho họ. Ngài đã giải cứu cho một đứa trẻ gần ngộp thở vì mắc xương cá. Vì kỷ niệm này và cũng vì lời cầu nguyện sau cùng khi đưa cổ cho lý hình, thánh Blasiô được kêu cầu cách đặc biệt để xin Ngài chữa lành các bệnh nhân đau cổ họng.
Những tường thuật về các phép lạ đi kèm với cái chết của Ngài thành gia sản truyền tụng rất được các giáo phụ ưa thích. Sau mỗi cuộc tra xét với một cực hình mới lại có một phép lạ đánh dấu cuộc trở lại ngay trong phòng giam của Ngài. Phép lạ lừng danh nhất là phép lạ về ngẫu tượng. Các Kitô hữu đến săn sóc những vết thương cho Ngài, đã ném xuống hồ các thần tượng của nhà cầm quyền. Họ bị tố giác và chịu tử dạo. Blasiô cũng bị kết án dìm vào hồ này, nhưng Ngài làm dấu thánh giá và đi trên mặt nước, rồi Ngài mời các quan tòa đi theo để minh chứng uy quyền các thần linh họ thờ. Những người nhận lời bị chết chìm ngay.
Vị tử đạo vừa mới cho thấy vinh quang Thiên Chúa, liền được một thiên thần mời trở lại bờ hồ để chịu cực hình, Ngài vâng lời ngay. Agricôla bối rối liền truyền chém đầu Ngài. Blasiô trước khi chết, đã nài xin Chúa tỏ lòng nhân từ với những ai nhờ lời Ngài bầu cử mà xin cứu giúp.
(Daminhvn.com)


03 Tháng Hai
Ngôn Ngữ Của Tình Yêu

Có lẽ cái tên của Helen Keller, một cô gái câm điếc người Mỹ, đã trở thành bậc khoa bảng, không còn xa lạ với chúng ta nữa. Vừa được 19 tháng, sau một cơn đau màng óc, cô gái bất hạnh này trở thành mù lòa và câm điếc. Thế giới của âm thanh và màu sắc đã khép hẳn cánh cửa lại với cô. 
Làm thế nào để truyền thụ kiến thức cho một người đã câm điếc lại còn mù lòa? Cha mẹ của cô bé dường như muốn bó tay. Nhưng có một cô giáo tên là Anna Sullivan đã không muốn bỏ cuộc. Hy vọng duy nhất mà cô giáo này còn đó là còn có thể truyền thông và liên lạc với cô gái mù lòa và câm điếc này qua việc tiếp xúc với bàn tay của cô. Chỉ có thể tiếp xúc với thế giới bằng đôi tay, nhưng Helen Keller đã có thể học xong Ðại Học, tốt nghiệp Tiến sĩ và trở thành văn sĩ. 
Cho người mù lòa và câm điếc chạm vào một sự vật và viết lên tên gọi của sự vật ấy: đó là phương pháp của cô giáo Anna Sullivan. Dạy về những sự vật cụ thể như cái bàn, cuốn sách, cành cây, con chó xem ra không hẳn là điều khó. Nhưng làm thế nào để diễn tả cho Helen hiểu được những ý niệm trừu tượng như tình yêu chẳng hạn? 
Ngày kia, cô giáo Anna Sullivan đã viết lên tay của Helen Keller hai chữ "Tình Yêu" rồi ôm trầm lấy cô bé hôn lấy hôn để với tất cả sự thành thật và nhiệt tình của cô. Lần đầu tiên trong đời, cô gái câm điếc mù lòa bỗng cảm thấy tim mình đập mạnh và cô hiểu được thế nào là Yêu Thương
Ngôn ngữ của Tình Yêu là những hành động cụ thể. 
Anh mắt trìu mến, những âu yếm vuốt ve của người mẹ đối với đứa con mới lọt lòng có giá trị hơn bất cứ một quyển sách biên khảo nào về tình yêu. Nhưng mồ hôi và nước mắt, những hy sinh hằng ngày của người cha giúp con cái hiểu được thế nào là Yêu thương hơn bất cứ lời dẫn giải nào về Tình Yêu. Và có lẽ cũng thừa thãi để bảo rằng khi hai người yêu nhau thì sự thinh lặng và những cử chỉ âu yếm có sức mạnh hùng hồn hơn những lời nói hoa mỹ, những trống rỗng. 
Thiên Chúa là Tình Yêu. Ngài tỏ tình, Ngài bộc lộ tình yêu với con người không chỉ bằng những lời nói suông, mà bằng cả lịch sử của những can thiệp, những thể hiện cụ thể. 
Một tình yêu không được chứng tỏ bằng những hành động cụ thể là một tình yêu giả dối, lừa bịp. 
Ðạo Kitô của chúng ta là Ðạo của Tình Yêu. Một người kitô không sống Tình Yêu, không viết lên hai chữ Tình Yêu bằng những hành động cụ thể đối với tha nhân, người đó chỉ là một người Kitô giả hiệu, một Ðức Tin không việc làm là một Ðức Tin chết. Một lòng Mến không được thể hiện bằng hoa trái của lòng Mến chỉ là lòng Mến giả tạo.
(Lẽ Sống)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét