14/07/2017
Thứ sáu tuần 14 thường niên
Bài Ðọc I: (Năm I) St
46, 1-7. 28-30
"Cha chết cũng vui lòng, vì Cha đã trông thấy mặt con".
Trích sách Sáng Thế.
Trong những ngày ấy,
ông Israel ra đi, đem theo tất cả những gì ông có và đến Giếng Thề; tại đây ông
dâng hy tế lên Thiên Chúa của Isaac, cha của ông. Ban đêm trong một thị kiến,
ông nghe Chúa gọi ông và nói với ông rằng: "Hỡi Giacóp, Giacóp!" Ông
liền thưa: "Này con đây". Thiên Chúa nói tiếp: "Ta là Thiên Chúa
rất hùng mạnh của cha ngươi, nên ngươi đừng sợ, hãy xuống xứ Ai-cập, vì ở đó Ta
sẽ làm cho ngươi nên một dân tộc vĩ đại. Ta sẽ xuống đó với ngươi. Cũng chính
Ta sẽ đưa ngươi trở về, (sau khi) tay Giuse đã vuốt mắt cho ngươi".
Bấy giờ Giacóp bỏ Giếng
Thề mà đi: các con cái đưa ông và vợ con lên các xe Pharaon đã phái đến rước
cha già và tất cả những gì ông có ở Canaan; ông sang Ai-cập với tất cả dòng dõi
ông, gồm con trai, con gái và cháu chắt.
Bấy giờ Giacóp sai
Giuđa đi trước báo tin cho Giuse biết mà đón rước cha tại Ghêsen. Khi ông đến
đó, thì Giuse thắng xe đi đón cha tại Ghêsen. Vừa thấy cha, ông ôm cổ cha mà
khóc. Giacóp nói với Giuse rằng: "Cha chết cũng vui lòng, vì cha đã trông
thấy mặt con và biết con còn sống".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 36, 3-4.
18-19. 27-28. 39-40
Ðáp: Người hiền được Chúa ban ơn cứu độ (c. 39a).
Xướng: 1) Hãy trông cậy
Chúa và hãy làm lành, để được cư ngụ trong đất nước, thọ hưởng an ninh. Hãy hân
hoan tin tưởng vào Chúa, Người sẽ ban cho sự lòng bạn thỉnh cầu. - Ðáp.
2) Chúa chăm lo cho mạng
sống người nhân đức, và phần gia nghiệp họ còn mãi muôn đời. Ngày tai hoạ, những
người đó không tủi hổ, và trong nạn đói, họ sẽ được ăn no. - Ðáp.
3) Hãy tránh ác và hãy
làm lành, hầu được an cư tới ngàn thu, bởi vì Chúa yêu điều chân lý, và không bỏ
rơi những tôi tớ trung thành. - Ðáp.
4) Người hiền được
Chúa ban ơn cứu độ: trong cơn khốn khó, Người là chỗ họ dung thân, Chúa bang trợ
và giải thoát họ. Người giải thoát và cứu họ khỏi lũ ác nhân, vì họ đã nương tựa
vào Người. - Ðáp.
Alleluia: Tv 129, 5
Alleluia, alleluia! -
Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy vào Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 10, 16-23
"Không phải chính các con nói, nhưng là Thánh Thần của Cha các
con".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu
phán cùng các Tông đồ rằng: "Này, Thầy sai các con đi như những con chiên ở
giữa sói rừng. Vậy các con hãy ở khôn ngoan như con rắn và đơn sơ như bồ câu.
Các con hãy coi chừng người đời, vì họ sẽ nộp các con cho công nghị, và sẽ đánh
đập các con nơi hội đường của họ. Các con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền và vua
chúa vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại được biết. Nhưng khi người
ta bắt nộp các con, thì các con đừng lo nghĩ phải nói thế nào và nói gì? Vì
trong giờ ấy sẽ cho các con biết phải nói gì; vì chưng, không phải chính các
con nói, nhưng là Thánh Thần của Cha các con nói trong các con.
"Anh sẽ đem nộp
giết em, cha sẽ nộp con, con cái sẽ chống lại với cha mẹ và làm cho cha mẹ phải
chết. Vì danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghen ghét, nhưng ai bền đỗ đến
cùng, kẻ ấy sẽ được cứu độ. Khi người ta bắt bớ các con trong thành này, thì
hãy trốn sang thành khác. Thầy bảo thật các con: Các con sẽ không đi khắp hết
các thành Israel trước khi Con Người đến".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Số Phận Của
Người Kitô Hữu
Trong chuyến hành
hương Lộ Ðức tháng 8/1981, Ðức Gioan Phaolô II nhắc đến những hình thức bách hại
đạo tại một vài nơi trên thế giới, Ngài nói: "Có những tín hữu bị bắt buộc
phải hội họp một cách lén lút, bởi vì cộng đoàn tôn giáo của họ không được phép
hoạt động. Có những Giám mục, Linh mục, Tu sĩ, bị cấm thi hành chức vụ trong
nhà thờ hay tại những nơi công cộng. Có những nữ tu bị phân tán không thể tiếp
tục cuộc sống hiến thân của họ. Có những người trẻ quảng đại nhưng không thể thực
hiện ơn gọi của họ. Có những tín hữu bị tước đoạt cả quyền có thể tận hiến cho
một cuộc sống chung để cầu nguyện và thực thi bác ái. Có những bậc cha mẹ bị
người ta khước từ quyền được bảo đảm cho con em một nền giáo dục dựa trên niềm
tin của mình..."
Tin Mừng hôm nay một lần
nữa cho chúng ta hiểu được thế nào là ơn gọi và số phận của người Kitô hữu.
Chúa Giêsu đã được cụ già Simêon gọi là dấu chỉ gợi lên chống đối. Cái chết của
Ngài trên Thập giá là cao điểm của những chống đối mà con người dành cho Ngài.
Tiếp tục sứ mệnh của Ngài, Giáo Hội ở mọi nơi và mọi thời, không thể thoát khỏi
số phận bị chống đối ấy. Hình thức và mức độ của những cuộc bách hại có khác
nhau, nhưng tựu trung ở đâu và lúc nào Giáo Hội cũng bị bách hại.
Ý thức về sự bách hại
không phải là một mặc cảm; lên tiếng về những bách hại cũng không hề là một ý đồ
chính trị. Giáo Hội tự bản chất luôn bị đặt vào thế bị chống đối. Chấp nhận đi
theo Chúa Kitô, sẵn sàng chiến đấu chống lại tội lỗi, lên tiếng chống lại bất
công và can đảm lội ngược dòng, sống như thế tức là đã bị bách hại rồi. Một
Giáo Hội phục vụ có thể được thương mến, nhưng một Giáo Hội bị bách hại lại
càng là Giáo Hội trung thành với Chúa Kitô hơn. Trong một chuyến viếng thăm tại
Braxin, Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói: "Tôi thà thấy muôn ngàn lần
một Giáo Hội bị bách hại, hơn là một Giáo Hội thỏa hiệp".
Nguyện xin Chúa gìn giữ
mọi thành phần Dân Chúa được luôn trung thành theo Chúa Kitô và thoát khỏi tinh
thần thỏa hiệp vì một chút dễ dãi, lợi lộc.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Sáu Tuần 14 TN1,
Năm lẻ
Bài đọc: Gen
46:1-7, 28-30; Mt 10:16-23.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải trung
kiên tới cùng mới được cứu thoát.
Con người sợ gian khổ
và thích nhìn thấy kết quả ngay; Thiên Chúa muốn con người chịu đựng gian khổ
và phải chờ đợi. Kinh nghiệm dạy con người nếu muốn thành công, họ phải kiên
trì vượt qua mọi thử thách; nếu không kiên trì vượt gian khổ, họ sẽ gẫy cánh giữa
đường, và không bao giờ nhìn thấy kết quả như lòng họ mong ước.
Các Bài Đọc hôm nay dạy
chúng ta phải trung thành chờ đợi để có thể đạt được kết quả mong muốn. Trong
Bài Đọc I, hai cha con ông Jacob và Giuse đã phải trải qua bao biến cố thăng trầm
và đau khổ, trước khi họ được gặp lại nhau và chung sống hạnh phúc. Trong Phúc
Âm, Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ khi Ngài sai các ông đi: Anh em sẽ bị
người đời ghen ghét, bắt bớ, và đánh đập, và tù đày; nhưng ai bền chí đến cùng,
kẻ ấy sẽ được cứu thoát.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Chính Ta sẽ xuống Ai-cập với ngươi và chính Ta cũng sẽ đưa
ngươi lên.
1.1/ Ông Jacob lên đường
đi gặp Giuse, con ông: Nếu chúng ta nhìn lại
cuộc đời của hai cha con, chúng ta sẽ hiểu được sự quan phòng của Thiên Chúa và
ý nghĩa của đau khổ mà hai cha con ông phải trải qua.
(1) Cuộc đời gian khổ
của Jacob: Ông tranh chấp với anh là Esau ngay từ trong bụng mẹ để chui ra trước,
nhưng không thành công. Trong sự quan phòng của Thiên Chúa, bà mẹ Rebekah đã âm
mưu một kế hoạch để tước quyền trưởng nam của Esau và lời chúc lành của Isaac.
Hai anh em tranh chấp với nhau kể từ đó. Khi được cha sai tới để ở với Laban, người
đồng hương, Jacob đã bị Laban lợi dụng trong việc kết hôn và phân chia tài sản.
Vì thế, Jacob phải lìa bỏ Laban và trở về quê hương của cha mình. Jacob lại phải
đương đầu với sự ghen ghét và chia rẽ ngay trong gia đình: Các con ông ghét
Giuse, và đã đánh lừa ông để ông tin Giuse đã bị thú dữ ăn thịt. Rồi ông phải
sai các con qua Ai-cập để mua thực phẩm cho gia đình, và phải bằng lòng để
Benjamin, đứa con út của ông rời xa mình, mà không biết có trở về với mình
không!
Nhưng trong mọi hoàn cảnh,
ông vẫn luôn tin tưởng nơi sự quan phòng của Thiên Chúa. Bàn tay của Thiên Chúa
luôn ở với ông, và Ngài luôn phù trợ ông mọi ngày trong cuộc sống. Trình thuật
hôm nay tường thuật thị kiến ông gặp Thiên Chúa tại Beer Sheba. Thiên Chúa phán
với ông trong thị kiến ban đêm, Người phán: "Ta là El, Thiên Chúa của cha
ngươi. Đừng sợ xuống Ai-cập, vì ở đó Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn.
Chính Ta sẽ xuống Ai-cập với ngươi và chính Ta cũng sẽ đưa ngươi lên. Giuse sẽ
vuốt mắt cho ngươi."
(2) Cuộc đời gian khổ
của Giuse: Giống như cha, Giuse cũng phải chịu gian khổ ngay từ lúc còn thơ ấu:
Cậu bị các anh ghen ghét vì sự quí mến của cha dành cho cậu và tài giải thích
điềm chiêm bao mà Thiên Chúa đã ban cho cậu. Hậu quả của sự ghen ghét là cậu bị
các anh bán cho lái buôn, và những lái buôn bán cho một viên quan Ai-cập. Cuộc
đời chưa hết khổ, cậu lại bị vào tù vì đã không chịu phạm tội với bà chủ; và bà
này đã tức giận đổ thừa cho Giuse, để chồng bà tống giam cậu vào ngục thất. Sau
cùng, nhờ tài giải thích điềm chiêm bao, cậu đã được triệu vào cung để giải
thích điềm chiêm bao cho vua Pharao và được nhà vua thăng chức Tể Tướng trong
triều đình.
Cũng như cha mình,
Giuse luôn tin tưởng nơi sự quan phòng của Thiên Chúa và cố gắng sống một cuộc
đời công chính. Ông không oán ghét và tìm cách trả thù các anh và bà vợ viên
quan Ai-cập; nhưng sẵn sàng tha thứ cho họ và làm nhiều lợi ích cho gia đình.
1.2/ Cuộc hạnh ngộ của
hai cha con: Trời cao có mắt. Thiên Chúa
luôn theo dõi và chúc lành cho hai cha con là những người kính sợ Thiên Chúa và
yêu mến tha nhân. Hai cha con phải xa cách nhau một thơi gian lâu dài, và phải
chịu bao nhiêu những hiểu lầm, buồn phiền, gian khổ, tủi nhục ... Cuối cùng,
Jacob đã được gặp lại con, đứa con ông đinh ninh đã không còn có mặt trên thế
gian nữa. Con ông vẫn khỏe mạnh; không những thế, còn đang làm quan Tể Tướng
trong triều đình của Pharao, và có quyền ban phát các lợi nhuận vật chất cho
gia đình.
Cuộc hạnh ngộ giữa hai
cha con được tường thuật như sau: "Ông Jacob đã sai ông Judah đi trước, đến
với ông Giuse, để ông Giuse tới Goshen gặp ông. Khi họ đến đất Goshen, thì ông
Giuse cho thắng xe riêng và lên Goshen đón ông Israel, cha ông. Khi hai cha con
vừa thấy nhau, thì ông Giuse bá cổ cha và gục đầu vào cổ cha mà khóc hồi lâu.
Ông Jacob nói với ông Giuse: "Phen này, cha chết cũng được, sau khi đã thấy
mặt con, và thấy con còn sống.""
2/ Phúc Âm: Ai bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát.
2.1/ Gian khổ luôn sẵn
sàng chờ đợi người môn đệ của Đức Kitô:
(1) Chúa Giêsu không dấu
diếm các môn đệ sẽ phải đương đầu với đau khổ khi Ngài tuyên bố với các ông:
"Này, Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói. Vậy anh em phải
khôn như rắn và đơn sơ như bồ câu." Chiên đi vào giữa bầy sói, chắc chắn sẽ
gặp nguy hiểm; nhưng với sự khôn ngoan và sức mạnh của Thiên Chúa, chiên có thể
vượt qua mọi nguy hiểm.
(2) Các môn đệ sẽ phải
đương đầu với các hạng người khác nhau:
+ Với giáo quyền:
"Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường
của họ." Giáo quyền không luôn luôn chấp nhận và bênh vực sự thật.
+ Với thế quyền:
"Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng
cho họ và các dân ngoại được biết." Điều này dễ hiểu vì các môn đệ Đức
Kitô sống và làm chứng cho giá trị Nước Trời, nhiều khi hoàn toàn đối nghịch với
giá trị thế gian.
+ Với gia quyền:
"Anh sẽ nộp em, em sẽ nộp anh cho người ta giết; cha sẽ nộp con, con cái sẽ
đứng lên chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết." Sự thật mất lòng,
người trong gia đình không luôn nhìn ra, định giá đúng, và chấp nhận sự thật.
2.2/ Thiên Chúa luôn đồng
hành với các môn đệ: Đối diện với các quyền
lực của thế gian và ma quỉ, người môn đệ cần có sự trợ giúp của Thiên Chúa.
(1) Ngài ban ơn khôn
ngoan để môn đệ biết đối đáp: "Khi người ta nộp anh em, thì anh em đừng lo
phải nói làm sao hay phải nói gì, vì trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ cho anh em biết
phải nói gì. Thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh
em nói trong anh em."
(2) Ngài ban sức mạnh
để vượt qua mọi gian khổ: "Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét.
Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát. Khi người ta bách hại
anh em trong thành này, thì hãy trốn sang thành khác. Thầy bảo thật anh em: anh
em chưa đi hết các thành của Israel, thì Con Người đã đến." Người môn đệ
phải tin sức mạnh của Thiên Chúa sẽ giúp mình vượt qua mọi gian khổ và sau cùng
sẽ chiến thắng.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Đau khổ không thể
thiếu trong cuộc đời. Thiên Chúa dùng đau khổ như phương tiện, để chúng ta có
thể chứng minh niềm tin yêu của chúng ta dành cho Ngài.
- Nếu chúng ta luôn biết
trung kiên với Thiên Chúa và sống ngay lành tốt đẹp trong mọi gian khổ của cuộc
đời, chúng ta chắc chắn sẽ được Thiên Chúa bảo vệ và chúc lành.
- Hiểu vai trò của đau
khổ như thế, chúng ta sẽ không than thân, trách Thiên Chúa, hay ghét người gây
đau khổ; nhưng biết dùng đau khổ để thánh hóa bản thân, vững tin nơi Thiên
Chúa, trung thành yêu mến và làm ích cho tha nhân.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
Th.
Ca-mi-lô Len-li, linh mục
Mt
10,16-23
VÌ
KHÔNG THUỘC VỀ THẾ GIAN!
“Này, Thầy sai anh em đi như chiên đi vào
giữa bầy sói. Vậy anh em phải khôn như rắn và đơn sơ như bồ câu.” (Mt 10,16)
Suy
niệm: Bị bách hại là chuyện
thường tình của thân phận tông đồ. Ở giữa thế gian, nhưng các môn đệ Chúa lại
“không thuộc về thế gian”, và họ sẽ bị thế gian thù ghét (x.
Ga 15,18-20); chính vì thế, giữa thế gian luôn xảy ra cuộc chiến giữa sự thiện
và sự ác. Cuộc chiến đó ở ngay trong bản thân và gia đình ta, ngay trong môi
trường ta đang sống và trên toàn thế giới. Sự ác chống lại sự thiện, bóng tối
không chấp nhận ánh sáng, và lời Tin Mừng cũng trở thành các gai cho thế gian.
Trong chính bối cảnh bị thế gian ghét bỏ, bắt bớ, bách hại vì Tin Mừng, người
tông đồ lại càng xác tín Đạo Chúa là Đạo thật, và Tin Mừng quả thật là Tin Mừng
cứu độ.
Mời Bạn: Được nhận biết Chúa,
tin theo Chúa, và phục vụ Ngài là một diễm phúc. Nhưng vì là con người, cũng sợ
hãi run rẩy trước bắt bớ, bách hại. Với niềm tín thác vào Chúa, với sức mạnh
của Chúa Thánh Thần, người môn đệ Chúa vẫn một lòng trung kiên làm chứng cho
Chúa, vì người tông đồ được sai đi là để làm chứng. Các thánh tử đạo là những
người đã chịu đau khổ để làm chứng cho Chúa. Và cái chết anh dũng của các ngài
đã là bằng chứng hùng hồn cho niềm tin vào Thiên Chúa. Các ngài xác tín: chỉ có
Chúa - ngoài Ngài ra, không có ai và không có gì khác - là “nguồn phát sinh mọi
điều thiện hảo”. Đó là kho tàng của các ngài, và “kho tàng” ở đâu, thì “lòng
trí” cũng ở đó. Bạn sẽ làm gì và sống thế nào để luôn làm chứng cho Chúa?
Sống Lời Chúa: Đọc Kinh Tin sốt sắng
trong giờ kinh gia đình hằng ngày.
Cầu
nguyện: Lạy Chúa Giê-su,
xin ban thêm đức tin cho chúng con. Amen.
(5 phút Lời Chúa)
Vì Danh Thầy (14.7.2017 – Thứ sáu Tuần 14 Thường niên)
Sống là Kitô hữu như Đức Kitô muốn đòi ta phải lội ngược dòng. Lội ngược dòng bao giờ cũng khó và làm người khác bực bội, sợ hãi.
Suy niệm:
Tháng 8 năm 2008, tại
vùng Orissa ở đông bắc Ấn độ,
có một người theo chủ
nghĩa dân tộc thuộc Ấn giáo, bị bắn chết.
Một tờ báo địa phương đã
qui tội cho các Kitô hữu.
Lập tức một làn sóng bạo
động nổi lên từ những người Ấn giáo cực đoan.
Kết quả là hàng chục
người chết, hàng ngàn người bị thương,
50 nhà thờ bị đốt, 4000
nhà người Kitô hữu bị phá hủy,
hàng chục ngàn người
không cửa không nhà, phải sống trong các trại cứu trợ.
Nhiều Kitô hữu thuộc giai
cấp thấp nhất trong xã hội Ấn độ,
giai cấp của những người
Dalit, những kẻ bị coi là tiện dân.
Người Dalit đã bỏ Ấn giáo
để theo Kitô giáo,
và họ đã lấy lại được
nhân phẩm, cùng những quyền lợi về kinh tế xã hội.
Họ được giáo dục tử tế,
nên giai cấp thống trị không lợi dụng họ được nữa.
Chính vì thế mà họ bị
phân biệt đối xử và bị bách hại.
Trong bài Tin Mừng hôm
nay, Đức Giêsu đã tiên báo về các bách hại đó.
Những gì Ngài phải chịu
thì các môn đệ cũng sẽ phải chịu,
vì tôi tớ không hơn chủ,
môn đệ không hơn thầy.
Hãy để ý đến những động
từ nói lên nỗi thống khổ của các Kitô hữu:
bị nộp, bị đánh đập, bị
điệu ra nơi hội đường và trước mặt vua quan,
bị tra hỏi, bị thù ghét
và cuối cùng là bị giết, có khi bởi người nhà (c. 21).
Những điều này Đức Giêsu
đều đã trải qua.
Mọi sự họ chịu đều “vì
Đức Giêsu”, “vì Danh Đức Giêsu” (cc. 18. 22).
Nơi tòa án, có sự hiện
diện gần gũi của Thiên Chúa Ba Ngôi.
“Chính Thần Khí của Chúa
Cha sẽ nói trong anh em” (c. 20),
để giúp anh em can đảm
tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu, Con Cha.
Bởi đó người Kitô hữu ra
tòa mà lòng rất bình an, chẳng lo gì (c. 19).
Họ được Thiên Chúa dạy
điều phải nói và Thần Khí nói qua miệng họ.
Với sự nâng đỡ đặc biệt
ấy, họ có thể bền chí đến cùng và sẽ được cứu độ.
Các Kitô hữu sẽ còn bị
bách hại đến tận thế.
Họ không phải là những
người thích tỏ ra mình anh hùng, đòi tử đạo.
Nhưng họ là những người
khiêm tốn, khôn ngoan,
biết trốn đi thành khác
khi bị bắt bớ ở thành này (c. 23).
Chịu bách hại là điều nằm
trong ơn gọi của người Kitô hữu,
là cái giá phải trả để
sống mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô.
Ngay cả ở những quốc gia
Tây phương tự hào là có tự do tôn giáo,
vẫn có những kiểu bách
hại ngấm ngầm và tinh vi,
khác với kiểu đòi bước
qua thánh giá thời vua Minh Mạng, Tự Đức.
Sống là Kitô hữu như Đức
Kitô muốn đòi ta phải lội ngược dòng.
Lội ngược dòng bao giờ
cũng khó và làm người khác bực bội, sợ hãi.
Làm sao để các bạn trẻ
Công Giáo dám sống theo những giá trị của Giêsu?
Làm sao để các gia đình
Công Giáo không bị thói đời lôi cuốn?
Cầu nguyện:
Giữa một thế giới mê đắm
bạc tiền,
xin được sống nhẹ nhàng
thanh thoát.
Giữa một thế giới lọc lừa
dối trá,
xin được sống chân thật
đơn sơ.
Giữa một thế giới trụy
lạc đam mê,
xin được sống hồn nhiên
thanh khiết.
Giữa một thế giới hận
thù, tuyệt vọng, dửng dưng,
xin được chia sẻ yêu
thương, an bình và hy vọng.
Lạy Chúa Giêsu mến
thương,
xin dạy chúng con biết
cách làm chứng cho Chúa giữa cuộc đời.
Xin giúp chúng con tìm ra
những cách mới để người ta tin và yêu Chúa.
Ước gì hơn hai tỉ người
Kitô hữu
vẫn giữ được vị mặn của
muối và sức biến đổi của men,
để chúng con làm cho thế
giới này mặn mà tình người,
và làm cho trần gian trở
thành tấm bánh thơm ngon.
Xin cho Thiên Chúa Cha
được tôn vinh
qua những việc tốt đẹp
chúng con làm cho những người bé nhỏ.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
14 THÁNG BẢY
Được Trao Ban Những
Ân Sủng Đặc Biệt
Được dựng nên theo
hình ảnh Thiên Chúa và giống như Ngài, con người là tạo vật hữu hình duy nhất
mà Đấng Tạo Hóa “nhắm đến vì chính nó” (MV 24). Thiên Chúa – Đấng cai quản thế
giới với sự khôn ngoan và quyền lực siêu việt của Ngài – trao cho con người mục
tiêu để đạt đến trong cuộc sống này. Nhưng con người cũng là một cứu cánh nơi tự
thân mình, không giống như các tạo vật khác. Con người cần đạt đến sự thành
toàn trong tư cách là một nhân vị được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và giống
như Ngài.
Được làm cho phong phú
với một ân huệ đặc biệt – và cũng là một trách nhiệm – con người có quan hệ mật
thiết với mầu nhiệm quan phòng thần linh. Chẳng hạn, chúng ta đọc thấy trong
Sách Huấn Ca: “Đức Chúa lấy đất mà tạo ra con người… Ngài mặc cho nó sức mạnh…
để chúng thống trị muông chim cầm thú. Ngài ban cho chúng trí khôn, lưỡi, mắt,
tai, và trái tim để chúng suy nghĩ. Ngài làm cho chúng đầy kiến thức thông
minh, tỏ cho chúng biết điều tốt điều xấu. Ngài đặt con mắt mình vào tâm hồn
chúng, để chúng nhận ra các công trình vĩ đại của Ngài… Ngài còn ban kiến thức
cho chúng, và cho thừa hưởng luật đem lại sự sống” (Hc 17,1.3.5-7.9).
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 14-7
Thánh Camillô
Lellis, linh mục
St 46, 1-7.28-30;
Mt 10, 16-23.
Lời suy niệm: “Này, Thầy
sai anh em đi như chiên đi giữa bầy sói. Vậy anh em phải khôn như rắn và đơn sơ
như bồ câu.”
Mỗi Kitô hữu cần phải
đặt niềm tin của mình vào sự quang phòng của Thiên Chúa. Nơi mình sinh sống và
gầy dựng tương lai là do Thiên Chúa đã an bài, để giúp chúng ta nên thánh và
làm chứng nhân tình thương yêu của Người với nhân loại và các tạo vật khác. Mỗi
người cần phải biết mình đang ở trong thế gian, đầy những cám dỗ cần phải đề
phòng và tránh xa những gì đang muốn nhận chìm chúng ta xuống bùn nhơ.
Lạy Chúa Giêsu. Xin
cho mỗi người trong chúng con luôn được ơn khôn ngoan và hiền lành của Chúa để
chúng con ngày càng được trở nên người con của Chúa ở giữa trần gian này.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 14-07: Thánh
CAMILLÔ LELLIS
Linh Mục - (1550 -
1614)
Thánh Camillô Lellis
là con của ông Gioan Laliis, một hiệp sĩ danh giá trong quân đội của
Chales-Quint. Mẹ Ngài thuộc vào một gia đình thời danh nhất ở Neples. Từ những
năm đầu thời hôn nhân, họ có được một người con, nhưng lại bị cất đi ngay, khi
đứa bé còn ở trong nôi. Lúc bà Lellis 60 tuổi, sau bao lời cầu hôn khẩn thiết,
bà đã sinh ra Camillô vào ngày 25 tháng 5 năm 1550. Khi đang mang thai, bà đã
thấy mộng con trẻ mang trên ngực một hình thánh giá, có vô số trẻ em theo sau.
Mộng thấy vậy, bà lo sợ rằng mình sẽ sinh hạ một người con làm đầu bọn cướp,
Camillô mới sinh ra ít lâu thì mồ côi mẹ. Chưa được 6 tuổi, Ngài lại mồ côi
cha. Do những tai họa này, việc giáo dục Camillô bi bỏ mặc.
Những buổi đầu đời của
con trẻ đã chứng thực điều lo sợ của người mẹ là đúng. Camillô biếng nhác và
phóng túng, lao mình vào cuộc chơi. Đến tuổi 19, Ngài theo đuổi binh nghiệp và
năm năm sau Ngài xuất ngũ.
Người thanh niên này
phung phí hết tài sản và lâm cảnh cùng quẫn, phải làm phụ hồ cho công trình xây
cất nhà cho các cha Phanxicô. Tại Fermô, Ngài gặp hai thầy dòng và mến phục nết
đạo đức khiêm tốn của hai vị. Tự đáy lòng, Camillô nguyện một ngày kia sẽ nhập
dòng. Bỏ binh nghiệp, Ngài đến nhà dòng Phanxicô ở Aquila. Một người cậu của
Camillô giữ cổng nhà dòng này. Camillô kể lại cho ông nghe tất cả những gì đã
qua và xin được mặc áo dòng. Cha giữ cửa biết rõ quá khứ đau lòng của cháu, muốn
thử thách ơn kêu gọi bất ngờ này đã từ khước trong một thời gian.
Camillô lại rơi vào
cơn rối loạn. Ngài trở nên bất hạnh đến nỗi phải đi ăn xin cùng với một người
lính cùng khốn khổ như Ngài. Ngày lễ thánh Anrê năm 1574, Ngài ăn xin ở cửa nhà
thờ Manfredonia. Một lãnh chúa đi qua. Ong thương tình đề nghị Camillô làm việc
cho nhà dòng. Camillô nhận lời, ngày kia trước lời khuyên nhủ của một cha dòng,
Ngài động lòng và bật tiếng khóc.
- Lạy Chúa, thật là khốn
cho con. Tại sao con biết Chúa trễ quá ? Sao con có thể giả điếc làm ngơ trước
bao nhiêu lời mời gọi của Chúa như vậy được. Xin Chúa tha thứ cho con là đứa tội
lỗi khốn nạn. Xin hãy cho con đủ thời gian đền bù tội lỗi của con.
Lúc đó Camillô 25 tuổi.
Ngài xin nhập dòng ngày hôm đó và được nhận vào tập viện. Nhưng một mụn nhọt ở
chân mở miệng, Ngài phải đi chữa trị. Lành bệnh Ngài trở lại dòng, nhưng mụn nhọt
lại mở miệng. Các bác sĩ cho rằng ung nhọt này vô phương chữa trị. Ngài được nhận
vào một bệnh viện nan y ở Roma. Nơi đây Camillô nhận ra ơn gọi của mình. Ngài
thấy các nhân viên được trả lương như vô tâm trước nỗi đau đớn của các bệnh
nhân. Ngài tận tụy phục vụ các bệh nhân ngày đêm. Ngài còn qui tụ các bạn thành
một để thực hành đức ái nữa. Trên ngực họ đeo một thánh giá đỏ. Công việc nặng
nề và các bạn Ngài thường tỏ ra lo lắng. Camillô nhắc cho họ lời của thánh Catarina
thành Siêna:
- Hãy lo cho ta và ta
sẽ lo lắng cho con.
Camillô được đặt cai
quản nhà thương, lệnh Ngài đưa ra là:
- Hãy phục vụ bệnh
nhân như phục vụ chính Chúa Giêsu vậy.
Để phục vụ hữu ích
hơn, Ngài đã theo lời khuyên của Đức Hồng Y Taragi để tiến tới chức linh mục.
Nhưng trở ngại quá lớn, vì học thức Ngài còn quá kém. Một thị kiến đã giúp Ngài
can đảm thắng vượt mọi khó khăn. Ngài thấy Chúa Kitô đưa tay ra nói:
- Camillô, con đừng sợ
chi, cha sẽ giúp đỡ con và ở cùng con.
32 tuổi, Ngài không mắc
cỡ khi ngồi với các em nhỏ để học vần Latinh. Sự kiên trì đã giúp người kinh viện
này vượt qua mọi khó khăn. Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống năm 1584, Camillô thụ
phong linh mục và dâng thánh lễ đầu tiên tại nhà thờ thánh Giacôbê. Vài tháng
sau, Ngài được trao phó cho cai quản nhà thờ Đức Bà hay làm phép lạ.
Tại đây, Ngài thiết lập
một tu hội. Anh em qui tụ quanh Ngài dấn thân phục vụ những người hấp hối ở bất
cứ nơi nào. Họ luôn trung thành với lời khuyên của Ngài: - Hãy hồi tâm để dâng
lên những lời kinh nguyện tắt và các bạn sẽ được nâng đỡ đặc biệt bên cạnh các
bệnh nhân. Chớ gì họ biết cầu xin ơn tha thứ, biết dâng cái chết của họ hợp với
sự chết của Chúa Giêsu Kitô và xin Người đón nhận linh hồn họ vào lòng nhân từ
Người.
Năm 1586, Đức giáo
hoàng Sixtô V chấp thuận chương trình của Ngài. Năm 1588, Ngài được gọi đến lập
tu viện ở Nappples. Nơi đây Ngài đã thực hiện những hành vi đức ái kỳ diệu đối
với các nạn nhân của một cơn dịch hạch.
Năm 1591, Đức giáo
hoàng Grêgôriô XV đã nâng tu hội của Ngài thành dòng tu, ngoài ba lời khấn còn
có lời khấn thứ tư là hiến thân phục vụ nhân loại đau khổ, dầu bởi bất cứ bệnh
tật nào. Dòng thánh Camillô phổ biến khắp nước Ý và còn phổ biến sang cả Pháp,
Tây Ban Nha.
Con người số tu sĩ và
nhà dòng ngày một nhiều. Tuy nhiên, lòng tin tưởng của Camillô vào Chúa quan
phòng thật vô bờ. Các chủ nợ lo âu hỏi Ngài: - Bao giờ cha mới trả hết nợ cho
chúng tôi ?
Ngài trả lời: - Đừng sợ
gì Thiên Chúa quyền năng không gởi cho chúng ta món tiền nào sáng mai sao ?
Các chủ nợ cười nói: -
Thời phép lạ đã qua rồi.
Nhưng rồi vài ngày
sau, Ngài được những túi tiền lớn đủ để trả nợ. Sự quan phòng cho thấy rằng các
phép lạ có mãi cho những ai phó thác cho Chúa.
Khi tuổi cao, Camillô
vẫn không giảm bớt những phục vụ bên cạnh các người đau khổ. Thấy vậy, các bệnh
nhân nói: - Cha nghỉ đi kẻo té ngã mất.
Nhưng các Ngài trả lời:
- Này các con, cha là nô lệ của các con, cha phải làm mọi sự có thể làm được để
phục vụ các con.
Đi từ giường này tới
giường khác, Ngài tự nhủ:
- Hạnh phúc tôi mong đợi
lớn lao đến nỗi mọi đau khổ đều thành niềm vui của tôi.
Kiệt sức vì công việc
và đau đớn, Camillô Lellis chỉ còn là một bộ xương. Khi thấy giờ chết tới gần,
Ngài vui sướng:
- Tôi vui mừng khi người
ta nói với tôi: nào ta đi về nhà Chúa.
Được đưa về phòng,
Ngài còn nói trong nước mắt: - Lạy Chúa, con biết con là một tội nhân ghê gớm.
Nhưng xin hãy cứu con nhờ lòng nhân lành Chúa.
Ngày 14 tháng 7 năm
1614 Camillô Lellis qua đời. Năm 1746, Đức giáo hoàng Bênêdictô đã suy tôn Ngài
lên bậc hiển thánh.
(daminhvn.net)
14 Tháng Bảy
Tự Do Ðích Thực
Trong tập thơ mang
tựa đề Gitanjali, thi hào Tagore đã có bài thơ về tù nhân như sau:
"Hỡi tù nhân,
hãy nói cho ta hay ai đã xiềng xích ngươi. Tù nhân đáp, thưa chính là chủ tôi.
Tôi đã muốn thắng vượt mọi người, bằng của cải và quyền lực, cho nên tôi đã vơ
vét vào kho tàng của tôi tất cả tiền bạc của chủ. Mệt mỏi vì cuộc chạy đua theo
tiền của tôi, cuối cùng tôi đã thiếp ngủ ngay trên chính giường của chủ tôi.
Khi thức dậy, tôi thấy mình đã bị giam hãm ngay trên kho tàng của tôi.
Hỡi tù nhân, hãy
nói cho ta hay ai đã rèn chiếc xích sắt này cho ngươi. Tù nhân đáp: tôi đã muốn
giam hãm tất cả thế giới, vì như thế tôi sẽ được tự do và không còn ai quấy rầy.
Ngày đêm, tôi đã dùng lửa, búa và chiếc dũa để rèn sợi xích này. Khi nó được
hoàn thành, và chiếc mốc cuối cùng được nối lại, tôi đã để cho sợi xích giam
hãm cả cuộc đời của tôi, khiến không có gì bẻ gãy được".
Năm 1989, nước Pháp đã
mừng kỷ niệm 200 năm cuộc cách mạng 1789. Cùng với việc lật đổ chế độ quân chủ,
bản tuyên ngôn nhân quyền được công bố ngày 04 tháng 8 năm 1789 đã đánh dấu một
bước dài của nhân loại tiến đến tự do, dân chủ.
Nhưng oái oăm thay,
người ta đã nhân danh tự do để chống lại tự do và phạm không biết bao nhiêu tội
ác đối với con người. Nhân danh tự do, Robespierre đã giết hại 25 ngàn người
cũng như cấm chế nhiều quyền tự do trong đó cơ bản nhất là quyền tự do tôn
giáo.
Lịch sử cũng đã được lập
lại trong rất nhiều cuộc cách mạng sau này. Mới đây tại Trung Quốc, người ta đã
nhân danh tự do dân chủ để đạp đổ Nữ Thần Tự Do và sát hại không biết bao nhiêu
người đòi tự do.
Nhân danh tự do để chối
bỏ tự do của người khác, nhân danh quyền con người để chà đạp quyền sống của
người khác: đó là thảm trạng của không biết bao nhiêu cuộc cách mạng trong thời
đại ngày nay. Chính khi con người chối bỏ tự do và chà đạp quyền sống của người
khác là cũng chính lúc con người tự giam hãm mình trong nô lệ, nô lệ cho quyền
lực, nô lệ cho tiền bạc, nô lệ cho bất an... Lắm khi con người tự rèn lấy cho
mình xích xiềng để tự chói lấy mình. Nhà tù ấy, sợi xích ấy chính là lòng tham
lam nơi con người: tham lam tiền của, tham lam quyền lực, tham lam danh vọng.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét