20/08/2017
Chúa Nhật 20 thường niên năm A.
(phần II)
Phụng vụ Lời
Chúa: Chúa Nhật 20 Thường niên, năm A
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN
A
Is 56,1.6-7; Rm 11,13-15.29-32; Mt 15,21-28
MỌI NGƯỜI TIN
ĐỀU ĐƯỢC THIÊN CHÚA ĐÓN NHẬN
ĐỀU ĐƯỢC THIÊN CHÚA ĐÓN NHẬN
“Nhà của Ta sẽ được gọi là
nhà cầu nguyện của muôn dân” (Is 56,7)
nhà cầu nguyện của muôn dân” (Is 56,7)
I. CÁC
BÀI ĐỌC
1. Bài đọc 1
Tác giả Isaia đệ tam (Is
56-66), vốn phản ánh khung cảnh của dân Chúa tại Giêrusalem thời hậu lưu đày, mở đầu bằng lời mời gọi quen thuộc dành cho dân Chúa, đồng thời cho thấy những tư tưởng tiến bộ về những người ngoại bang.
Trước hết, Isaia đệ tam mời gọi dân Chúa hãy “tuân giữ điều chính thực, thực hành điều công minh” (Is 56,1). Công minh chính trực là chuẩn mực mà Thiên Chúa đã truyền lại cho Abraham và cho con cháu ông phải tuân giữ, như là điều kiện để Người thực hiện lời hứa của Người (St 18,19). Chính Thiên Chúa là Đấng công minh chính trực (Tv 7,18; Đn 9,14), là Đấng yêu thích điều công minh chính trực (Tv 33,5), là Đấng ngự trên bệ ngai rồng là công minh chính trực (Tv 97,2), và là Đấng cai trị theo lẽ công minh chính trực (Dcr 8,8). Vì thế, ai sống công minh chính trực sẽ được thấy mặt Chúa (Tv 17,15) và “thực thi điều công minh chính trực thì đẹp lòng Đức Chúa hơn là dâng hy lễ” (Cn
21,3).
Có thể nói công minh chính trực là tiêu chuẩn mà dân Chúa phải ghi nhớ và thực hành. Có lẽ sau thời lưu đày, dân Chúa đã chịu ảnh hưởng ít nhiều của lối sống ngoại bang mà đi xa đường lối của Thiên Chúa. Vì thế, điều đầu tiên mà Isaia đệ tam kêu gọi dân Chúa sau thời lưu đày là trở về với điều cơ bản nhất, là sống công minh chính trực.
Sau nữa, Isaia đệ tam còn quan tâm đến những người ngoại bang vốn giờ đây sống gần bên dân Chúa. Họ không phải là những người bị ghét bỏ, hay bị loại trừ. Nếu họ biết gắn bó với Chúa để phụng sự Người và yêu mến Thánh Danh, cùng trở nên tôi tớ của Người, giữ ngày sabát cùng tuân thủ giao ước của Thiên Chúa, thì đều được Thiên Chúa dẫn lên núi thánh của Người (Is
56,6). Thiên Chúa sẽ cho họ được hoan hỷ, sẽ ưng nhận lễ tế của họ trên bàn thờ, “vì nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của muôn dân” (Is 56,7). Đây thật sự là tư tưởng rất tiến bộ của Isaia đệ tam nếu so với những đoạn nói về người nước ngoài một cách tiêu cực (Đnl 14,21;
15,3; 22,21; Ed 44,7-9).
Có hai điểm đáng lưu tâm ở đây. Thứ nhất, Thiên Chúa hai lần nhấn mạnh rằng nhà của Người, đền thờ Giêrusalem, là nhà cầu nguyện (Is 56,7). Đối với dân Israel, đền thờ là trung tâm sinh hoạt tôn giáo của họ, cách riêng là nơi họ đến để dâng lễ tế. Nhưng ở đây, sấm ngôn của Thiên Chúa nhắm đề cao một chiều kích quan trọng khác: đền thờ, nhà Thiên Chúa, là nơi được đặc biệt dành riêng cho việc cầu nguyện. Thứ hai, đền thờ, nhà Thiên Chúa, không chỉ là nơi cầu nguyện dành riêng cho dân Do Thái nữa, mà được mở rộng ra cho “muôn dân”, nghĩa là tất cả mọi dân tộc đều được mời gọi vào việc thờ phượng Thiên Chúa, cầu nguyện với Người tại nhà Thiên Chúa là đền thờ Giêrusalem.
2. Bài đọc 2
Thánh Phaolô ngỏ lời với những người gốc dân ngoại trong cộng đoàn tín hữu Rôma. Là vị tông đồ dân ngoại, thánh Phaolô nhiệt thành với sứ mạng được trao phó và ngài tự hào vì được trao trọng trách loan báo Tin Mừng cho những người dân ngoại. Thế nhưng sứ mạng đến với dân ngoại của thánh Phaolô cũng gặp không ít khó khăn, trắc trở, chống đối, mà phần nhiều trong số đó lại do chính đồng bào của ngài, những người Do Thái gây nên (Cv 18,6; 28,19).
Tuy nhiên, không vì thế mà thánh Phaolô tỏ ra căm ghét, thù hận những người đồng bào của mình. Trái lại, dù là tông đồ dân ngoại, thánh nhân vẫn mong mỏi “cứu được một số anh em đó”, những người Do Thái đồng bào của ngài (Rm
11,14). Thánh nhân coi việc các anh em đồng bào của mình được thâu nhận lại như là “từ cõi chết bước vào cõi sống” (Rm 11,15). Đối với thánh Phaolô, bất cứ ai, dù là Do Thái hay dân ngoại, ủng hộ hay chống đối ngài, đều nhận được sự quan tâm của ngài, với mong mỏi tất cả đều được cứu độ nhờ tin vào Đức Giêsu (Gl 2,16).
Thánh
Phaolô dùng cấu trúc song đối để diễn tả lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho cả dân ngoại lẫn dân Israel. Trước kia dân
ngoại đã từng không vâng phục, nhưng nay đã được lòng xót thương của Thiên Chúa; cũng vậy ngày nay dân
Israel có không vâng phục, thì
trong tương lai cũng
sẽ nhận được lòng thương xótcủa Thiên Chúa (Rm
11,30-31). Quả vậy, kinh nghiệm của các Kitô hữu gốc dân ngoại cho thấy rằng trước kia họ đã không tin (không vâng phục) vào Thiên Chúa, nhưng nay đã được Thiên Chúa thương xót mà ban ơn đức tin. Cũng vậy, nếu như ngày nay dân Israel
chưa tin (không vâng phục), thì sau này họ cũng vẫn xứng đáng nhận được lòng thương xót của Thiên Chúa là ân huệ đức tin. Vậy nên cả dân ngoại lẫn dân Israel, dù đã từng “ở trong tội không vâng phục” vì đã không tin vào Đức Kitô, thì đó lại là cơ may để Thiên Chúa bày tỏ lòng thương xót của Người là ơn đức tin, ơn ban không phải chỉ cho dân ngoại hay dân Israel mà thôi, mà là cho “mọi người” (Rm 11,32).
3. Bài Tin Mừng
Bài Tin Mừng mô tả cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu với người phụ nữ dân ngoại. Có vẻ như theo cái nhìn của Tin Mừng Mátthêu, đây là cuộc gặp gỡ không mong đợi của Chúa Giêsu và dường như Chúa Giêsu không hề được chuẩn bị, không hề có một đáp án sẵn cho người phụ nữ này. Tuy nhiên, khi bị thuyết phục bởi lòng tin mạnh mẽ của người phụ nữ dân ngoại, Chúa Giêsu đã thay đổi và ban cho người phụ nữ dân ngoại điều bà cầu xin.
Đứng trước lời cầu khẩn tha thiết của người phụ nữ dân ngoại, dù Chúa Giêsu “không đáp lại một lời” (Mt 15,23), nhưng việc người phụ nữ này biết tuyên xưng Chúa Giêsu là Con vua Đavít có thể là ngụ ý của thánh Mátthêu rằng người phụ nữ dân ngoại này không hẳn là người hoàn toàn ở ngoài. Sự im lặng của Chúa Giêsu ở đây không hẳn là một sự khước từ hoàn toàn, dứt khoát, khi mà người phụ nữ dân ngoại ít nhiều hiểu biết và nhìn nhận Đức Giêsu. Sự im lặng của Chúa Giêsu còn có thể là cơ hội để người phụ nữ tiến xa hơn, tuyên xưng mạnh mẽ hơn niềm tin của mình.
Phản ứng của các môn đệ xin Chúa Giêsu xua đuổi người phụ nữ khi bà “cứ theo sau chúng ta mà kêu
mãi”, cho thấy sự khó chịu của các ông khi bị người phụ nữ quấy rầy; không chỉ quấy rầy mà còn là quấy rầy dai dẳng. Và câu trả lời của Chúa Giêsu phản ánh quan niệm đương thời, ít ra là theo nhãn quan của Tin Mừng Mátthêu về sứ mạng của Đức Giêsu rằng Người chỉ được sai đến để rao giảng cho người Do Thái. Ngoài ra, thái độ xem ra đóng kín của Chúa Giêsu đối với người phụ nữ ngoại giáo lại là cơ hội cho bà thể hiện niềm tin vững mạnh của mình.
Dù như bị chối từ, người phụ nữ ngoại giáo tiếp tục tỏ ra kiên nhẫn và thành khẩn trong lời cầu xin của mình. Cử chỉ “bái lạy” và tiếp tục “xin cứu giúp” (Mt 15,25) cách nào đó cho thấy niềm tin sâu sắc của bà nơi quyền năng của Chúa Giêsu và tha thiết chờ mong sự thi ân giáng phúc của Người. Chính sự chân thành, tha thiết, và tin tưởng mạnh mẽ của người phụ nữ đã giúp bà kiên vững trước thử thách cuối cùng: “Không được lấy bánh dành cho con
cái mà ném cho lũ chó con” (Mt 15,26). Câu nói xem ra có vẻ xúc phạm của Chúa Giêsu là cách nói quen thuộc của người đương thời nhằm phân biệt con cái với người ngoài. Người phụ nữ không những không tức giận hay cảm thấy bị xúc phạm mà đáp lại cách đầy tin tưởng và khiêm tốn: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống” (Mt 15,27).
Đứng trước niềm tin kiên vững, chân thành và hết sức khiêm tốn của người phụ nữ, Chúa Giêsu không thể từ chối bà. Bà không xin bánh của con cái Israel, không xin một vị thế ngang bằng với con cái được Thiên Chúa tuyển chọn, bà chỉ xin “những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Nếu đọc đoạn Tin Mừng này trong bối cảnh của phép lạ Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều ở chương trước, với số bánh còn dư là mười hai thúng đầy (Mt
14,13-21) và một phép lạ hóa bánh khác ngay sau
đoạn Tin Mừng này, với số bánh dư là bảy thúng đầy (Mt 15,29-39), thì lòng tin mạnh mẽ thể hiện qua lời cầu xin tha thiết được “ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống” của người phụ nữ ngoại giáo ý nghĩa hơn biết chừng nào. Bà hoàn toàn xứng đáng nhận được lòng thương xót của Chúa Giêsu: “Bà muốn thế nào, sẽ được như vậy” (Mt 15,28).
II. GỢI Ý MỤC VỤ
1/ Sách ngôn sứ Isaia cho thấy rằng một đàng dân Thiên Chúa được mời gọi sống công minh chính trực, đàng khác cả người ngoại cũng được đón nhận vào nhà Chúa, nếu họ tin tưởng, phụng thờ và giữ các giới răn của Người. Tôi có thể hiện mình là dân Thiên Chúa qua cách sống công minh chính trực? Hay tôi là dân Thiên Chúa mà lại sống không bằng những người, dù bị coi là dân ngoại nhưng lại biết tin, thờ phượng và giữ giới răn của Thiên Chúa?
2/ Thánh Phaolô gặp không ít khó khăn với những người Do Thái đồng bào của ngài, nhưng thánh nhân không những không ghét bỏ mà con kiên nhẫn chờ đợi lòng thương xót của Chúa dành cho họ. Đối với thánh nhân, bất kỳ ai, dù là Do Thái hay dân ngoại, nếu biết bày tỏ niềm tin vào
Đức Giêsu Kitô đều được cứu độ. Tôi có biết khoan dung, độ lượng với những người chưa tin? Tôi có sẵn sàng giới thiệu đức tin của mình cho người khác thông qua đời sống của tôi? Tôi cần phải làm gì để Tin Mừng Đức Giêsu được giới thiệu cho những người sống quanh tôi chưa nghe biết về Người?
3/ Đức tin chân thành, kiên vững và khiêm tốn của người phụ nữ ngoại giáo trong bài Tin Mừng thật đáng khâm phục. Tôi học được gì khi chiêm ngắm đức tin mạnh mẽ của người phụ nữ ngoại giáo? Phải chăng đức tin của tôi còn nông cạn, hời hợt, bấp bênh trước bao nhiêu thử thách của cuộc sống thường nhật? Tôi cần phải làm gì để củng cố đức tin của tôi để có thể trợ giúp cho những người khác xung
quanh tôi?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Thiên Chúa là cha rất nhân từ và hay thương xót, Người sẽ ban muôn ơn lành cho tất cả những ai khiêm tốn kêu xin Người với lòng tin tưởng chân thành. Theo gương người phụ nữ xứ Canaan trong Tin mừng, cộng đoàn chúng ta hãy chạy đến với Chúa và tha thiết dâng lời cầu xin:
1. Sứ mạng của Hội thánh là trở nên dấu chỉ tình thương của Thiên Chúa cho con người. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi thành phần trong Hội thánh, cách riêng các vị chủ chăn, luôn nhạy bén trước nhu cầu của anh chị em chung quanh và sẵn sàng trở nên khí cụ phân phát ân huệ của Chúa cho mọi người.
2. Bạo lực và chiến tranh tại nhiều nơi trên thế giới là dấu hiệu gia tăng của sự dữ. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo quốc gia trên thế giới biết quan tâm đến lợi ích của người dân, luôn có những giải pháp phù
hợp nhằm đảm bảo an ninh, duy trì hòa bình và mưu cầu điều thiện hảo cho dân chúng.
3. Chăm sóc và giáo dục con cái là trách nhiệm hàng đầu của các phụ huynh. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các bậc làm cha mẹ Công giáo biết tin tưởng và phó thác con cái mình cho Thiên Chúa; đồng thời, luôn ý thức hướng dẫn các em đến gần Chúa bằng việc nêu gương sáng trong đời sống đức tin và thực thi bác ái.
4. Lòng tin mạnh mẽ chân thành của người phụ nữ Canaan đã được Chúa đoái thương. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn vững tin vào quyền năng và lòng thương xót Chúa, biết siêng năng chạy đến với Người qua các cử hành phụng vụ của cộng đoàn và giờ kinh tối trong
gia đình.
Chủ tế: Lạy Thiên Chúa toàn năng và hay thương xót, xin lắng nghe những ước nguyện chân thành của chúng con và rộng tay chúc phúc, để chúng con thêm vững tin và luôn can đảm làm chứng cho niềm tin vào Đức Kitô giữa thế giới hôm nay. Người hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.
THIÊN
CHÚA LÀ CHÚA CỦA MỌI NGƯỜI, YÊU THƯƠNG MỌI NGƯỜI
"Một người đàn bà Canaan kêu lên : Lạy Ngài là Con vua Đavít,
xin dủ lòng thương tôi"
(Mt 15,22)
Sợi
chỉ đỏ : Tất cả các bài đọc hôm nay, kể cả bài đọc
II (thường không trùng với chủ đề của bài đọc Cựu Ước và bài Tin Mừng) đều có
cùng một ý tưởng : Thiên Chúa muốn cứu độ hết mọi dân tộc.
- Bài
đọc I : Thiên Chúa ban ơn cứu độ chẳng những cho dân do thái biết giữ ngày
Sabbat, mà còn cho những người thuộc ngoại bang.
- Tin
Mừng : Đức Giêsu cứu chữa con gái một phụ nữ ngoại xứ Canaan.
- Bài
đọc II : Thánh Phaolô nói "Tôi là tông đồ dân ngoại"
I. DẪN
VÀO THÁNH LỄ
Anh
chị em thân mến
Trong
khi chúng ta đang tập họp nhau trong nhà thờ này để thờ phượng Chúa, thì có nhiều
người khác, tuy cũng là kitô hữu, không có mặt ; và còn biết bao anh chị
em người lương chưa biết Chúa.
Thiên
Chúa là Cha của hết mọi người, yêu thương hết mọi người và muốn ban ơn cứu độ
cho hết mọi người.
Trong
Thánh lễ này, chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các kitô hữu nguội lạnh trở về với
tình thương của Chúa, và cho anh chị em người lương có dịp cảm nếm tình thương
của Chúa.
II. GỢI
Ý SÁM HỐI
-
Chúng ta có thành kiến coi thường những người ngoài tôn giáo của chúng ta.
-
Chúng ta không quan tâm giới thiệu Chúa cho lương dân.
- Nhiều
khi cuộc sống của chúng ta còn thua kém người lương nữa.
III. LỜI
CHÚA
1. Bài đọc I (Is
56,1.6-7)
Phần
thứ ba của sách Isaia gồm các chương 56-66, được gọi là Đệ Tam Isaia. Phần này
được viết sau khi dân Israel thoát ách lưu đày Babylon, hồi hương về thánh địa.
Đoạn
được trích đọc hôm nay mở đầu phần này. Đại ý : Thiên Chúa đã đưa dân Ngài
hồi hương từ chốn lưu đày. Ngài muốn mở rộng dân này, để không chỉ có người
Israel mà có cả lương dân nữa, vì "nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc".
2. Đáp ca (Tv
66)
Đây
là một Thánh vịnh tạ ơn. Nhưng lời tạ ơn này đặc biệt do hai điểm :
- Tác
giả kêu mời các "dân ngoại" cùng hợp tiếng với mình mà tạ ơn
Chúa : "Chư dân hãy ca tụng Ngài"
- Tác
giả cầu xin Chúa tỏ mình ra cho mọi dân tộc trên địa cầu nhìn biết Ngài.
3. Tin
Mừng (Mt 15,21-28)
Câu
chuyện xảy ra ở miền Tyrô và Siđon, tức là ngoài lãnh thổ Palestina. Nên nhắc lại
là dân Israel nghĩ rằng Thiên Chúa là Chúa của riêng họ, Ngài không ban ơn cho
dân ngoại. Người phụ nữ trong chuyện là một người ngoại. Chắc bà cũng chia xẻ
quan niệm trên. Vì thế khi đến với Đức Giêsu, bà rất khiêm tốn, tự nhận mình là
"chó con" và chỉ dám xin ăn những vụn bánh thừa từ bàn ăn của con cái
trong nhà rớt xuống.
Nhưng
Đức Giêsu, sau khi làm ra vẻ lạnh nhạt để thử đức tin của bà, đã phải nhìn nhận
bà có đức tin rất mạnh. Và chính vì có đức tin cho nên bà được kể là con cháu của
Abraham và do đó đáng được Đức Giêsu ban ơn.
Qua
chuyện này, Đức Giêsu cho thấy : con cháu đích thực của Abraham -mà cũng
là dân Thiên Chúa đích thực – không phải là những người cùng huyết thống với
Abraham, nhưng là những người có đức tin như Abraham, kẻ được gọi là "Cha
của những người tin".
4. Bài đọc II (Rm
11,13-15.29-32)
Thánh
Phaolô nói với những tín hữu Rôma vốn trước kia là lương dân nay đã tin vào Đức
Kitô :
- Tôi
là tông đồ dân ngoại
- Do
việc đi rao giảng cho dân ngoại, nếu Phaolô có làm cho đồng bào do thái của ông
phải phân bì, thì ông cũng chấp nhận, miễn là dân ngoại cũng được cứu độ.
IV. GỢI
Ý GIẢNG
1. Tin và yêu
Vào
tháng 12 năm 1987 một cơn động đất lớn đã xảy ra ở xứ Armênia thuộc Liên Xô cũ
giết chết hằng ngàn người. Trong số những người bị chôn dưới đống gạch vụn có
hai mẹ con bà Suzanna. Hai mẹ con may mắn nằm lọt vào trong một khoảng trống nhỏ.
Tất cả lương thực họ có chỉ là một hủ mứt nhỏ. Nhưng chẳng bao lâu hũ mứt cũng
hết sạch. Lúc đó đứa con 4 tuổi kêu lên : "Mẹ ơi con khát quá".
Bà Suzanna không biết tìm đâu ra nước cho con. Nhưng tình mẫu tử đã gợi cho bà
một sáng kiến táo bạo : bà dùng một miếng kính vỡ cắt đầu ngón tay mình
cho máu chảy ra và đưa vào miệng đứa con cho nó mút. Một lúc sau nữa nó lại kêu
khát, bà lại cắt một đầu ngón tay nữa. Cứ như thế cho đến cuối cùng người ta cứu
hai mẹ con ra. Sau khi ra ngoài, bà mẹ cho biết rằng : "Lúc đó tôi biết
thế nào tôi cũng chết. Nhưng tôi muốn con tôi sống"
Bà mẹ
Canaan trong bài Tin Mừng hôm nay cũng giống Bà mẹ Armenia trong chuyện trên.
Vì thương đứa con gái bị quỷ ám, bà đã lặn lội đi tìm Đức Giêsu, nài nỉ van xin
Ngài, bị xua đuổi Bà vẫn kiên trì, bị Đức Giêsu nói nặng là "đồ chó",
Bà vẫn không nản.
Những
sự kiên trì và khiêm tốn ấy chẳng những chứng tỏ một tình yêu mãnh liệt mà còn
chứng tỏ một đức tin không gì lay chuyển nổi. Chính Đức Giêsu đã đánh giá sự
kiên trì của Bà là một bằng chứng đức tin : "Này Bà, Bà có lòng tin mạnh.
Bà muốn sao thì được như vậy".
Tin
và Yêu đi đôi với nhau ban cho người ta một sức mạnh vô địch giúp người ta can
đảm, kiên trì và khiêm tốn.
2. Đức tin của một người phụ nữ ngoại
Người
phụ nữ Canaan, tuy biết rằng những người do thái mà bà đang khẩn cầu này nhìn
bà cách kinh tởm, vẫn cứ nài nỉ dai dẳng. Các môn đệ, những người rất tôn trọng
truyền thống, gợi ý với Thầy mình : Xin Thầy làm phép lạ cho bà ấy đi, để
chúng ta được yên.
Đây
là cuộc gặp gỡ do Chúa Quan Phòng xếp đặt. Vì lòng kiên trì của người phụ nữ sẽ
thắng thái độ thinh lặng "theo luật" của Đức Giêsu. Nào Người sẽ giữ
thái độ khép kín trong bốn bức tường định kiến của dân tộc Người chăng ?
Nhưng vị tiên tri Nadarét đã phản ứng cách bất ngờ và gây sốc biết bao. Bằng chỉ
một lời, Đức Giêsu đã quét sạch mọi cấm kỵ, mọi luật lệ, mọi quy ước do những
con người nhỏ nhen tạo ra, và bắt đầu một cuộc đổi đời mà sẽ trở thành cuộc hiệp
thông giữa mọi người.
Đứng
trước nhóm biệt phái tức tối và nhóm môn đệ bàng hoàng, Đức Giêsu đã trân trọng
lời của một phụ nữ, trân trọng đức tin của một người ngoại đạo, thái độ chứng tỏ
cho mọi người thấy tâm hồn cao thượng và lòng tin tưởng sâu xa của bà. Bà nhận
được phép lạ như lòng mong ước, đồng thời nhận được tình bạn của vị tôn sư, điều
mà bà không dám nghĩ tới.
Giờ
đây, người "dơ" trở nên mẫu mực cho người "sạch". Người mà
đáng lẽ phải bị ruồng bỏ giờ đây được đón tiếp, người đáng lẽ bị nguyền rủa giờ
đây được chúc mừng. Người phụ nữ Canaan bị các môn đệ khinh bỉ, giờ đây được sư
phụ của họ tôn vinh. Người khách lạ trở nên người thân thuộc, và "con chó
nhỏ" được ngồi vào bàn ăn của Chúa, sát bên Người.
Chúng
ta cũng có những phụ nữ Canaan, những con chó nhỏ. Tinh thần Ghetto (pháo đài)
về giai cấp, địa vị luôn rình rập ta. Tính tự cao tự đại khiến ta nghi kỵ ra mặt,
khinh bỉ người khác không dấu diếm, hoặc kiêu căng nghĩ mình là trên hết. Nhưng
nhiều khi những "con chó nhỏ" giúp ta nhảy qua rào cản của bè phái để
mở ra đón nhận sự phong phú từ người khác, và mở ra đón nhận tình huynh đệ toàn
cầu. Đâu là những "người khách lạ" khi chúng ta tham dự tiệc Thánh Thể ?
(F. Declos, được trích dịch bởi Fiches dominicales, năm A, trang 262-263)
3. Còn hơn là truyền giáo
Giáo
huấn Chúa nhựt hôm nay có vẻ như mời gọi chúng ta truyền giáo, đem Tin Mừng của
Chúa đến những anh em lương dân.
Thực
ra nó còn hơn là truyền giáo nữa. Vì khi truyền giáo, chúng ta muốn dẫn người
khác vào đạo của chúng ta. Đối với những người nào mà ta thấy không có hy vọng
đem vào đạo thì chúng ta "dừng bước".
Giáo
huấn hôm nay không "dừng bước" trước bất cứ người nào, cho dù họ nhất
định không theo đạo Chúa, cho dù họ còn không cảm tình với đạo Chúa. Cho dù họ
thế nào đi nữa, ta vẫn xác tín rằng Chúa cũng thương yêu họ như thương yêu
chúng ta. Từ niềm xác tín ấy, chúng ta không loại trừ họ, không khinh bỉ họ,
không coi họ là "người khác hệ". Trái lại chúng ta tôn trọng :
tôn trọng suy nghĩ của họ, tôn trọng chọn lựa của họ. Chúng ta cũng yêu
thương : yêu thương họ như Chúa yêu thương họ.
4. Chuyện minh họa
a/ Tôn
giáo nào có Chúa ?
Ngày
nọ, Chúa và tôi đến một hội chợ, không phải hội chợ thương mại, mà là Hội chợ
Tôn giáo. Nhưng những người tham dự luôn tỏ ra hung bạo và tuyên truyền ầm ĩ.
Tại
quầy hàng của người Do thái, chúng tôi nhận được những tờ quảng cáo nói rằng
Chúa là Đấng thương xót và dân Do thái là dân được Ngài tuyển chọn. Ngoài những
người Do thái, không ai khác được chọn như họ.
Tại
quầy hàng của người Hồi giáo, chúng tôi học biết rằng Chúa đầy lòng khoan dung
và Mohammed là ngôn sứ duy nhất của Ngài. Sự cứu độ đến nhờ việc nghe ngôn sứ
duy nhất của Chúa.
Tại
quầy hàng của người Kitô giáo, chúng tôi khám phá ra Chúa là tình yêu và không
có sự cứu độ ở ngoài giáo hội. Hoặc gia nhập giáo hội hoặc phải chịu kết án đời
đời.
Trên
đường trở ra, tôi hỏi Chúa : "Ngài nghĩ gì về những điều nói về
Chúa ?"
Chúa
nói : "Ta không tổ chức Hội chợ đó. Ta thấy xấu hổ ngay cả khi đến
thăm nó".
b/
Các tôn giáo
Chúa
Giêsu nói rằng Ngài chưa bao giờ xem bóng đá. Vì thế, bạn tôi và tôi dẫn Ngài
đi xem một trận. Đó là trận đấu gay cấn giữa những người Tin lành và những người
Công giáo.
Người
Công giáo ghi bàn thắng trước. Chúa Giêsu reo hò và tung mũ lên. Rồi đến người
Tin lành ghi bàn thắng, Chúa Giêsu cũng reo hò và tung mũ. Điều này gây khó chịu
cho anh thanh niên ngồi sau chúng tôi. Anh vỗ nhẹ lên vai Chúa Giêsu và hỏi :
"Này anh bạn tốt, anh ủng hộ bên nào ?"
Lúc
này Chúa Giêsu thấy hứng thú vì trận đấu, Ngài trả lời : "Tôi hả ?
Ồ, Tôi không đứng về bên nào. Tôi chỉ thưởng thức trận đấu".
Anh
quay sang người bạn bên cạnh, nhếch mép cười : "Hừ, kẻ vô thần".
Trên
đường trở về, chúng tôi cho Chúa Giêsu biết về tình trạng các tôn giáo trên thế
giới ngày nay : "Chúa ạ, thật buồn cười về những người trong các tôn
giáo. Dường như họ luôn nghĩ rằng Chúa chỉ đứng về phía họ và chống lại những
người khác".
Chúa
Giêsu đồng ý : "Đó là lý do tại sao Ta không ủng hộ các tôn giáo. Ta ủng
hộ con người. Con người quan trọng hơn tôn giáo. Con người quan trọng hơn ngày
Sabát".
Một
trong chúng tôi nói với vẻ lo lắng : "Ngài phải thận trọng. Ngài biết,
Ngài đã một lần bị đóng đinh vì nói như thế".
5. Một lời cầu nguyện của dân Ai-len
Chúa
tốt lành với bạn trong suốt mọi ngày
Chúa nhân
ái với bạn trên mọi nẻo đường
Chúa
ban sức mạnh cho bạn lúc thánh giá đè nặng trên vai.
Chúa
gửi ánh sáng cho bạn lúc mây mù vây phủ
Chúa
ban bình an trong những cơn xung đột
Chúa
chúc phúc cho đời bạn chan chứa ơn lành
Chúa
gửi niềm vui trong những lúc ưu phiền
Chúa
dẫn đường bạn đến tận cửa Thiên đàng (Brian O' Higgins)
V. LỜI
NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
CT :
Anh chị em thân mến
Thiên
Chúa là Chúa của mọi người, mọi dân tộc. Ngài yêu thương tất cả và muốn cứu độ
tất cả. Chúng ta cùng dâng lời cầu xin Chúa.
1- Hội
Thánh là ánh sáng của muôn dân, Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa giúp Hội Thánh
biết cách giới thiệu hình ảnh Thiên Chúa yêu thương cho tất cả mọi người trong
thế giới hôm nay.
2-
Trên thế giới, có nhiều nơi đang xảy ra chiến tranh, nhiều nơi nghèo túng khốn
khổ. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các nhà lãnh đạo những nơi ấy tìm ra những
biện pháp hữu hiệu để tái lập hòa bình và giúp dân mình được no cơm ấm áo.
3- Đất
nước chúng ta có nhiều tôn giáo và nhiều người không tôn giáo nào cả. Chúng ta
hiệp lời cầu xin cho mọi người đối xử với nhau trong tinh thần tôn trọng và yêu
thương.
4- Do
thành kiến đạo mình là tốt nhất, nhiều kitô hữu có thái độ khinh miệt những người
khác không cùng tín ngưỡng, khiến cho hình ảnh của Thiên Chúa và của Giáo Hội
trở thành méo mó xấu xa trước mặt người khác. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng
đoàn giáo xứ chúng ta sống hòa thuận, tôn trọng và tương thân tương ái với hết
mọi người trong phạm vi giáo xứ của mình.
CT :
Lạy Thiên Chúa là Cha hết mọi người, Đấng cho mặt trời chiếu sáng trên kẻ lành
người dữ, cho mặt trời mọc lên trên tất cả mọi người. Xin ban cho chúng con tấm
lòng quảng đại bao la của Chúa, để chúng con có thể tôn trọng và yêu thương hết
mọi người như Chúa đã yêu thương. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô Chúa chúng
con. Amen.
VI. TRONG
THÁNH LỄ
- Kinh
Tiền Tụng : Nên đọc Kinh Tiền tụng Chúa nhật thường niên III, nói tới ơn cứu
độ cho toàn thể nhân loại.
- Trước
kinh Lạy Cha : Trong lời kinh Lạy Cha hôm nay, chúng ta đặc biệt cầu xin
cho "Nước Cha trị đến" nơi tâm hồn tất cả mọi người và mọi dân tộc
trên khắp thế giới.
VII. GIẢI
TÁN
Tuần
này, khi gặp gỡ những người khác tôn giáo, những người chưa biết Chúa, chúng ta
hãy đối xử tôn trọng và yêu thương họ như Chúa yêu thương.
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio Divina: Chúa Nhật XX Thường Niên (A)
Chúa Nhật, 20 Tháng 8, 2017
1. Lời nguyện mở đầu
Lạy
Chúa Giêsu, xin hãy sai Thần Khí Chúa đến giúp chúng con đọc Kinh Thánh với
cùng tâm tình mà Chúa đã đọc cho các môn đệ trên đường Emmau. Trong ánh sáng của Lời Chúa, được viết trong
Kinh Thánh, Chúa đã giúp các môn đệ khám phá ra được sự hiện diện của Thiên
Chúa trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết của mình. Vì thế, cây thập giá tưởng như là sự kết thúc
của mọi niềm hy vọng, đã trở nên nguồn mạch của sự sống và sự sống lại.
Xin
hãy tạo trong chúng con sự thinh lặng để chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa
trong sự Tạo Dựng và trong Kinh Thánh, trong các sự việc của đời sống hằng ngày
và trong những người chung quanh, nhất là những người nghèo khó và đau khổ. Nguyện xin Lời Chúa hướng dẫn chúng con, để
giống như hai môn đệ từ Emmau, chúng con cũng sẽ được hưởng sức mạnh sự phục
sinh của Chúa và làm chứng cho những người khác rằng Chúa đang sống hiện hữu giữa
chúng con như nguồn mạch của tình anh em, công lý và hòa bình. Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con của
Đức Maria, Đấng đã mặc khải cho chúng con về Chúa Cha và đã sai Chúa Thánh Thần
đến với chúng con. Amen.
2. Bài Đọc
a) Chìa khóa dẫn đến bài đọc:
Trong
bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu gặp một người đàn bà dân ngoại, một việc cấm kỵ
vì lý do tôn giáo vào thời bấy giờ. Thoạt
đầu, Chúa Giêsu không để ý đến người phụ nữ này, nhưng bà ta quyết chí và đã toại
nguyện. Bài Tin Mừng này sẽ giúp chúng
ta hiểu được làm thế nào Chúa Giêsu đã biết và đưa ý muốn của Thiên Chúa vào sự
thực hành.
b) Phân đoạn bài Tin Mừng để trợ giúp cho bài đọc:
Mt
15:21-22: Tiếng kêu cứu của người đàn bà
Mt
15:23-24: Sự im lặng kỳ lạ của Chúa
Giêsu và phản ứng của các môn đệ
Mt
15:25-26: Lời cầu khẩn lặp lại của người
đàn bà và sự từ chối lần nữa của Chúa Giêsu
Mt
15:27-28: Cố gắng lần thứ ba của người
đàn bà cầu xin chữa lành cho con gái của mình.
c) Phúc Âm:
21-22: Ra khỏi đó, Chúa Giêsu lui về miền Tyrô và
Siđôn, thì liền có một người bà quê ở Canaan, ở miền ấy đi ra, kêu lên cùng Người
rằng: “Lạy Ngài là con vua Đavít, xin dủ
lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ
ám khổ sở lắm!
23-24: Nhưng Người không đáp lại một lời nào. Các môn đệ đến gần Người mà xin rằng: “Xin Thầy thương để bà ấy về đi, vì bà cứ
theo chúng ta mà kêu mãi.” Người
đáp: “Thầy chỉ được sai đến với những
con chiên lạc của nhà Israel mà thôi.”
25-26: Bà ấy đến bái lạy mà thưa Người rằng: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!” Người đáp:
“Không nên lấy bánh dành cho con cái mà vứt cho chó.”
27-28: Bà ấy đáp lại: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con
cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn chủ rơi xuống.” Bấy giờ Chúa Giêsu đáp: “Này bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.” Từ giờ đó, con gái bà được khỏi.
3. Giây phút thinh lặng cầu nguyện:
Để Lời
Chúa được thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.
4. Một vài câu hỏi gợi ý:
Để
giúp chúng ta trong việc suy gẫm cá nhân.
a) Điều gì trong đoạn Tin Mừng tạo sự chú ý cho
tôi nhất và phần nào tôi thích nhất?
b) Bốn nhân vật xuất hiện trong đoạn Tin Mừng: người đàn bà, đứa con gái của người đàn bà,
các môn đệ và Chúa Giêsu. Tin Mừng nói
gì về thái độ của mỗi người? Bạn nhận thấy thái độ của bạn giống nhân vật nào
nhất? Tại sao?
c) Chúa Giêsu nói rằng sứ vụ của Người không cho
phép Người lắng nghe lời cầu khẩn của người đàn bà. Nhưng ngay sau đó Người ban cho bà lời cầu
xin ấy. Bạn giải thích về sự thay đổi
thái độ cách đột ngột của Chúa Giêsu như thế nào?
d) Làm thế nào mà câu đối đáp của người đàn bà
liên quan đến những con chó và các mảnh bánh vụn đã ảnh hưởng đến Chúa Giêsu?
e) Tại sao những lời ấy tỏ lộ một đức tin mạnh mẽ
của người đàn bà?
f) Những lời của Chúa Giêsu có thể giúp cho cộng
đoàn chúng ta phát triển trong đức tin như thế nào?
5. Chìa khóa của bài đọc
Dành
cho những ai muốn đào sâu vào trong bài Tin Mừng.
a) Bối cảnh Tin Mừng Mátthêu trong đó đã gìn giữ
bảo tồn Lời của Chúa Giêsu:
* Tin Mừng Mátthêu, được viết vào khoảng năm 85
sau công nguyên, được viết cho cộng đoàn Do Thái đạo đức và tuân giữ lề luật,
đã cải đạo để tin vào Chúa Giêsu. Noi
gương Đức Giêsu, họ tiếp tục sống theo truyền thống người Do Thái, tuân giữ lề
luật Môisen một cách tuyệt đối. Nhưng giờ
đây, vào những năm 80, họ thấy mình bị rơi vào trong một tình huống mâu thuẫn. Sau sự tàn phá của thành Giêrusalem (năm 70),
những người Biệt Phái, các anh em cùng chủng tộc của họ, đã bắt đầu tái tổ chức
Do Thái giáo, và nhân danh lòng trung thành với Luật Môisen, đã tìm cách ngăn cản
sự lan truyền của Kitô giáo càng ngày càng tăng. Họ đã tới mức trục xuất những Kitô hữu ra khỏi
các hội đường. Sự thù nghịch không lường
trước này đã đưa cộng đoàn Kitô hữu Do Thái vào cuộc khủng hoảng sâu xa. Cả người Biệt Phái và Kitô hữu đều tuyên bố
trung thành với lề luật của Thiên Chúa.
Ai là người nói đúng? Thiên Chúa
đứng về phe nào đây? Các di sản của dân
tộc Do Thái thuộc sẽ về ai, thuộc về Hội Đường hay thuộc về Giáo Hội?
* Một cách chính xác để khuyến khích và hỗ trợ
nhóm Kitô hữu Do Thái này, Mátthêu đã viết nên quyển Tin Mừng của ông. Ông viết để xác nhận với họ trong đức tin rằng
Chúa Giêsu đích thực là Đấng Cứu Thế, Người là tột điểm của toàn bộ lịch sử Cựu
Ước. Ông viết để gia tăng sức mạnh cho họ
khi họ ở giữa chốn thù địch, giúp họ vượt qua được những tổn thương của sự chia
lìa với anh em. Ông viết để gọi họ về với
một thói quen mới của đời sống, cho họ thấy con đường dẫn đến hình thức công lý
mới, tốt hơn so với của những người Biệt Phái.
* Trong bối cảnh này, người đàn bà Canaan đã
cho cộng đoàn thấy làm cách nào mà cùng một Đức Giêsu đã bước những bước cụ thể
vượt qua các giới hạn của một tôn giáo áp đặt lên chính nó và làm cách nào mà
Người đã vượt qua nguyên tắc truyền thống để nhận thức rõ ý muốn của Thiên
Chúa.
b) Lời bình giải về Lời của Chúa Giêsu được gìn
giữ trong Tin Mừng Mátthêu:
Mt
15:21: Chúa Giêsu lui khỏi vùng đất người
Do Thái
Trong
cuộc thảo luận liên quan đến những gì là thanh khiết và những gì không, Chúa
Giêsu đã giảng dạy những điều ngược lại với truyền thống của tiền nhân, tuyên bố
tất cả các thức ăn phải được tẩy sạch, đã giúp dân chúng và các môn đệ thoát khỏi
các ràng buộc của lề luật thanh tẩy (Mt 15:1-20). Giờ đây, trong câu chuyện người đàn bà xứ
Canaan này, Chúa Giêsu lui khỏi xứ Galilêa, đi vượt ra ngoài biên giới lãnh thổ
quốc gia và chào đón một người phụ nữ ngoại quốc không thuộc cùng chủng tộc và
bị cấm tiếp chuyện. Tin Mừng của Máccô
nói cho chúng ta biết rằng Chúa Giêsu đã không muốn được biết đến. Người muốn giữ kín danh tánh. Nhưng điều hiển nhiên là danh tiếng của Chúa
đã lan truyền khắp vùng (Mc 7:24). Dân
chúng đã biết về Người và một người phụ nữ bắt đầu đến kêu cầu cùng Người.
Mt
15:22: Lời kêu cầu của người đàn bà
Người
đàn bà khác chủng tộc và tôn giáo. Bà bắt
đầu cầu xin cho con gái mình đã bị quỷ ám được chữa lành. Những người dân ngoại không có vấn đề khi phải
chạy đến cậy nhờ vào Chúa Giêsu. Tuy
nhiên, người Do Thái có vấn đề cùng hiện hữu với dân ngoại! Lề luật cấm họ liên lạc với một người khác
tôn giáo hoặc khác chủng tộc.
Mt 15:23-24: Sự yên lặng kỳ lạ của Chúa Giêsu và phản ứng
của các môn đệ
Người
đàn bà kêu lớn tiếng, nhưng Đức Giêsu không đáp lại lời nào. Một thái độ lạ lùng! Bởi vì nếu có một điều chắc chắn trong suốt
toàn bộ Kinh Thánh, từ đầu đến cuối, thì điều đó là Thiên Chúa luôn lắng nghe
tiếng kêu cầu của kẻ bị áp bức. Nhưng ở
đây Chúa Giêsu đã không lắng nghe. Người
không muốn lắng nghe. Tại sao? Ngay cả các môn đệ cũng ngạc nhiên bởi thái độ
của Chúa Giêsu và xin Người nói điều gì đó với người đàn bà ấy. Các ông muốn thoát khỏi tiếng kêu la nên đến
gần Người mà xin rằng: “Xin Thầy thương
để bà ấy về đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi”. Chúa Giêsu giải thích sự im lặng của
mình: “Thầy chỉ được sai đến cùng chiên
lạc nhà Israel.” Sự im lặng của Người được
kết nối với nhận thức về sứ vụ của Người và lòng trung thành của Người với lề
luật của Thiên Chúa. Hình thức thụ động
cho thấy là đối tượng của việc chủ động là Chúa Cha. Như thể Người đã nói: “Chúa Cha không muốn Thầy nghe lời cầu xin của
người đàn bà này, bởi vì Người đã sai Thầy chỉ đến cùng chiên lạc nhà Israel mà
thôi!” Cùng một lý do, vào thời điểm
Mátthêu viết quyển Tin Mừng, những người Biệt Phái đã nói rằng: “Chúng ta không thể tiếp xúc với dân ngoại!”
Mt
15:25-26: Người đàn bà lặp lại lời cầu
xin và Chúa Giêsu lại từ chối bà ta.
Người
đàn bà không nao núng trước lời từ chối của Chúa Giêsu. Tình yêu của người mẹ dành cho đứa con gái
đau ốm không nề hà các quy tắc tôn giáo hay là phản ứng của người khác, nhưng
tìm kiếm sự chữa trị bất cứ nơi nào mà linh tính của bà dẫn bà đến, đó là, nơi
Chúa Giêsu! Bà ta chạy đến gần hơn, phủ
phục dưới chân Chúa Giêsu và tiếp tục van xin:
“Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi”.
Trung thành với các quy tắc của tôn giáo, Chúa Giêsu trả lời với một dụ
ngôn và nói rằng không nên lấy bánh của cho con cái mà ném cho chó. Sự so sánh được lấy từ cuộc sống hằng
ngày. Ngay cả ngày nay, chúng ta thấy
nhiều trẻ em và chó con trong những nhà của người nghèo. Chúa Giêsu nói rằng không có người mẹ nào lấy
bánh từ miệng con cái mình mà ném cho chó.
Một cách cụ thể, con cái là nhà Israel và chó con là dân ngoại. Hết chuyện!
Vâng lời Chúa Cha và trung tín với sứ vụ của Người, Chúa Giêsu đi trên
con đường của mình mà không đoái hoài đến lời cầu xin của người phụ nữ!
Mt 15:27-28: Cầu xin lần thứ ba, người đàn bà nhận được sự
chữa lành cho con gái bà
Người
đàn bà không chịu thua. Bà ấy đồng ý với
Chúa Giêsu, nhưng bà tán rộng sự so sánh và áp dụng vào trong trường hợp của
mình: “Vâng, lạy Ngài, nhưng chó con
cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống. Bà ấy chỉ đơn giản rút ra kết luận từ hình ảnh
đó, cho thấy rằng trong nhà của người nghèo (và ở trong nhà của Chúa Giêsu cũng
thế) chó con được ăn những mảnh bánh vụn rơi từ bàn những đứa trẻ. Hơn nữa, khi chính Chúa Giêsu còn là một cậu
bé cũng có thể đã thảy những vụn bánh cho những con chó đang lẩn quẩn dưới gầm
bàn nơi Người ngồi ăn với cha mẹ Người.
Và trong “nhà của Chúa Giêsu”, đó là, cộng đoàn Kitô hữu của thời ông
Mátthêu, vào cuối thế kỷ thứ nhất, đã có “mười hai giỏ đầy” các mảnh vụn (Mt
14:20) cho các “con chó”, đó là, cho những dân ngoại!
Chúa
Giêsu lập tức phản ứng: “Này bà, bà có
lòng mạnh tin!” Người đàn bà đã đạt được
những gì bà xin. Ngay lúc đó con gái bà
đã được lành. Lý do mà Chúa Giêsu đã đáp
ứng là Người đã hiểu rằng Chúa Cha đã muốn Người đáp lại lời cầu xin của người
đàn bà. Cuộc gặp gỡ với người đàn bà
Canaan đã giải thoát Người khỏi nhà tù chủng tộc và mở ra cho Người đến với
toàn thể nhân loại. Điều này có nghĩa là
Chúa Giêsu đã khám phá ra ý muốn của Chúa Cha bằng cách lắng nghe những phản ứng
của dân chúng. Thái độ của người đàn bà
dân ngoại này đã mở ra chân trời mới cho Chúa Giêsu và đã giúp Người có một bước
tiến quan trọng trong việc hoàn thành kế hoạch của Chúa Cha. Ân sủng của đời sống và ơn cứu độ được dành
cho tất cả những ai tìm kiếm sự sống và cố gắng giải thoát chính họ khỏi những
liên hệ gò bó năng lượng sự sống. Cảnh
này giúp chúng ta nhận biết được chút ít về mầu nhiệm bao quanh con người của
Chúa Giêsu, cách thức trong đó Người đã được hiệp thông với Chúa Cha và làm thế
nào Người khám phá ra ý muốn của Chúa Cha trong các sự kiện của đời sống.
6. Thánh Vịnh 6
Chúng
ta hãy hiệp nhất cho tiếng kêu cầu của các bà mẹ cho các con của họ
Lạy
CHÚA, xin đừng trách mắng con khi thịnh nộ,
đừng
sửa trị con lúc nổi lôi đình.
Lạy
CHÚA, xin đoái thương, này con đang kiệt sức,
chữa
lành cho, vì gân cốt rã rời.
Toàn
thân con rã rời quá đỗi,
mà lạy
CHÚA, Chúa còn trì hoãn đến bao giờ?
Lạy
CHÚA, xin trở lại mà giải thoát con,
cứu độ
con, bởi vì Ngài nhân hậu.
Chốn
tử vong, ai nào nhớ Chúa,
nơi
âm phủ, ai ngợi khen Ngài?
Rên
siết đã nhiều, nên con mệt mỏi,
trên
giường ngủ, những thổn thức năm canh,
từng
giọt vắn dài, lệ tuôn đẫm gối,
mắt
hoen mờ vì quá khổ đau,
thêm
suy nhược bởi quân thù vây hãm.
Đi
cho khuất, hỡi bọn làm điều ác,
vì
CHÚA đã nghe tiếng nức nở ta rồi,
CHÚA
đã nghe tiếng ta cầu khẩn,
CHÚA đón nhận lời ta nguyện xin.
Ước gì hết mọi kẻ thù tôi
phải nhục nhã, rụng rời kinh khiếp,
vội tháo lui, nhục nhã ê chề.
7.
Lời Nguyện Kết
Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ
Chúa về Lời Chúa đã giúp chúng con hiểu rõ hơn ý muốn của Chúa Cha. Nguyện xin Thần Khí Chúa soi sáng các việc
làm của chúng con và ban cho chúng con sức mạnh để thực hành Lời Chúa đã mặc khải
cho chúng con. Nguyện xin cho chúng con,
được trở nên giống như Đức Maria, thân mẫu Chúa, không những chỉ lắng nghe mà
còn thực hành Lời Chúa. Chúa là Đấng hằng
sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến
muôn thuở muôn đời. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét