05/03/2017
Chúa Nhật 1 Mùa Chay năm A
(phần I)
Giới Thiệu Mùa
Chay:
Danh từ "Mùa
Chay" có vẻ chỉ còn "vang bóng một thời", nghĩa là nhắc lại thời
xa xưa mà Giáo hội ăn chay hầu như suốt cả Mùa (trừ Chúa nhật). Ngày nay chúng
ta chỉ còn giữ chay 2 ngày (thứ tư lễ Tro và thứ Sáu Tuần Thánh). Thế nên có thể
nghĩ đến việc tìm ra một danh từ khác. Chẳng hạn có thể bắt chước La văn hay
Pháp văn gọi Mùa này là "Mùa Tứ Tuần" hoặc "Mùa 40 ngày"
(qua dragesima, carême).
Tuy nhiên nếu giữ lại
danh từ "Mùa Chay" cũng vẫn tốt, để nhớ lại nguồn gốc, ý nghĩa và
tinh thần của những tuần lễ trước Tam Nhật Vượt Qua.
Là vì như chúng ta đã
biết, Phụng vụ của Giáo hội đã khởi đầu với việc cử hành "Ngày Chúa nhật"
để tôn kính Ngày Chúa sống lại. Và ngày Chúa nhật giáp năm Chúa Nhật Phục Sinh
đã được cử hành long trọng một cách đặc biệt, bằng cách tổ chức "Tam Nhật
Vượt Qua", tức là ba ngày trước lễ Phục sinh. Người ta ăn chay, hãm mình để
thực hiện mầu nhiệm Tử nạn của Chúa ở nơi mình, hầu xứng đáng mừng việc Chúa sống
lại.
Nhưng ba ngày thật quá
ít đối với những ai thấy mình nhiều tội hoặc đã sống lâu trong tình trạng tội lỗi.
Và những tội nhân công khai chắc cần phải có thời giờ nhiều hơn, để tập sống đạo
đức trở lại. Chẳng bao lâu, Tam Nhật Vượt Qua đã trở thành nhiều tuần lễ. Và để
mở đầu, người ta tổ chức ngày rắc tro trên đầu và mặc áo nhặm để đưa các tội
nhân muốn thống hối vào Mùa ăn chay đền tội. Ðó là ý nghĩa ngày Thứ Tư Lễ Tro
hiện nay.
Chúng ta có thể tự hỏi
vì sao lại chọn ngày thứ Tư? Trước khi có Tam Nhật Vượt Qua để dọn tâm hồn mừng
giáp năm Ngày Chúa sống lại, dần dần trong Hội Thánh có thói quen chuẩn bị lễ mỗi
ngày Chúa nhật. Và hai ngày được chọn để làm công việc này là thứ Tư và thứ
Sáu, vì theo lối tính thời gian, nhiều người nghĩ rằng Chúa Kitô đã bị bắt ngay
từ đêm thứ Ba rạng ngày thứ Tư và Người đã tử nạn vào ngày thứ Sáu. Thế nên muốn
kết hợp với mầu nhiệm Thương Khó của Người, Phụng vụ đã khởi sự tinh thần thống
hối vào ngày thứ Tư. Và các kinh lễ ngày thứ Tư và thứ Sáu trong tuần vẫn có vẻ
đặc biệt hơn những ngày khác.
Cuối cùng để Mùa ăn
chay đền tội được thêm ý nghĩa mầu nhiệm, Phụng vụ đã quy định thời gian 40
ngày để gợi lại 40 ngày Ðức Kitô ăn chay trong sa mạc. Nhưng lòng sốt sắng vẫn
có khuynh hướng nối dài thêm; thành ra trước đây đã có những Chúa nhật 70, 60
và 50, mà bây giờ không còn nữa. Và để bắt chước Ðức Kitô trong những ngày ấy sống
bằng Lời Chúa, Giáo hội đã muốn giúp đỡ các tội nhân thống hối bằng cách lấy
kho tàng mạc khải mà giáo huấn họ lại.
Công việc giáo huấn
này lại trùng với việc chuẩn bị các tân tòng đón nhận ơn phép Rửa tội trong Ðêm
Phục Sinh. Thành ra, Mùa Chay hiện nay mang nhiều ý nghĩa:
* nối dài Tam Nhật Vượt
Qua: Giáo hội muốn con cái mình sửa soạn tâm hồn dự lễ giáp năm Ngày Chúa Phục
Sinh;
** đặc biệt đối với những
tội nhân công khai muốn trở về nếp sống đạo đức, Giáo hội cống hiến cho họ thời
gian đền tội và cải tạo.
*** và với các tân
tòng sẽ lãnh nhận bí tích Rửa Tội trong Ðêm Phục sinh, Giáo hội tổ chức việc
giáo huấn ở nhịp độ khẩn trương.
Những ý nghĩa đó chan
hòa trong Phụng vụ Mùa Chay, khi ẩn khi hiện. Mọi hạng người, tân tòng, tội
nhân và thánh hữu đều có thể tìm thấy và phải đến tìm được trong mầu nhiệm Chúa
ăn chay 40 ngày, ân sủng của việc Chúa chịu chết hầu cải tạo tâm hồn và đời sống
để xứng đáng hát bài ca ALLÊLUIA mừng sự sống đã phục sinh, bài ca mà mùa này
không hát nữa để sẽ được hát lại với tâm hồn mới mẻ.
Chúng ta hãy nhờ Phụng
vụ Lời Chúa và Phụng vụ Thánh Thể giúp đỡ, để đổi mới tâm hồn trong Mùa Chay
này.
Bài Ðọc I: St 2, 7-9;
3, 1-7
"Nguyên tổ được
tạo thành, và phạm tội".
Trích sách Sáng Thế.
Thiên Chúa lấy bùn đất
nắn thành con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở thành một vật sống.
Thiên Chúa lập một vườn
tại Eđen về phía đông và đặt vào đó con người mà Ngài đã dựng nên. Thiên Chúa
cho từ đất mọc lên mọi thứ cây trông đẹp, ăn ngon, với cây sự sống ở giữa vườn,
và cây biết thiện ác.
Rắn là loài xảo quyệt
nhất trong mọi dã thú mà Thiên Chúa tạo thành. Nó nói với người nữ rằng:
"Có phải Thiên Chúa đã bảo: Các ngươi không được ăn mọi thứ cây trong vườn?"
Người nữ nói với con rắn: "Chúng tôi được ăn trái cây trong vườn; nhưng
trái cây ở giữa vườn thì Thiên Chúa bảo: "Các ngươi đừng ăn, đừng động tới
nó, nếu không sẽ phải chết". Rắn bảo người nữ: "Không, các ngươi
không chết đâu! Nhưng Thiên Chúa biết rằng ngày nào các ngươi ăn trái ấy, mắt
các ngươi sẽ mở ra, và các ngươi sẽ biết thiện ác như thần thánh". Người nữ
thấy trái cây đẹp mắt, ngon lành và thèm ăn để nên thông minh. Bà hái trái cây
ăn, rồi lại cho chồng, người chồng cũng ăn. Mắt họ liền mở ra và họ nhận biết
mình trần truồng, nên kết lá vả che thân.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 50, 3-4.
5-6a. 12-13. 14 và 17
Ðáp: Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa
(x. c. 3a).
Xướng: 1) Lạy Chúa,
nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ bi.
Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác. - Ðáp.
2) Vì sự lỗi con,
chính con đã biết, và tội con ở trước mặt con luôn. Con phạm tội phản nghịch
cùng một Chúa. - Ðáp.
3) Ôi lạy Chúa, xin tạo
cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con.
Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi
con. - Ðáp.
4) Xin ban lại cho con
niềm vui ơn cứu độ, với tinh thần quảng đại, Chúa đỡ nâng con. Lạy Chúa, xin mở
môi con, để miệng con sẽ loan truyền lời ca khen. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Rm 5, 12-19
"Chỗ mà tội lỗi
đã đầy tràn, thì ân sủng đã đầy dàn dụa".
Trích thư Thánh Phaolô
Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, cũng
như do một người mà tội lỗi đã nhập vào thế gian, và do tội lỗi mà có sự chết,
và thế là sự chết đã truyền tới mọi người, vì lẽ rằng mọi người đã phạm tội.
Trước khi có lề luật, đã có tội ở trần gian. Nhưng nếu không có luật, thì tội
không bị kể là tội. Thế mà, từ thời Ađam đến thời Môsê, sự chết đã thống trị cả
những người đã không phạm tội bất tuân lệnh Thiên Chúa như Ađam đã phạm. Ađam
là hình ảnh Ðấng sẽ tới.
Nhưng sự sa ngã của
Ađam không thể nào sánh được với ân huệ của Thiên Chúa. Thật vậy, nếu vì một
người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết, thì ân sủng của Thiên Chúa
ban nhờ một người duy nhất là Ðức Giêsu Kitô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn
người. Ơn Thiên Chúa ban cũng khác với hậu quả do một người phạm tội đã gây ra.
Quả thế, vì một người duy nhất phạm tội, con người đã bị xét xử để phải mang
án, còn sau nhiều lần sa ngã, thì lại được Thiên Chúa ban ơn cho trở nên công
chính.
Vì nếu bởi tội của một
người mà sự chết đã thống trị do một người đó, thì những người lãnh được ân sủng
và ơn huệ dồi dào bởi đức công chính, càng được thống trị hơn nữa trong sự sống
do một người là Ðức Giêsu Kitô.
Do đó, tội của một người
truyền đến mọi người đưa tới án phạt như thế nào, thì đức công chính của một
người truyền sang mọi người đưa tới bậc công chính ban sự sống cũng như thế. Vì
như bởi tội không vâng lời của một người mà muôn người trở thành những tội nhân
thế nào, thì do đức vâng lời của một người mà muôn người trở thành kẻ công
chính cũng như thế.
Ðó là lời Chúa.
Hoặc bài vắn
này: Rm 5, 12. 17-19
Anh em thân mến, cũng
như do một người mà tội lỗi đã nhập vào thế gian, và do tội lỗi có sự chết, và
thế là sự chết đã truyền đến mọi người, vì lẽ rằng mọi người đã phạm tội.
Vì nếu bởi tội của một
người mà sự chết đã thống trị do một người đó, thì những người lãnh được ân sủng
và ơn huệ dồi dào bởi đức công chính, càng được thống trị hơn nữa trong sự sống
do một người là Ðức Giêsu Kitô.
Do đó, tội của một người
truyền đến mọi người đưa tới án phạt như thế nào, thì đức công chính của một
người truyền sang mọi người đưa tới bậc công chính ban sự sống cũng như thế. Vì
như bởi tội không vâng lời của một người mà muôn người trở thành những tội nhân
thế nào, thì do đức vâng lời của một người mà muôn người trở thành kẻ công
chính cũng như thế.
Ðó là lời Chúa.
Câu Xướng Trước Phúc
Âm: Mt 4, 4b
Người ta sống không
nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra.
Phúc Âm: Mt 4, 1-11
"Chúa Giêsu nhịn
ăn bốn mươi ngày đêm, và chịu cám dỗ".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu được
Thánh Thần hướng dẫn vào hoang địa để chịu ma quỷ cám dỗ. Khi Người đã nhịn ăn
bốn mươi đêm ngày, Người cảm thấy đói. Và tên cám dỗ đến gần, nói với Người rằng:
"Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy khiến những hòn đá này biến thành
bánh". Nhưng Chúa Giêsu đáp lại: "Có lời chép rằng: 'Người ta sống
không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra'".
Bấy giờ ma quỷ đưa Người
lên Thành thánh, và đặt Người trên góc tường Ðền thờ, rồi nói với Người rằng:
"Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy gieo mình xuống đi, vì có lời chép rằng:
Ngài đã ra lệnh cho các Thiên Thần đến với ông, và chư vị đó sẽ nâng đỡ ông
trên tay, để ông khỏi vấp chân vào đá". Chúa Giêsu đáp: "Cũng có lời
chép rằng: "Ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi".
Quỷ lại đưa Người lên
núi rất cao, và chỉ cho Người xem thấy mọi nước thế gian và vinh quang của những
nước đó, rồi nói với Người rằng: "Tôi sẽ cho ông tất cả những cái đó, nếu
ông sấp mình xuống thờ lạy tôi". Bấy giờ Chúa Giêsu bảo nó rằng: "Hãy
lui đi, hỡi Satan! Vì có lời đã chép: "Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên
Chúa ngươi, và chỉ phụng sự một mình Ngài". Bấy giờ ma quỷ bỏ Người. Và
các thiên thần tiến lại, hầu hạ Người.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Ðức Kitô Ðã
Chiến Thắng
Câu truyện Ðức Kitô bị cám dỗ, tuy rất quen thuộc nhưng vẫn gây nhiều chú
ý. Người ta muốn hiểu từng chi tiết, phân tích tỉ mỉ các cơn cám dỗ mà Chúa đã
phải chịu. Rồi bài đọc I hôm nay lại nói về việc Ađam - Evà bị cám dỗ và sa ngã
trong vười địa đàng khiến chúng ta có khuynh hướng gọi Chúa Nhật I Mùa Chay là
Chúa Nhật Nói Về Cám Dỗ hoặc Thử Thách. Kiểu gọi đó lại hợp với Mùa Chay vì là
mùa phải phấn đấu chống lại tội lỗi.
Nhưng nếu hiểu như vậy, Ngày hôm nay không làm nổi bật ý nghĩa của Ngày
Chúa Nhật nữa, là phải đề cao mầu nhiệm Phục sinh. Chính bài thư Rôma cho ta thấy
chủ ý của Phụng vụ khi trích đọc hai câu truyện kia. Thánh Phaolô nói: như do một
người mà nhân loại đã chết, thì nay do một Vị mà tất cả được sống. Chúa nhật
này vì thế mừng chiến thắng của Ðức Kitô để cứu chuộc loài người sa ngã, hầu
giúp chúng ta phấn khởi và vững vàng bước vào Mùa Chay.
Chúng ta hãy xem loài người đã sa ngã thế nào và Ðức Kitô đã chiến thắng
làm sao, để chúng ta liên kết với Người hầu sống đúng tinh thần Mùa Chay Thánh.
A. Loài Người Ðã Sa
Ngã
Câu truyện Ađam-Evà sa ngã đã làm hao tổn nhiều giấy mực. Chúng ta không
được coi đây như là bản văn mới được viết vài năm. Có lẽ nó đã được 3,000 tuổi
và được viết trong một bối cảnh thật xa lạ với chúng ta, tuy cũng có một vài
nét khá gần gũi. Nó thuộc loại văn "khôn ngoan", phát triển sau thời
Lưu đày.
Thời ấy, con người suy nghĩ nhận ra rằng ở mọi nơi đều có tội lỗi; và tội
lỗi ở ngay trong tâm hồn mỗi người. Tội lỗi có đủ mọi bộ mặt, nhưng sâu xa đều
là những hình thức bất tuân phục tiếng nói trong trắng, thần thiêng trong lòng
con người. Diễn tả sự kiện ấy thế nào đây? Một tác giả "khôn ngoan"
được ơn linh hứng đã viết ra câu chuyện nguyên tổ.
Ađam là "Người"; Evà là "Bà". Ađam-Evà là đàn ông và
đàn bà, là loài người, là Nguyên tổ đã được Thiên Chúa dựng nên với hai yếu tố
"thác là thể phách, còn là tinh anh". Mang yếu tố thể phách có thể
thác đi, loài người là tạo vật chưa có hạnh phúc đầy đủ và bảo đảm. Nhưng Thiên
Chúa đã thương cất nhắc họ lên một bậc, khi đưa họ đặt vào vườn địa đàng, hình ảnh
về một trạng thái hạnh phúc bất tận, vì trong đó có cây hằng sống. Chỉ có một
điều kiện: con người phải nhớ đây là tình trạng ân huệ nhưng không, lệ thuộc
vào lòng tốt của Thiên Chúa, nên đáng lý con người luôn phải mến yêu kết hợp với
Người.
Nhưng sự thật đã không như vậy. Và để diễn tả việc sa ngã này, tác giả
sách Khởi nguyên đã lồng lời mạc khải trong bộ áo văn chương của thời đại. Giáo
lý của Chúa thật đơn sơ: tội lỗi hoàn toàn không phải bởi Chúa, nhưng do ngây
ngô khờ dại của loài người muốn tự kiêu. Giáo lý ấy diễn tả làm sao cho người sống
cách đây 3,000 năm? Thời ấy người ta hay nói đến những thứ cây hằng sống và những
cây ban khôn dại; người ta cũng coi rắn là loài quỷ quyệt và là thần sinh đẻ.
Tác giả Thánh kinh mượn ngay những hình ảnh văn chương ấy để diễn tả Lời mạc khải.
Con rắn dụ dỗ người ta ăn trái cây khôn dại. Nó sắc sảo nên đã cám dỗ Evà là
người yếu đuối và là người đã không trực tiếp được nghe lệnh Chúa. Nó đảo lộn lệnh
Ngài: "Các ngươi không được ăn cây nào trong vườn ư?", đang khi Chúa
dạy được ăn mọi thứ cây, trừ cây biết tốt xấu. Và nói xuyên tạc ý nghĩa lệnh
truyền: chẳng chết chóc gì đâu! Chỉ có điều Thiên Chúa biết: ngày nào ăn nó,
các ngươi sẽ nên như những Thiên Chúa. Nó phỉnh lòng hiếu thắng tự kiêu của
Evà, lôi bà vào tội bất vâng phục, khiến cả Ađam cũng sa ngã.
Ðiều quan trọng không phải là những chi tiết của câu truyện mặc dầu về
phương diện văn chương, tâm lý, bản văn rất có giá trị. Chủ ý của tác giả chỉ
muốn trình bày một số thực tại: mọi người đều tội lỗi, tội lỗi không phải bởi
Chúa nhưng bởi Satan quỷ quyệt; nó ranh mãnh vặn vẹo tiếng nói thần linh trong
lòng con người và phỉnh lòng tự ái của họ; con người khờ dại nghe theo nó, phạm
tội bất vâng phục, và khi mở mắt ra thì thật là bẽ bàng... Chúng ta có thể suy
nghĩ nhiều hơn nữa về những sự kiện trên, nhưng để cử hành Phụng vụ chúng ta chỉ
cần nhận biết loài người đã sa ngã phạm tội, đã bại trận hoàn toàn, chỉ còn biết
chờ mong ơn cứu vớt. Và ơn Chúa cứu độ đã đến nơi Ðức Yêsu Kitô, Chúa chúng ta,
như bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy.
B. Ðức Kitô Ðã Chiến
Thắng
Thánh Matthêô đã tường thuật tỉ mỉ. Bản văn rõ ràng, nhưng che giấu nhiều
ý tứ quan trọng.
Trước hết, sự việc đã xảy ra vào lúc Ðức Kitô khởi sự công trình cứu thế.
Người vừa chịu phép rửa của Yoan; được Thánh Thần hiện xuống; và có tiếng Chúa Cha
tuyên bố: "Ðây là Con Chí Ái của Ta". Người được Thánh Thần đưa vào
sa mạc để chịu cám dỗ như Israel đã được cột lửa dẫn vào hoang địa để chịu thử
thách. 40 đêm ngày của Người trong sa mạc khác nào như 40 năm của Israel nơi
hoang địa vì Người là Israel mới đến cứu Israel cũ. Hơn nữa, Người là Môsê mới.
Và như Môsê cũ đã ở trên núi 40 đêm ngày trước khi ban Luật pháp cho dân, Người
cũng muốn sống một thời gian như thế ở nơi u tịch trước khi ban bố Luật pháp Nước
Trời. Người ta cũng có thể thời gian 40 ngày này gợi lại hình ảnh một Êlya, sau
40 ngày trên đường đi gặp Thiên Chúa, đã cảm thấy đói mệt.
Chính lúc cơ thể Người thay đổi như vậy, Satan đã đến gần. Nó chưa hiểu
rõ Người, vì 30 năm ở Nagiarét Người âm thầm và khiêm nhu quá! Nó vừa được nghe
tuyên bố Người là Con Thiên Chúa; nhưng có thật vậy không? Lập trường và đường
lối của Người như thế nào? Nó muốn biết. Nó cần phải thử. Nó nắm lấy cơ hội Người
đang đói. Nó đi từ chính tước hiệu Người là Con Thiên Chúa, để xem "bộ mặt
đích thực" của Người. Nó vừa xúi, vừa thử: nếu Ông là Con Thiên Chúa hãy
hóa những viên đá này nên bánh. Nhưng câu trả lời của Người đã làm nó chưng hửng.
Người trích dẫn câu sách Thứ luật (8,2-5) gợi lại câu chuyện Israel ngày xưa
nơi sa mạc bị thử thách khi đói ăn (Xh 16). Israel cũ đã ngã, nhưng Israel mới
không thể như vậy. Người nói: "Con người không sống nguyên nhờ bánh, nhưng
còn nhờ Lời Thiên Chúa". Người không sống nhờ phương tiện vật chất; Người
đã có một thứ lương thực khác: đó là Thánh Ý của Chúa Cha. Người không đến để tìm
sự sống cho bản thân. Ðã có Chúa Cha ban sự sống đích thực cho Người, vì Người
là Con Chúa Cha. Satan không thể lầm về con người của Người nữa.
Nhưng còn sứ mạng của Người? Chắc chắn Người đến để thiết lập thời đại
cánh chung, thời đại phân biệt tốt xấu lành dữ. Các tiên tri nói rằng khi đến
thời đại ấy nhiều người sẽ xuất hiện bảo mình là Kitô. Và thiên hạ sẽ được chứng
kiến nhiều trò ngoạn mục. Ngài Yêsu, Con Thiên Chúa đây là Kitô thuộc loại nào?
Giả hay thiệt? Satan tạo nên một bối cảnh cánh chung. Nó đưa Người vào thành
thánh và đặt trên thượng đỉnh Ðền thờ để như có quần chúng đông đảo ở dưới chân
đang chờ đợi dấu thiêng điềm lạ, đến nỗi có thể có cả những sự can thiệp của
các thiên thần. Chính danh từ thành thánh đã báo hiệu thời kỳ cánh chung rồi.
Satan dùng ngay khí giới Ðức Kitô đã dùng. Nó trích Lời Chúa để hy vọng vô hiệu
hóa "thứ gươm hai lưỡi đó", nếu làm được cho Người lạm dụng Lời Chúa,
lạm dụng sứ mạng và quyền lực được trao phó cho Người. Nó bảo: nếu Ông là Con
Thiên Chúa, hãy gieo mình xuống vì như đã chép, Người sẽ lịnh cho các thiên thần
đến đỡ... Nó đâu ngờ được Người sẽ trả lời: lại có chép: Ngươi đừng thử thách
Thiên Chúa. Câu sách Thứ Luật này (6,16) lại gợi đến một chuyện ở hoang địa, kể
trong sách Xuất hành (17). Chính ở Massa, dân đã thử thách Chúa, để xem Chúa có
ở giữa họ hay không? Ðức Kitô ý thức chắc chắn Thiên Chúa ở với Người. Người
không thử thách Chúa. Người không cần làm chứng về mình, như các kitô giả phải
tạo ra uy tín mà họ không có. Chính Chúa Cha đã làm chứng về Người ở sông
Yorđan; và sẽ làm chứng huy hoàng hơn nữa trong mầu nhiệm Phục sinh.
Satan cố gắng một lần cuối cùng. Nó muốn biết rõ thái độ của Người đối với
nó. Người phải trực tiếp nhìn vào nó. Và như vậy, nó đưa Người lên núi cao, bày
cả thế gian ra trước mắt Người, chỉ cho Người thấy tất cả vương quốc của nó. Nó
bảo Người chỉ cần lạy nó một cái là được tất cả. Nó thật không ngờ: cảnh tượng
này nhắc Người nhớ tới hôm Môsê được dẫn lên núi cao để bao quát Hứa địa chảy sữa
và mật. Dân sẽ được đất đó làm sở hữu, nhưng họ phải tránh tà giáo và chỉ được
thờ một Thiên Chúa mà thôi. Tiếng của Môsê còn vang rõ trong Xuất hành (23,23),
trong Thứ luật (16,16). Và hình ảnh Êlya, người chiến sĩ vô địch chống tà giáo,
còn như đang đứng cao với ngọn núi Karmel. Ðức Yêsu lập tức cất tiếng: Satan,
xéo đi! Bị gọi đúng tên, nó biến mất, để lại một Ðức Yêsu toàn thắng, được các
thiên thần đến phục vụ. Chúng ta cũng hãy đến với Người để được đưa ra khỏi
tình trạng sa ngã của loài người.
C. Liên Kết Với Ðức
Kitô
Ðó là mục đích của Phụng vụ và của bài thơ Phaolô hôm nay. Bài thơ này muốn
là gạch nối giữa bài sách Khởi Nguyên và bài Tin Mừng.
Chúng ta đã thấy tất cả loài người sa ngã hay ít ra đã thấy gương sa ngã
của Ađam-Evà là tiêu biểu giống đàn ông đàn bà chúng ta. Chúng ta dễ đồng hóa
mình với hai nguyên tổ, tức là cũng nhận ra mình là tội nhân trong cả loài người
tội lỗi. Trong khi đó, nhìn vào chiến thắng của Ðức Kitô, chúng ta thấy Satan
đã bị đánh bại. Nhưng đó là chiến thắng của riêng Người, hấp dẫn chúng ta thật
nhưng chưa có gì móc nối ta vào chiến thắng đó. Bài thư Phaolô đáp lại chờ mong
của chúng ta, đem đến một tin mừng cứu độ: Ðức Kitô đã chiến thắng cho chúng ta
hết thảy và vì chúng ta hết thảy. Người là người con duy nhất của Thiên Chúa đã
đến làm lại lịch sử của Dân Chúa để cứu chuộc toàn dân đã lầm lẫn. Người là
Môsê mới được gửi đến để giúp dân không còn thử thách Chúa nữa, một tin vững
vàng Ngài đang ở với mình và vì thế chỉ được thờ một mình Ngài mà thôi. Người
cho những ai tin vào ơn gọi làm con Chúa được liên đới với Người. Và sự liên đới
này hữu lý và sâu xa hơn sự liên đới với Ađam tội lỗi.
Ðó là ý của bài thư Phaolô. Nó xoay quanh tư tưởng liên đới. Chúng ta dễ
thấy mình liên đới với Ađam vì rõ ràng chính chúng ta cũng tội lỗi. Án tử mà
chúng ta hết thảy đang mang trong mình là bằng chứng rõ rệt. Ý thức ấy sẽ đưa
chúng ta vào tuyệt vọng, nếu không có một sự liên đới khác, sâu xa và hoàn toàn
hơn. Sự liên đới này không kinh nghiệm được, nhưng hoàn toàn tựa vào niềm tin.
Chính niềm tin cứu sống loài người. Trong Cựu Ước, Chúa đã cứu những ai tin Người.
Nay dưới thời Tân Ước, Người cũng cứu những ai tin vào Người Con Chí Ái của Người.
Và tin vào người Con này, thì phải bắt chước, sống ơn gọi làm con như Người.
Do đó, con đường Mùa Chay dẫn tới vinh quang Phục sinh là con đường bảo đảm
và phát huy ơn gọi làm con Chúa. Ở bất cứ chặng đường nào, dường như vẫn có tiếng
nói nhắc nhở chúng ta: nếu là con Thiên Chúa... thì chúng ta phải liên kết với
Ðức Kitô và phấn đấu như Người.
Dĩ nhiên cám dỗ có nhiều thứ; nhưng chung quy mọi cám dỗ đều muốn kéo ta
ra khỏi ơn gọi làm con Chúa. Mà ơn gọi này, ở nơi ta cũng như ở nơi Ðức Kitô,
không thể tách rời khỏi ơn cứu thế. Ai ý thức mình là con Chúa cũng phải coi mọi
người là anh em và đưa tất cả anh em về Nhà Cha. Nên hết mọi cám dỗ, khi muốn
kéo ta ra khỏi ơn gọi làm con Chúa, cũng đồng thời lôi ta ra khỏi tình anh em.
Và vì thế Mùa Chay phải là mùa phải trở về với cộng đồng vì là mùa phải trở về
với Thiên Chúa. Chúng ta hãy có tinh thần yêu tha nhân, yêu đồng bào hơn; hãy sửa
chữa những thái độ ích kỷ và phát huy tinh thần phục vụ công ích; hãy muốn cứu
thế để được cứu độ, vì có thương xót mới được xót thương.
Ðức Kitô giờ đây ban Thịt Máu Người cho ta. Tâm hồn Người thật quảng đại,
nên chỉ có những ai quảng đại mới đáng đón nhận Người. Xin Người ngự vào lòng
chúng ta, giúp chúng ta bảo toàn và phát huy ơn gọi làm con Chúa, để tăng ý thức
mọi người là anh em ở nơi ta, hầu lòng mến Chúa ở nơi ta trở thành lòng mến yêu
và phục vụ mọi người.
(Trích dẫn từ tập
sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục
Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật I Mùa Chay, Năm
A
Bài đọc: Gen
2:7-9; 3:1-7; Rom 5:12-19; Mt 4:1-11.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Cám
dỗ và cách thức để vượt qua
Cám dỗ là kinh nghiệm
thường xuyên xảy ra cho mỗi người. Nhiều người bi quan cho rằng con người không
thể thắng vượt được trước ba kẻ thù quá mạnh là xác thịt, thế gian và ma quỉ.
Nhưng trong kế hoạch của Thiên Chúa, phải có cám dỗ để thử thách đức tin. Thiên
Chúa để những cám dỗ xảy ra là để thử thách và tôi luyện niềm tin, sự hy vọng,
và lòng yêu mến của mỗi người dành cho Ngài.
Những bài đọc của Chủ
Nhật đầu Mùa Chay, Năm A, cho chúng ta cái nhìn thâm sâu vào sự cám dỗ. Trong
bài đọc I, tác giả Sách Sáng Thế tường trình sự sa ngã của cặp vợ chồng đầu tiên,
ông Adam và bà Eva. Hậu quả là con người phải lãnh nhận biết vao đau khổ và phải
chết. Trong bài đọc II, thánh Phaolô giải thích cho chúng ta sự liên hệ giữa tội
của Adam và công nghiệp của Chúa Giêsu trong Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa.
Trong Phúc Âm, thánh sử Matthew tường thuật cơn cám dỗ của Chúa Giêsu trước khi
khởi đầu sứ vụ rao giảng và cứu chuộc của Ngài. Tuy bị cám dỗ như bao người,
Chúa Giêsu đã chiến thắng khải hoàn vì Người luôn tin tưởng nơi tình yêu và sự
quan phòng của Thiên Chúa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Adong và Eva bị cám dỗ và đã sa chước cám dỗ.
1.1/ Thiên Chúa sắp đặt mọi
sự cho con người: Trình thuật STK vắn tắt
cho khán giả thấy uy quyền, tình yêu, và sự quan phòng của Thiên Chúa: Ngài dựng
nên con người và thiết lập một Vườn Địa Đàng để cho con người cư ngụ trong đó.
Con người không thiếu thốn một điều gì trong vườn đó, và có quyền ăn mọi trái
cây trong vườn ngay cả cây trường sinh. Để thử thách niềm tin yêu của con người,
Thiên Chúa cấm con người không được ăn cây “biết điều thiện điều ác.”
1.2/ Con rắn cám dỗ và
con người đã sa ngã:
(1) Sự tinh khôn của rắn:
Tác giả cho chúng ta một chi tiết quan trọng: “Rắn là loài xảo quyệt nhất trong
mọi giống vật ngoài đồng, mà Đức Chúa là Thiên Chúa đã làm ra.” Rắn là biểu tượng
của quỉ, chúng cũng là tạo vật của Thiên Chúa, nguyên thủy là thiên thần nhưng
đã phản bội Ngài. Chúng tinh khôn hơn con người vì chúng không có thân xác, điển
hình là chúng đã làm cho con người sa ngã. Trước tiên, nó khơi dậy sự tò mò nơi
người đàn bà: Tại sao Thiên Chúa chỉ cấm ăn trái cây đó? Thứ đến, nó khơi dậy sự
nghi ngờ trong người đàn bà về tình yêu Thiên Chúa dành cho con người khi nó
nói với Bà: "Chẳng chết chóc gì đâu! Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà
ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều
thiện điều ác."
(2) Ý nghĩa của cám dỗ
đầu tiên:
- Tên của trái cây bị
cấm “biết điều thiện điều ác” cho chúng ta cái nhìn sâu xa trong cuộc cám dỗ
này. Chỉ có Thiên Chúa là Người hoàn toàn biết điều thiện điều ác. Quỉ cũng muốn
được giống như Thiên Chúa, và chúng sa ngã cũng vì lý do này. Con người không
thể hoàn toàn biết điều thiện điều ác như Thiên Chúa, nhưng lại muốn được giống
như Thiên Chúa để khỏi phải lệ thuộc vào Ngài. Đúng như tên gọi của cây, vì khi
hai ông bà ăn vào, “mắt hai người mở ra, và họ thấy mình trần truồng: họ mới kết
lá vả làm khố che thân.” Họ biết điều thiện là họ đã phản bội Thiên Chúa yêu
thương, và họ biết điều ác là mình đã phạm tội và cảm thấy xấu hổ.
- Tội đầu tiên con người
phạm là tội kiêu ngạo: là con người mà lại muốn trở thành Thiên Chúa. Tội này dẫn
đến tội thứ hai là không vâng lời điều Thiên Chúa truyền dạy: đưa tay ăn quả cấm
và cám dỗ chồng để cùng ăn. Hậu quả là con người bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng,
chịu trăm ngàn đau khổ, và phải chết.
- Hai ông bà không phải
là những người duy nhất phạm hai tội này, nhưng trải qua bao thế hệ, chúng vẫn
đang làm cho biết bao người sa ngã và chịu những thiệt hại nặng nề. Con người ở
mọi nơi mọi thời vẫn bị cám dỗ để nghĩ họ có thể khôn ngoan bằng hay hơn Thiên
Chúa, họ muốn tự mình quyết định mọi chuyện xảy ra, chứ không muốn lệ thuộc vào
ai cả; nhất là không muốn nghe bất cứ ai truyền cho họ phải làm điều gì cả cho
dù biết nó là điều tốt.
2/ Bài đọc II: Sự khiêm nhường và lòng vâng phục của Đức Kitô thay đổi bản
án cho con người.
2.1/ Tội cùng chịu và
phúc lành cùng hưởng: Có lẽ câu trả lời của
thánh Phaolô cho câu hỏi “Làm sao mọi người đều được hưởng ơn cứu độ từ công
phúc của một mình Chúa Giêsu?” phải được xếp ngang hàng về tầm quan trọng với
câu trả lời “Con người được cứu độ là do việc đặt niềm tin vào Đức Kitô, chứ
không do bởi việc lành của con người.” Trình thuật hôm nay dẫn chứng câu trả lời,
chúng tôi sắp xếp câu trả lời như sau để giúp độc giả hiểu rõ hơn.
(1) “Vì một người duy
nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết; như thế, sự
chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội.” Phải hiểu làm
sao câu “mọi người đã phạm tội?” Có 3 cách hiểu:
i. Tội tổ tông: Mọi
người đều từ cặp vợ chồng Adam và Eve, nên mọi người đều bị ảnh hưởng di truyền
của tội. Đây là điều Giáo Hội dạy, nhưng không chắc là ý của Phaolô ở đây.
ii. Adam phạm tội đầu
tiên, sau đó mọi người đều phạm tội; nhưng không có một sự liên hệ mật thiết
nào giữa tội của Adam và tội của mọi người, ngoại trừ căn bản là tội kiêu ngạo
và bất tuân. Ý kiến này cũng không vững ở đây.
iii. Adam là biểu tượng
chung cho tất cả con người, như khi chúng ta dùng danh từ “con người” có thể để
chỉ “một người” hay có thể để chỉ “mọi người.” Đây có lẽ là điều thánh Phaolô
muốn ám chỉ ở đây: mọi người đều đã phạm tội trong sự sa ngã đầu tiên.
(2) Bằng chứng: “Trước
khi có Lề Luật, đã có tội lỗi ở trần gian. Nhưng nếu không có Luật, thì tội
không bị kể là tội. Thế mà, từ thời Adam đến thời Moses, sự chết đã thống trị cả
những người đã không phạm tội bất tuân lệnh Thiên Chúa như Adam đã phạm.” Đối với
Phaolô, Lề Luật được coi là “người buộc tội luân lý,” vì nếu không có Luật buộc
sẽ không có tội. Thập Giới chỉ được ban cho con người từ thời ông Moses, vậy chẳng
lẽ con người không có tội từ ông Adam đến thời Moses? Phaolô nói không phải thế,
vì con người vẫn phải chết, mà chết là hậu quả của tội. Phaolô có ý muốn nói tất
cả đều đã phạm tội với Adam rồi, đó là lý do tại sao họ đều phải chết. Nhiều
người sẽ thắc mắc: “chưa sinh ra, làm sao đã phạm tội được?” Phaolô muốn trả lời:
Tập thể con người chỉ là một đối với Thiên Chúa, chứ không phải chỉ là những cá
nhân riêng lẻ, một người phạm tội là mọi người cùng phạm, một người phải chết
là mọi người phải chết. Có người sẽ phản đối như thế là bất công!
(3) Phaolô trả lời
Thiên Chúa không bất công, vì “Adam là hình ảnh Đấng sẽ tới. Nhưng sự sa ngã của
Adam không thể nào sánh được với ân huệ của Thiên Chúa. Thật vậy, nếu vì một
người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết, thì ân sủng của Thiên Chúa
ban nhờ một người duy nhất là Đức Giêsu Kitô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn
người.” Như vậy, Phaolô đã trả lời câu hỏi hóc búa: “Làm sao ơn cứu độ của mọi
người có thể đến từ công nghiệp của một người là Đức Kitô.”
2.2/ Không ai là một hòn
đảo riêng lẻ: Nhiều người bi quan thường hay
đổ tội cho bà Eva hay cho ông Adam, vì họ đã gây ra tội lỗi, đau khổ, và sự chết
cho con cháu. Thánh Phaolô và Giáo hội không đổ lỗi như thế, lại còn lạc quan gọi
đó là “tội hồng phúc” như trong bài Exultet ca ngợi trong Đêm Vọng Phục Sinh.
Thánh Phaolô liệt kê ở đây hai hồng phúc mà con người được hưởng vì tội này:
(1) Con người được Thiên Chúa ban ơn cho trở nên công chính nhờ tin vào Đức
Kitô. (2) Những ai được Thiên Chúa ban ân sủng dồi dào và cho trở nên công
chính, thì sẽ được sống và được thống trị với Ngài. Và Ngài kết luận: “Thật vậy,
cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người
thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người
cũng sẽ thành người công chính.”
3/ Phúc Âm: Chúa Giêsu bị cám dỗ và Ngài đã vượt qua thành công.
Trình thuật cơn cám dỗ
của Chúa Giêsu được đặt trong bối cảnh cuộc đời của Chúa Giêsu trước khi Ngài bắt
đầu sứ vụ rao giảng công khai. Địa điểm của chỗ cám dỗ này là Núi Quruntur vẫn
còn ngày nay, một vùng núi đá chập chùng nằm giữa Jericho và Jerusalem. Nếu một
người vào tu viện và leo lên đỉnh núi, họ có thể nhìn thấy rõ Đền Thờ Jerusalem
từ đây. Chúa Giêsu bị cám dỗ để chọn lựa cách cứu chuộc con người: Cách dễ nhất
và nhanh nhất để con người tin vào Ngài là làm phép lạ cho dân có của ăn và ban
cho họ tất cả những gì họ muốn như của cải, danh vọng, uy quyền..., như sau khi
Chúa làm phép lạ nuôi 5000 người, họ đã toan tính tôn Ngài làm vua nên Ngài phải
bảo các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia, giải tán dân chúng, còn Ngài lên
núi cầu nguyện (Jn 6:); Cách khó nhất và lâu nhất là giáo dục để họ nhận ra sự
thật, giúp họ kiên nhẫn thực hành, và vượt qua đau khổ để đạt tới ơn cứu độ;
cách này đòi hỏi Ngài phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng trên Thập Giá để mang
lại ơn cứu độ cho con người.
3.1/ Ba cơn cám dỗ của
Chúa Giêsu.
(1) Cám dỗ thứ nhất về
sự ăn uống: Trình thuật kể “Người ăn chay ròng rã bốn mươi đêm ngày, và sau đó,
Người thấy đói.” Bấy giờ tên cám dỗ đến gần Người và nói: "Nếu ông là Con
Thiên Chúa, thì truyền cho những hòn đá này hoá bánh đi!" Quỉ biết Chúa
Giêsu là Con Thiên Chúa, nó cũng biết Ngài mang bản tính con người nên cảm thấy
đói sau khi ăn chay, và nó biết để bảo vệ sự sống, một người sẽ không nghĩ tới
gì khác hơn là tìm được của ăn cho đỡ đói, nên nó cám dỗ Ngài làm phép lạ bằng
cách hóa đá thành bánh ăn.
Nhưng Chúa Giêsu đáp lời
quỉ và dạy chúng ta một bài học quan trọng: "Đã có lời chép rằng: Người ta
sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán
ra." Con người là một tổng hợp của hồn và xác, như thân xác cần bánh ăn mới
có thể sống cách thể lý, linh hồn cũng cần được nuôi dưỡng bởi Lời Chúa thì mới
có thể sống về phương diện tâm linh được. Sống phần tâm linh quan trọng hơn sống
phần xác, vì đó là cuộc sống đời đời. Thế mà biết bao nhiêu người sống như
không có hồn, như không phải chết, qua việc họ dành trọn vẹn thời giờ cho việc
mưu sinh và bỏ qua việc học hỏi Lời Chúa. Chẳng lạ gì mà họ bị rơi vào hết cơn
cám dỗ này đến cơn cám dỗ khác, và quằn quại trong đau khổ.
(2) Cám dỗ thứ hai về
làm phép lạ: Sau đó, quỷ đem Người đến thành thánh, và đặt Người trên nóc đền
thờ, rồi nói với Người: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì gieo mình xuống
đi! Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, và
thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá." Quỉ biết người
Do-thái rất thích chứng kiến hay được hưởng phép lạ, và đa số dân chúng, nhất
là dân Việt-nam rất thích phép lạ. Nếu muốn con người tin, Thiên Chúa chỉ cần
cho họ thấy phép lạ!
Chúa Giêsu trả lời quỉ
và dạy con người bài học thứ hai: "Nhưng cũng đã có lời chép rằng: Ngươi
chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi." Phép lạ được làm là để
khơi dậy đức tin trong tâm hồn con người: nếu một người đã có niềm tin, phép lạ
không còn cần nữa; nhưng nếu một người cứng lòng, dù có chứng kiến biết bao
phép lạ họ vẫn không tin. Chúng ta thấy rõ điều này nơi các người trong Thượng
Hội Đồng, họ vẫn không tin Chúa và còn tìm cách hủy diệt Người. Hơn nữa, niềm
tin dựa trên phép lạ không vững bền; nếu không thấy phép lạ nữa, con người sẽ
đánh mất đức tin. Họ muốn biến và điều khiển Thiên Chúa thành máy làm phép lạ
thay vì họ phải biết tin tưởng vào tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa,
như những gì quỉ nói: “Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, và thiên sứ
sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá.”
(3) Cám dỗ thứ ba cho
giàu sang phú quí: Quỷ lại đem Người lên một ngọn núi rất cao, và chỉ cho Người
thấy tất cả các nước thế gian, và vinh hoa lợi lộc của các nước ấy, và bảo rằng:
"Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi."
Cám dỗ này cho chúng ta thấy rõ ràng sự gian dối của ma quỉ, vì tất cả những thứ
quỉ hứa cho thuộc về Thiên Chúa, không thuộc về chúng.
Chúa Giêsu trả lời quỉ
và dạy con người bài học thứ ba: "Satan kia, xéo đi! Vì đã có lời chép rằng:
Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một
mình Người mà thôi." Đây là điều răn thứ nhất và quan trọng hơn cả. Có thể
nói không một tín hữu nào không biết điều răn này; nhưng thực hành giới răn này
trong cuộc sống thì không dễ dàng, vì biết bao người đã vì lợi lộc không chịu
thờ phượng Thiên Chúa, lại quì sụp lạy ma quỉ. Cám dỗ này phải mở mắt cho con
người hiểu rõ họ được sở hữu điều gì hoàn toàn là do bởi Thiên Chúa, chứ không
từ ma quỉ, hay do bởi sức mình, hay bởi những thế lực khác.
3.2/ Những điều căn bản cần
thiết để vượt qua chước cám dỗ: Trước tiên,
kiến thức về Thiên Chúa và về con người là điều kiện chủ yếu để vượt qua cám dỗ.
Để có kiến thức này, các tín hữu cần bỏ thời giờ để học hỏi về Thiên Chúa qua
Thánh Kinh và những giáo huấn của Giáo Hội. Không biết Kinh Thánh là không biết
Thiên Chúa và không biết những dự tính và đường lối của Thiên Chúa dành cho con
người. Biết những điều này, con người sẽ nhận ra ngay những cạm bẫy gian dối của
ma quỉ và không dễ rơi vào. Thứ đến, niềm tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa
cũng không kém quan trọng. Con người phải vững tin Ngài sẽ không bỏ mặc con người
phải đương đầu với ma quỉ, nhưng sẽ sai các thiên thần và những người tốt lành
đến giúp đỡ và bảo vệ các con cái của Ngài, như đã sai các thiên thần đến nâng
đỡ và bảo vệ Chúa Giêsu sau cuộc cám dỗ. Sau cùng, nhược điểm của con người là
nghi ngờ sự hiện hữu, tình thương, và sự quan phòng của Thiên Chúa. Nhiều người
lo sợ không biết có Thiên Chúa hay không, và nếu có, không biết Ngài có để mắt
săn sóc đến họ không; vì thế, họ nghĩ phải tự mình lo liệu lấy cho chắc ăn.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta chỉ là loài
thụ tạo vì yêu thương Thiên Chúa đã dựng nên, và có rất nhiều giới hạn. Chúng
ta phải diệt trừ tội kiêu ngạo và bất tuân bằng cách tập luyện cho có được hai
nhân đức khiêm nhường và tuân phục như Đức Kitô đã làm gương cho chúng ta.
- Chúng ta cần phải loại
trừ cách nhìn ích kỷ và cá nhân của thế gian để học cái nhìn xả kỷ và tập thể của
Thiên Chúa. Một người phạm tội, mọi người đều chịu; một người làm phúc, mọi người
đều thông phần. Chỉ một lối sống như thế mới giúp chúng ta loại bỏ mọi cãi cọ,
ghen tương tranh dành, ly dị, chiến tranh và đáp ứng được giới luật yêu thương
như lời Chúa truyền dạy.
- Mọi cám dỗ đều có thể
thắng vượt được nếu chúng ta chịu khó học hỏi Lời Chúa, và tập luyện để làm cho
đức tin cho chúng ta mỗi ngày một thêm vững mạnh và kiên cường hơn.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
Mt 4,1-11
SỐNG NHƯ CON CÁI CHÚA
Bấy giờ tên
cám dỗ đến gần Chúa Giêsu và nói: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho
những hòn đá này hoá bánh đi!” (Mt 4,3)
Suy niệm: Trong cuốn “Thuyền
Trưởng Tuổi Mười Lăm” của Jules Verne có kể chuyện một tên buôn nô lệ
giả dạng làm đầu bếp trên tàu; mỗi buổi sáng, y dùng cục nam châm làm lệch
chiếc kim của la bàn trên tàu một chút xíu. Bằng cách ấy, y đã lừa được cậu
thuyền trưởng bất đắc dĩ mới mười lăm tuổi lái tàu lạc hướng lọt vào sào huyệt
của bọn buôn nô lệ. Đó cũng là chiến thuật của ma quỷ dưới tên gọi “tên cám
dỗ”. Y không thuyết phục Chúa Giê-su hành động phản lại Chúa Cha, mà chỉ dụ dỗ
Ngài vận dụng chính tư cách “Con Thiên Chúa” để làm những việc không phải là ý
định, chương trình của Cha Ngài. Trái lại, Chúa Giê-su luôn kiên định lập
trường: là Con Thiên Chúa, lẽ sống của Ngài là thực hiện ý muốn của Chúa Cha.
Mời Bạn: Khi cám dỗ chúng ta, ma
quỷ cũng không dùng chiến thuật nào
khác. Nó không bắt đầu cám dỗ chúng ta phạm ngay một tội trọng nhưng dụ dỗ
chúng ta làm những việc tốt nhưng chỉ vì ý riêng (để thoả mãn lòng háo danh, tự
ái… chẳng hạn), hoặc chỉ thoả hiệp một chút dục vọng thầm kín, và tự trấn an
bằng cách biện hộ rằng mình cũng chưa đến nỗi phạm tội trọng…, để rồi một ngày
bừng con mắt dậy thấy mình đã lún sâu trong tội lỗi tự bao giờ!
Sống Lời Chúa: Học nơi Chúa
Giê-su chống lại tên cám dỗ: - luôn
trung kiên tìm kiếm và thi hành ý Chúa; - chống lại cám dỗ ngay từ đầu, không
du di, không khoan nhượng.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin dạy
chúng con noi gương Chúa Giê-su, Con
Chúa biết luôn trung thành vâng theo ý Chúa. Xin chớ để chúng con sa chước cám
dỗ.
(5 phút lời Chúa )
QUỶ BỎ NGƯỜI MÀ ĐI (5.3.2014 – Chúa nhật 1 Mùa Chay, Năm A)
Không phải vật chất là điều xấu. Nhưng nếu con người bị ám ảnh bởi vật chất và coi đó là mục đích duy
nhất của đời mình, thì cuộc sống sẽ nghèo nàn biết chừng nào!
Sống là chịu tác động của
hoàn cảnh bên ngoài.
Có những điều nâng đời
sống của ta lên,
và cũng có những điều
khiến ta ngã qụy.
Chấp nhận làm người là
chấp nhận bị cám dỗ.
Cám dỗ từ bên ngoài, từ
quỷ dữ, từ tha nhân...
Cám dỗ từ bên trong,
từ đòi hỏi của bản năng
tự nhiên, của thân xác,
từ sự khép kín của trí
tuệ và lạnh giá của con tim.
Phận người chênh vênh vì
luôn bị cám dỗ,
nhưng phận người lại cao
cả hào hùng
vì con người có thể thắng
được mọi cơn cám dỗ
bằng một lựa chọn đầy tự
do.
Nhìn lại ba cơn cám dỗ
tiêu biểu của Ðức Giêsu,
ta thấy chúng có một mẫu
số chung.
Ðó là Ngài bị lôi kéo
sống cho mình,
lo cho mình, xây đắp cho
mình.
Dù là dùng quyền năng Cha
ban
để biến đá thành bánh ăn
cho đỡ đói.
Dù là nhảy xuống từ nóc
Ðền thờ
như một thách đố đối với
Thiên Chúa yêu thương,
hay như một biểu diễn
ngoạn mục để thu hút quần chúng.
Dù là sấp mình bái lạy
Satan
để được nắm mọi quyền
hành trên muôn nước.
Giàu sang, quyền lực,
khoái lạc
vẫn là những cám dỗ muôn
thuở,
cho mọi người, mọi tập
thể đạo đời.
Ðức Giêsu đã thắng được
các cơn cám dỗ.
Cơn cám dỗ lớn nhất là
quay vào mình,
chọn mình thay vì chọn
Chúa và anh em.
Chúng ta cần nhận ra
những cơn cám dỗ hiền lành,
mang một lớp vỏ bên ngoài
vô hại.
Một số bạn trẻ Thái Lan
mơ ước có được 7 điều,
tất cả đều bắt đầu bằng
chữ C theo tiếng Anh:
xe hơi, điện thoại di
động, quần áo, máy vi tính,
một căn hộ sang trọng,
thẻ tín dụng, thuốc ngừa thai.
Không phải vật chất là
điều xấu.
Nhưng nếu con người bị ám
ảnh bởi vật chất
và coi đó là mục đích duy
nhất của đời mình,
thì cuộc sống sẽ nghèo
nàn biết chừng nào!
Sống đâu phải chỉ để hưởng
thụ, mà còn để hiến trao.
Con người đâu phải chỉ là
thân xác, mà còn là tinh thần.
Cuộc sống đâu phải chỉ ở
đời này, mà còn ở đời sau.
Cần tập chiến thắng cơn
cám dỗ bằng cầu nguyện, hy sinh.
Hy sinh là làm chủ các
giác quan và trí tưởng tượng,
là khiêm tốn nhận mình
yếu đuối, mỏng dòn,
là dám cương quyết từ
chối: “Hãy xéo đi, Satan.”
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
giàu sang, danh vọng, khoái lạc
là những điều hấp dẫn chúng con.
Chúng trói buộc chúng con
và không cho chúng con tự do ngước lên cao
để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.
Xin giải thoát chúng con
khỏi sự mê hoặc của kho
tàng dưới đất,
nhờ cảm nghiệm được phần
nào
sự phong phú của kho tàng
trên trời.
Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi
bán tất cả những gì chúng
con có,
để mua được viên ngọc quý
là Nước Trời.
Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng
trước những lời mời gọi của Chúa,
không bao giờ ngoảnh mặt
để tránh cái nhìn yêu thương
Chúa dành cho từng người
trong chúng con. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
5 THÁNG BA
Xu Hướng Về Một Thứ
Tự Do Vô Giới Hạn
Cuộc Vượt Qua của giao
ước cũ là hình ảnh báo trước cuộc Vượt Qua mới của Đức Kitô. Trong biến cố dân
It-ra-en trốn thoát ra khỏi Ai-cập, Thiên Chúa tự thể hiện chính Ngài như Đấng
giải phóng họ khỏi tình cảnh nô lệ. Giờ đây, Ngài tự biểu lộ như Đấng cứu độ tất
cả những ai tin vào Ngài xuyên qua sức mạnh của Thập Giá và Phục Sinh.
Ta là Đức Chúa, là
Thiên Chúa của các ngươi. Nhờ hy tế Thập Giá của Đức Kitô, Ta có thể đưa các
ngươi ra khỏi tình cảnh nô lệ. Tội lỗi là ách nô lệ tai ác nhất. Nó dẫn tới sự
chết. Khi các ngươi lạm dụng tự do, chính là các ngươi đang ở trong tình cảnh
nô lệ. Và hậu quả của điều đó chỉ có thể là sự chết. Khi cố bám lấy một thứ tự
do vô giới hạn, phải chăng chúng ta, những con người hiện đại, đã lựa chọn sự
câu thúc và đã tự dối gạt chính mình?
Để vãn hồi sự tự do khỏi
tội lỗi, cần phải có một hành động quyết liệt của Thiên Chúa. Mọi tội lỗi phải
được vạch mặt đích danh. Ơn cứu độ của Thiên Chúa phải được trao ban lại cho đời
sống chúng ta.
Điều chúng ta cần có
chính là ánh sáng giúp ta nhận thức về tội lỗi mình, ánh sáng đến từ sự hiện diện
của Thiên Chúa hằng sống. Aùnh sáng ấy giúp mỗi người chúng ta có thể đi vào ngả
đường tự do đích thực trong Đức Kitô.
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 05 – 3
Chúa Nhật I Mùa Chay
St 2, 7-9; Rm 5,
12.17-19; Mt 4, 1-11.
Lời suy niệm: “Xatan kia,
xéo đi! Vì đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của
ngươi và phải thờ phượng một mình Người mà thôi.”
Xatan luôn luôn tìm mọi
cách để cám dỗ con người. Trong Sáng Thế nó lấy hình con rắn để cám dỗ nguyên tổ
chỉ cần ăn trái Chúa cấm thì sẽ bằng Thiên Chúa. Nguyên tổ đã nghe theo nó và
đã bị án phạt. Giờ đây Xatan đến gần Chúa Gêsu và đưa Người lên một ngọn núi
cao và cho Người xem thấy mọi vinh quang của thế gian và đề nghị Người chỉ cần
thờ lạy nó là được tất cả. Chúa không những từ chối mà còn xua đuổi nó và dạy
cho nó: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi và phải thờ phượng
một mình Người mà thôi.”
Lạy Chúa Giêsu. Chúng
con đang bước vào đầu mùa chay. Xin Chúa ban thêm sức mạnh đức tin cho chúng
con để chúng con chiến thắng những cám dỗ mà ma quỷ đang bủa vây quanh chúng
con. Để chúng con luôn đứng vững và thờ phượng Chúa cho xứng đáng hơn.
Mạnh Phương
05 Tháng Ba
Bệnh Quên
Trưa ngày
25/12/1985, sau khi dự lễ Giáng Sinh ở nhà thờ về, bà cụ Anne Mc Donnell ở tiểu
bang New York, thấy một ông cụ già râu tóc bạc phơ như ông già Noel đang đứng
trước cửa nhà. Thoạt nhìn, bà cụ tưởng một người nào đó giả dạng ông già Noel để
đùa, nhưng sau khi nhìn kỹ, bà cụ nhận ra đó là chồng mình, đã biệt tích từ 15
năm qua...
Nguyên do vào ngày
24/12/1971, ông James Mc Donnell bị té xuống thang lầu, rồi qua hôm sau bị tai
nạn xe hơi. Gần một tháng sau ông lại bị tai nạn xe hơi một lần nữa, bị chấn động
não và bất tỉnh. Vài ngày sau đó, ông đi bách bộ ngoài trời cho thoáng khí, rồi
từ đó đi biệt tích luôn.
Về sau, ông Mc
Donnell kể lại rằng: "Tôi không còn nhớ gì cả. Tôi không biết tôi đã đến
Philadelphia bằng phương tiện gì và bằng cách nào". Ông cũng không nhớ tên
họ hay địa chỉ của mình, nên khi đi ngang qua một cửa hiệu có tên là Peter, ông
tự đặt tên cho mình là Jim Peter, rồikiếm việc làm ăn trên đó gần 15 năm.
Ngày Giáng Sinh năm
1985 vừa qua, tình cờ va đầu vào trần nhà ở sở làm, ông Mc Donnell bỗng phục hồi
được trí nhớ. Ông nhớ lại tên tuổi, nơi sinh, chỗ ở cũng như quãng đời trước đó
15 năm. Ông liền tìm đến cuốn niên giám điện thoại để xem vợ còn ở chỗ cũ
không. Khi biết chắc vợ mình chưa thay đổi địa chỉ, ông Mc Donnell đã đáp xe lửa
về lại nhà cũ vào đúng ngày lễ Giáng Sinh...
Trong vòng 15 năm, ông
Mc Donnell đã mắc một chứng bệnh: đó là bệnh quên. Quên có thể là một chứng bệnh
như trường hợp ông Mc Donnell bị té thang lầu, bị tai nạn xe hơi... Quên cũng
có thể là những chứng bệnh thông thường của nhiều người lớn tuổi, như nhiều cụ
già thường quên bẵng những sự việc vừa xảy ra, nhưng họ lại nhớ rất rõ ràng tỉ
mỉ những việc đã xảy ra hằng ba bốn chục năm về trước. Nhưng cũng có những trường
hợp con người muốn quên đi một dĩ vãng đau lòng nào đó, như trường hợp nhiều
người tìm quên lãng trong men rượu khói thuốc...
Quên lãng có thể giúp
con người tìm lại được đôi chút thanh thản trong tâm hồn, nhưng cũng có thể đưa
con người đến chỗ vô ân. Người không còn muốn nhớ đến nguồn gốc và công ơn sinh
thành của cha mẹ mình là người đáng trách. Người không còn muốn nhớ đến những
liên hệ mình với người khác cũng là một người đáng trách. Người khép mắt bịt
tai trước những nỗi đau khổ của người khác cũng là một người đáng thách...
Người Kitô luôn được
nhắc nhở để tìm ra dấu chỉ của thời gian qua các biến cố, để nhờ đó luôn nhận
ra sự hiện diện và tác động của Thiên Chúa. "Hãy làm việc này mà nhớ đến
Ta". Ðó là khẩu hiệu hàng đầu của người Kitô. Họ được mời gọi để ôn lại bước
chân đi qua của Thiên Chúa trong cuộc sống hằng ngày. Ðó là thái độ tỉnh thức
mà Ðức Kitô không ngừng mời gọi chúng ta hãy có trong từng giây phút.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét