Trang

Thứ Bảy, 26 tháng 8, 2017

27-08-2017 : (phần I) CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN năm A

27/08/2017
Chúa Nhật 21 thường niên năm A
(phần I)

Bài Ðọc I: Is 22, 19-23
"Ta sẽ để chìa khoá nhà Ðavít trên vai nó".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Ðây Chúa phán cùng Sobna, quan cai đền thờ rằng: "Ta sẽ trục xuất ngươi ra khỏi địa vị ngươi, và Ta sẽ cách chức ngươi; trong ngày đó, Ta sẽ gọi đầy tớ Ta là Êliaqim, con trai Helcia. Ta sẽ lấy áo choàng của ngươi mà mặc cho nó, lấy đai lưng của ngươi mà thắt cho nó, sẽ trao quyền ngươi vào tay nó, nó sẽ nên như cha các người cư ngụ ở Giêrusalem và nhà Giuđa. Ta sẽ để chìa khoá nhà Ðavít trên vai nó: nó sẽ mở cửa và không ai đóng lại được; nó đóng cửa lại và không ai mở ra được. Ta sẽ đóng nó vào nơi kiên cố như đóng đinh, và nó sẽ trở nên ngai vinh quang nhà cha nó".
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 137, 1-2a. 2bc-3. 6 và 8bc
Ðáp: Lạy Chúa, lòng nhân hậu Chúa tồn tại muôn đời, xin đừng bỏ rơi công cuộc tay Chúa (8).
Xướng: 1) Lạy Chúa, con sẽ ca tụng Chúa hết lòng, vì Chúa đã nghe lời miệng con xin; trước mặt các thiên thần, con đàn ca mừng Chúa; con sấp mình thờ lạy bên thánh điện Ngài. - Ðáp.
2) Và con sẽ ca tụng uy danh Chúa, vì lòng nhân hậu và trung thành của Chúa. Khi con kêu cầu, Chúa đã nhậm lời con, Chúa đã ban cho tâm hồn con nhiều sức mạnh. - Ðáp.
3) Quả thực Chúa cao cả và thường nhìn kẻ khiêm cung, còn người kiêu ngạo thì Ngài ngó tự đàng xa. Lạy Chúa, lòng nhân hậu Chúa tồn tại muôn đời; xin đừng bỏ rơi công cuộc tay Chúa. - Ðáp.

Bài Ðọc II: Rm 11, 33-36
"Mọi sự đều do Người, nhờ Người và trong Người".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Ôi thẳm sâu thay sự giàu có, thượng trí và thông biết của Thiên Chúa: sự phán quyết của Người làm sao hiểu được, và đường lối của Người làm sao dò được! Vì chưng, nào ai biết được ý Chúa? Hoặc ai đã làm cố vấn cho Người? Hay ai đã cho Người trước để Người sẽ trả lại sau? Vì mọi sự đều do Người, nhờ Người và trong Người: nguyện Người được vinh quang đến muôn đời. Amen.
Ðó là lời Chúa.

Alleluia: Ga 14, 5
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống: không ai đến được với Cha mà không qua Thầy". - Alleluia.

Phúc Âm: Mt 16, 13-20
"Con là Ðá, Thầy sẽ ban cho con chìa khoá nước trời".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt thành Xêsarêa Philipphê, và hỏi các môn đệ rằng: "Người ta bảo Con Người là ai?" Các ông thưa: "Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó". Chúa Giêsu nói với các ông: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?" Simon Phêrô thưa rằng: "Thầy là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống". Chúa Giêsu trả lời rằng: "Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời. Vậy Thầy bảo cho con biết: Con là Ðá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được. Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước trời: sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở". Bấy giờ Người truyền cho các môn đệ đừng nói với ai rằng Người là Ðức Kitô.
Kể từ đó, Chúa Giêsu bắt đầu tỏ cho các môn đệ thấy: Người sẽ phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ bởi các kỳ lão, luật sĩ và thượng tế, phải bị giết, và ngày thứ ba thì sống lại. Phêrô kéo Người lại mà can gián Người rằng: "Lạy Thầy, xin Chúa giúp Thầy khỏi điều đó. Thầy chẳng phải như vậy đâu". Nhưng Người quay lại bảo Phêrô rằng: "Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy, con làm cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người".
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Mầu Nhiệm Hội Thánh

Bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta đã được nghe đọc trong ngày lễ hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô. Nó có hai phần rõ rệt: những câu đầu tuyên xưng Ðức Yêsu là Kitô; còn những câu sau tuyên bố Phêrô được đặt làm nền tảng xây lên Hội Thánh. Hai phần có thể tách rời nhau, vì quả thật Marcô và Luca đã không đính phần sau vào phần trước. Nhưng Matthêô đã có ý gom hai phần lại để nhấn mạnh sự liên hệ giữa việc Phêrô tuyên xưng đức tin và việc ông được chọn để xây lên Hội Thánh, cũng như giữa Ðức Kitô và con người được chọn để thay quyền Người dưới đất. Chúng ta hôm nay còn đọc lại cả bài Tin Mừng này cùng với hai bài đọc trên để hiểu rõ Hội Thánh và cảm tạ Thiên Chúa về Hội Thánh nhiều hơn.

A. Hội Thánh Là Mầu Nhiệm Ðã Ðược Tiền Ðịnh Từ Ðời Ðời
Bài sách Isaia đã thuật lại một câu truyện trong lịch sử Dân Chúa. Nhưng đó lại là câu truyện có tính cách tiên tri, loan báo kế hoạch mầu nhiệm của Thiên Chúa. Và vì thế rất có hệ đến chúng ta.
Vua Israel bấy giờ dùng một vị đại thần hầu như là Nhiếp chính, mặc dầu cấp bậc chính thức chỉ là giám hộ hay chủ hộ. Mọi việc trong triều đều do ông ta định đoạt. Nhưng ông lại là kẻ thuộc hạng "mới làm ăn lên", tài cán không biết thế nào, nhưng chắc chắn rất tham lam và ích kỷ. Chúa sai Isaia đến nói cho ông biết, Người sẽ truất phế và cất chức ông. Và sau đó, Người sẽ đặt Êlyaqim lên thế vị.
Ðiều đáng để ý trong câu truyện này là những lời sấm về Êlyaqim. Ðó là những lời tiên tri rất long trọng, kể ngay từ những chữ đầu tiên. Chúa phán: "Ngày ấy, Ta sẽ gọi tôi tớ Ta là Êlyaqim". Vì hễ lần nào muốn tuyên sấm về một biến cố trọng đại trong tương lai, Người cũng bắt đầu bằng hai chữ: "Ngày ấy". Nên những gì sẽ xảy ra trong ngày ấy cũng đều có ý nghĩa tiên tri, tức là nằm trong kế hoạch cứu chuộc mầu nhiệm của Chúa. Ở đây Chúa lại còn gọi Êlyaqim là tôi tớ, danh xưng mà Người chỉ dành cho những kẻ được chọn một cách đặc biệt như Abraham, Môsê và Ðavít, trước khi áp dụng một cách tuyệt đối và vĩnh viễn cho Ðấng Cứu Thế.
Chúng ta thật phải lấy làm lạ vì thấy Chúa săn sóc đến Êlyaqim một cách khác thường. Chính tay Người sẽ mặc áo dài cho ông, thắt lưng cho ông và đặt quyền bính vào tay ông. Chúa ban áo dài cho ai là muốn người đó được lãnh chức tư tế; và khi Người thắt lưng cho họ là muốn cho quyền bính của người đó được chặt chẽ và vững vàng. Người còn đặt chìa khóa nhà Ðavít trên vai Êlyaqim. Cử chỉ này chúng ta chỉ hiểu được khi nhớ tới thời phong kiến và xa xưa hơn nữa. Mọi thị trấn và thành phố đều có tường thành kiên cố vây quanh và các cửa ra vào đều hết sức quan trọng. Các cánh cửa thành do đó đều chắc chắn, nặng nề và khóa bằng các then gỗ lớn, không thể cầm bằng tay mà phải vác trên vai. Và vì thế khi đã đóng mở rồi thì chẳng ai ra vào trái lệnh được nữa.
Sau cùng Chúa còn hứa cắm Êlyaqim xuống như một cái đanh nơi đất cứng, để giống như một lều vải đã được cột chặt vào đất, không ai nhổ lên được nữa... Triều đại của Êlyaqim không những sẽ vững bền mà còn vẻ vang và được lòng dân (câu 21 và 23).
Nhưng lịch sử cho thấy sự thật không được như vậy. Êlyaqim được lên chức giám hộ thật: nhưng rồi cái đanh ấy cũng đã bị nhổ đi. Dân Chúa suy nghĩ lại về những lời sấm long trọng kia. Người ta nhận ra rằng Êlyaqim chỉ là hình ảnh và là cớ để Chúa mạc khải kế hoạch cứu độ sâu xa của Người. Ðấng mà Người nhắm kêu gọi và tuyển chọn sẽ không là ai khác ngoài chính Ðức Yêsu Kitô; và cũng không phải chỉ là Ðức Kitô lịch sử sinh sống ở Dothái mà là Chúa Yêsu Kitô viên mãn hằng ở cùng Hội Thánh.
Do đó bài sách Isaia hôm nay nói về Ðức Yêsu và là Ðức Yêsu đang cai trị Hội Thánh. Bài sách ấy nói về kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa và về Hội Thánh trong kế hoạch ấy. Chúng ta hãy xem Hội Thánh đã được xây lên như thế nào để đáp ứng lời tiên tri trên.

B. Phêrô Là Ðá Xây Lên Hội Thánh
Hôm ấy Ðức Yêsu đi cùng môn đệ đến địa hạt Caisaria. Chi tiết nơi chốn này cũng đáng để ý hầu chúng ta thấy rằng Hội Thánh của Chúa sẽ vượt ra khỏi ranh giới Dothái ngày xưa và bao gồm tất cả dân ngoại.
Ðức Yêsu hỏi môn đồ: dư luận người ta nghĩ Người là ai? Người muốn biết tâm tư của mọi người sau một thời gian giảng đạo để chuyển sang một giai đoạn mới.
Môn đồ trả lời: kẻ bảo là Yoan Tẩy giả; kẻ bảo là Êlya; kẻ khác lại nghĩ là Yêrêmya hay một tiên tri nào khác. Thực ra môn đồ đã bắt đầu nói đến ý kiến của Hêrôđê vì ông này có mặc cảm đã giết Yoan Tẩy giả nên thấy Ðức Yêsu dường như là hiện thân của vị tiền hô. Rồi họ đã kể đến dư luận chung hơn, nghĩ Ðấng Thiên sai sẽ là Êlya trở lại. Một mình Matthêô đưa ra ý kiến Ðức Yêsu là Yêrêmya vì có dư luận cho rằng Ðấng Thiên sai cũng sẽ là nhà tiên tri bị bắt bớ. Nhưng nếu chẳng ý kiến nào trên đây được ưu thế, thì đây là ý kiến chắc không thể sai được: Ðức Yêsu là một trong các vị tiên tri thời danh kia. Ðó là dư luận chính thức của Dothái giáo thời bấy giờ. Giới tư tế cho rằng thời tiên tri đã mãn. Vậy nếu Ðấng Thiên sai sẽ đến là tiên tri, thì Người chỉ có thể là một trong các tiên tri "lớn" trước đây trở lại.
Dù sao cách trả lời của môn đồ cũng cho thấy mọi người đã công nhận uy thế của Ðức Yêsu. Người ta chưa biết đúng Người là ai, nhưng họ đã tin Người là Ðấng được Thiên Chúa tuyển chọn để làm một công việc rất lớn lao nào đây. Nếu dùng lại danh xưng trong bài đọc 1 nói về Êlyaqim, ta có thể bảo thiên hạ bấy giờ đều coi Ðức Yêsu là "người tôi tớ của Thiên Chúa" rồi.
Còn tâm tư của chính các môn đồ thì sao?
Phêrô "lên tiếng", tức là đã nói thay cho cả đoàn rằng: "Thầy là Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống".
Có thật Phêrô đã nói như thế không? Vì trong Marcô và Luca, ông chỉ thưa: Thầy là Kitô. Còn những chữ "Con Thiên Chúa hằng sống" là của riêng sách Tin Mừng Matthêô và dường như là thành ngữ tuyên xưng đức tin của Hội Thánh sau ngày Ðức Yêsu hiển vinh. Nếu thực sự như vậy thì càng chứng tỏ trong đoạn Tin Mừng này, Phêrô được coi như gắn liền với Hội Thánh. Lời tuyên xưng của ông trở thành đức tin đã được ban cho Hội Thánh. Hội Thánh đang nằm ở trong con người ông. Nói đúng hơn, Hội Thánh đang được xây lên từ ông.
Quả vậy, ông vừa dứt lời thì Ðức Yêsu đã mừng rỡ tuyên bố như đứng trước một mạc khải mới: "Con có phúc, hỡi Simon con Yôna, vì không phải thịt máu mạc khải cho con biết điều ấy, nhưng là Cha Ta Ðấng ngự trên trời". Nếu không phải "những yếu tố" loài người nói lên điều tuyên xưng kia, thì Simon đã trở thành dụng cụ của Cha trên trời rồi.
Chúa Cha muốn dùng Simon vào việc nào đây? Ðức Yêsu sắp ra đi chịu chết cứu chuộc nhân loại , thì hẳn Simon được thiên định hợp tác trong công cuộc này, một công cuộc còn phải nối dài trong mọi thế hệ. Và như vậy lời tiên tri về Êlyaqim, như đã nói trên, cũng phải được thực hiện nơi Simon qua Ðức Yêsu.
Thế nên Ðức Yêsu đã phán tiếp: Simon, từ nay con sẽ gọi là Phêrô, là Thạch, là Ðá; con sẽ có một định mệnh mới là trở nên Ðá kiên cố để Ta xây Hội Thánh của Ta trên Ðá này. Cửa hỏa ngục, tức là sức mạnh của tử thần và tà thần muốn công phá cũng không làm gì được. Vì như trên đã nói "Cửa thành" là nơi tung sức trong thành ra và cũng là ngõ để kẻ thù tấn công vào. Nói cho đúng, Phêrô không phải là cửa thành vì chính Ðức Yêsu mới là cửa vào đàn chiên; nhưng Hội Thánh xây trên Ðá Phêrô sẽ phải chịu sức tấn công của cửa hỏa ngục. Và khi nói như vậy, chúng ta không được hình dung Hội Thánh luôn luôn ở thế thủ. Chúa không nói Hội Thánh chịu tấn công. Người khẳng định: cửa hỏa ngục không làm gì được Hội Thánh. Vì khi làm việc rao giảng Phúc Âm và làm các Bí tích, Hội Thánh đâu có ở thế thủ. Nhưng hỏa ngục vẫn không làm gì được. Người ta vẫn tin theo lời giảng dạy của Hội Thánh và đi vào Nước Trời.
Như vậy Hội Thánh đã thực hiện lời tiên tri về Êlyaqim: đó là cái đanh Chúa đã cắm xuống đất cứng không thể nhổ lên được nữa. Và như Êlyaqim đã được trao chìa khóa thành, thì Phêrô đã được trao chìa khóa Nước Trời. Mà chìa khóa ở đây như trên kia đã nói không nhỏ bé nhẹ nhàng đâu, nhưng là then gỗ thật lớn phải vác; và khi đã đóng mở thì chẳng ai làm ngược lại được nữa. Ở đây Ðức Yêsu còn đi xa hơn, coi công việc của Phêrô là chính công việc của Thiên Chúa; Phêrô và Hội Thánh làm thế nào ở dưới đất, trên trời cũng quyết định như vậy.
Thật ra để chỉ công việc của Phêrô, Ðức Yêsu không nói là đóng mở, mà là trói mở. Nhưng trói mở là cột lại và tháo ra, là cho vào và cấm vào; và như vậy cũng là đóng mở cửa Nước Trời. Và nếu phải xác định rõ hơn công việc này, có lẽ chúng ta có thể dừng lại ý tưởng của Ðức Kitô khi nói về Biệt phái. Người trách họ đã không để cho ngưòi ta vào Nước Trời, vì "giáo lý" của họ. Như vậy, quyền đóng mở cửa Nước Trời của Phêrô trước tiên nên được hiểu là quyền giáo huấn, dạy dỗ đức tin để người ta được sống đời đời.
Do đó, chúng ta thấy lời tiên tri về Êlyaqim trở nên lu mờ trước Lời Chúa phán với Phêrô, chứng tỏ Cựu Ước chỉ là hình ảnh báo trước thực tại Tân Ước; và khi thực tại đến, hình ảnh không còn giá trị như trước nữa. Vậy nếu Dân Chúa đã mừng rỡ hân hoan đón nhận lời tiên tri về Êlyaqim như là lời cứu độ, thì chúng ta ngày nay càng phải hân hoan mừng rỡ hơn nữa khi đọc Lời Hứa về Phêrô và Hội Thánh. Ðó là tâm tình mà bài Thánh thư hôm nay muốn gợi lên.

C. Tạ Ơn Thiên Chúa Về Mầu Nhiệm Hội Thánh
Phaolô muốn kết thúc những chương suy nghĩ về số phận dân ngoại và nhất là số phận Israel. Người thấy đó là kế hoạch Thiên Chúa đã trù liệu cho Hội Thánh. Cả dân ngoại, cả Israel đã lầm lạc và lầm than trong tội bất vâng phục, để làm nổi bật tình thương nhưng không và vô biên chan chứa trong Hội Thánh. Thế nên Thánh nhân kêu lên: "Ôi! Thẳm sâu thay sự giàu có, khôn ngoan và thượng trí của Thiên Chúa".
Ðó là tiếng nói của tâm hồn dạt dào tình cảm mến, nhưng cũng là những tư tưởng thật đắn đo. Lịch sử dân ngoại và lịch sử Israel là gì nếu chẳng phải là lịch sử cứu độ, lịch sử Chúa trải tình thương vô biên quảng đại trên loài người tội lỗi? Dĩ nhiên ơn cứu độ của Người nằm trong mầu nhiệm Chúa Kitô. Nhưng mầu nhiệm này không phải là một sự kiện xảy ra trong một lúc. Chúa Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi như thế. Mầu nhiệm Chúa Kitô đã chan chứa suốt thời Cựu Ước chi phối cả lời tiên tri về Êlyaqim; mầu nhiệm ấy đang lan rộng trong Hội Thánh cho đến ngày nào đạt tới tầm mức tuyệt vời của Thân thể Ðức Kitô.
Ðó là kế hoạch sâu thẳm chỉ Thánh Thần mới dò được. Mọi sự giàu có phong phú đang chảy ra trong kế hoạch này. Thật là kế hoạch khôn ngoan mà thượng trí Thiên Chúa đã nghĩ ra để chúng ta được mọi ơn thiêng trong Ðức Kitô và nơi Hội Thánh. Và tất cả như vậy là vì Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước, đã tự ý ban Ðức Kitô cho chúng ta, đã chọn Phêrô một cách nhưng không để xây nên Hội Thánh. Mọi sự đều do Người, nhờ Người và vì Người.
Do đó chúng ta phải tạ ơn Người. Và biết ơn cụ thể nhất là đi vào trong kế hoạch thâm sâu của Người, tức là vào sống trong mầu nhiệm Ðức Kitô và mầu nhiệm Hội Thánh.
Chính những mầu nhiệm ấy sắp được cử hành trên bàn thờ bây giờ để khi tham dự, chúng ta được kết hợp với Ðức Kitô là người tôi tớ mà Thiên Chúa đã sủng mộ và tuyển chọn một cách đặc biệt để đưa chúng ta, tức là cả dân ngoại và Israel vào Hội Thánh xây trên Ðá Phêrô.

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)



LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Chủ Nhật 21 Thường Niên, Năm A
Bài đọcIsa 22:15, 19-23; Rom 11:33-36; Mt 16:13-20.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Quyền bính đến từ Thiên Chúa.
Chúng ta đang sống trong một thời đại mà sự tôn trọng quyền bính bị khủng hỏang trầm trọng từ trong gia đình đến xã hội và lan cả trong Hội Thánh. Lý do của cuộc khủng hỏang là khuynh hướng tự do quá trớn cho rằng mọi người đều bình đẳng, không ai có quyền bảo ai làm gì cả nếu họ không muốn. Trong gia đình, từ chỗ cha mẹ đặt đâu con ngồi đó đến chỗ con đặt đâu cha mẹ ngồi đó. Nơi các giáo xứ, từ chỗ cha xứ bảo sao nghe làm vậy đến chỗ giáo dân làm áp lực để Đức Giám-mục phải thuyên chuyển cha xứ đi nơi khác. Ngay cả trong Giáo Hội, từ chỗ phải tuyệt đối vâng lời Đức Giáo Hoàng vì Ngài là đại diện của Chúa ở trần gian đến chỗ chỉ trích ngài già nua, lỗi thời, và khinh thường mọi giáo huấn đến từ ngài.
Các Bài đọc hôm nay giúp chúng ta nhận biết nguồn gốc và sự quan trọng của quyền bính, và sẽ giúp chúng ta biết tôn trọng và nghe lời các nhà lãnh đạo hơn. Trong bài đọc I, ngôn sứ Isaiah muốn làm nổi bật quyền bính đến từ Thiên Chúa. Ngài không muốn quyền bính ở trong tay quan Tể Tướng Shebna nữa, nên Ngài trao quyền bính vào tay Eliakim con của Hilkiah. Trong bài đọc II, thánh Phaolô phải ngạc nhiên khi suy niệm về sự giàu có, sự khôn ngoan, và sự thấu hiểu của Thiên Chúa. Không một ai có thể hiểu nổi những quyết định và những đường lối của Ngài. Bổn phận của con người không phải là chất vấn Thiên Chúa, nhưng biết khiêm nhường vâng theo những thánh chỉ của Ngài. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu thiết lập Giáo Hội của Ngài trên Tảng Đá Phêrô và trao quyền cầm buộc và tháo cởi cho ông qua biểu tượng chìa khóa Nước Trời. Ngài cũng long trọng hứa: “quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi.”
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Quyền bính đến từ Thiên Chúa.
1.1/ Quyền bính đến từ Thiên Chúa: Ngài có quyền trao ban và có quyền cất đi, không ai có thể chống cự lại khi Ngài cất đi. Quyền hành bị lấy đi và trao vào tay người khác khi người đương cầm quyền khinh thường Thiên Chúa hay không chu toàn sứ vụ của mình.
Chúa phán với tiên tri Isaiah: “Hãy đi gặp viên quan ấy là Shebna, tể tướng triều đình, và nói: Đức Chúa phán: "Ta sẽ tống ngươi khỏi chức vụ, Ta sẽ đuổi ngươi khỏi địa vị. Ngày ấy, Ta sẽ gọi tôi tớ Ta là Eliakim, con của Hilkiah: Áo thụng của ngươi, Ta sẽ lấy mặc cho nó, cân đai của ngươi, Ta sẽ đem thắt cho nó, quyền bính của ngươi, Ta sẽ trao vào tay nó, nó sẽ là cha đối với cư dân Jerusalem và với nhà Judah.” Lý do Thiên Chúa truất phế Shebna có lẽ vì lối sống xa hoa của ông hay vì thái độ cấu kết với ngoại bang (Ai-cập) mà không chịu hành động theo sự hướng dẫn của Ngài qua các ngôn sứ. Thiên Chúa không chỉ có quyền bính trên dân của Ngài, nhưng còn có toàn quyền trên tất cả những nhà lãnh đạo của mọi dân tộc. Ví dụ, Vua Cyrus, hoàng đế Ba-tư. Thiên Chúa dùng Nhà Vua như khí cụ để phóng thích cho dân tộc Do-thái về hồi hương.
1.2/ Khi Chúa ban quyền, Ngài cũng ban khôn ngoan và sức mạnh của Ngài cho người cầm quyền. Chìa khóa là biểu tượng của quyền hành. Khi Chúa trao chìa khóa cho ai là Ngài đặt trọn vẹn tin tưởng và trao quyền hành cho người đó thay Chúa để điều khiển. “Chìa khoá nhà David, Ta sẽ đặt trên vai nó. Nó mở ra thì không ai đóng được, nó đóng lại thì không ai mở được. Ta sẽ làm cho nó vững chắc như đinh đóng cột, nó sẽ nên như ngai vinh hiển cho nhà cha nó.”
Người lãnh nhận quyền bính từ Thiên Chúa là để phục vụ Dân Chúa, để trở thành “cha đối với cư dân Jerusalem và với nhà Judah;” chứ không phải để bắt người khác phục vụ, hay ức hiếp dân lành.
2/ Bài đọc II: Không ai có thể hiểu sự khôn ngoan và đường lối của Thiên Chúa.
2.1/ Con người thường đánh giá trị theo những tiêu chuẩn bên ngoài: Con người thường có khuynh hướng đánh giá trị dựa vào những tiêu chuẩn thấy được: khỏe mạnh, trẻ trung, sắc đẹp, lanh lợi, lịch thiệp, kiến thức, giàu có… Nhưng biết bao người đã lầm to sau khi đã dựa vào những tiêu chuẩn này để chọn lựa vì không ai học được chữ “ngờ!” Những hình thức bên ngòai chỉ là những lớp sơn hào nhoáng che giấu những mưu toan nham hiểm bên trong đang chờ cơ hội để bộc phát.
2.2/ Thiên Chúa thấu rõ những ý định trong tâm hồn con người: Nếu thái độ “suy bụng ta ra bụng người” trên không thể áp dụng vào con người, càng không thể áp dụng cho Thiên Chúa. Vì, “Sự giàu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào! Quyết định của Người, ai dò cho thấu! Đường lối của Người, ai theo dõi được! Thật vậy, ai đã biết tư tưởng của Chúa? Ai đã làm cố vấn cho Người? Ai đã cho Người trước, để Người phải trả lại sau? Vì muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại và quy hướng về Người.”
Trong lịch sử của Do-thái cũng như của nhân lọai, biết bao nhiêu lần con người đã đánh giá trị sai về các biến cố đã xảy ra trong lịch sử! Lý do đơn giản là vì họ đã dùng những tiêu chuẩn của con người thay vì của Thiên Chúa; họ quá chú trọng đến hình thức bên ngòai trong khi Thiên Chúa nhìn thấu suốt bên trong; họ chỉ có thể biết những gì đang xảy ra hiện tại trong khi quá khứ, hiện tại, và tương lai là một trước Thiên Chúa.
3/ Phúc Âm: Quyền điều khiển Giáo Hội được trao cho Phêrô.
3.1/ Hai cách nhìn khác nhau: cách nhìn của người thường và cách nhìn của các môn đệ về “Con người của Chúa Giêsu.” Cuộc đối thọai giữa Chúa Giêsu và các môn đệ dẫn chứng hai cách nhìn này: Khi Đức Giêsu đến vùng kế cận thành Caesarea Philippi, Người hỏi các môn đệ rằng: "Người ta nói Con Người là ai?" Các ông thưa: "Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Elijah, có người lại cho là ông Jeremiah hay một trong các vị ngôn sứ." Đức Giêsu lại hỏi: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?" Ông Simon Phêrô thưa: "Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống."
Phêrô là người đầu tiên nhận ra và tuyên xưng Đức Kitô là Con Thiên Chúa vì ông không nhìn theo dáng vẻ bên ngoài như các người đương thời, nhưng ông nhìn tận bên trong theo mặc khải của Thiên Chúa. Cũng vậy, khi người Công-giáo nhìn vào Đức Giáo Hoàng và cấu trúc của Giáo-hội, chúng ta không nhìn ngài như một người lãnh đạo bình thường và cấu trúc đó như bao cấu trúc khác; nhưng là đại diện của Thiên Chúa và cấu trúc được Thiên Chúa soi sáng.
3.2/ Trên Đá Tảng này Thầy sẽ xây Giáo Hội: Các nhà chú giải tranh luận “Ai là Đá trong câu này?” Đối với người Do-Thái: Đá tảng chỉ áp dụng cho Thiên Chúa mà thôi (Ps 18:2, 31; Dt 32:4, 31; I Sam 2:2, II Sam 22:2). Thánh Augustin đồng ý lập luận này. Người khác cho rằng “Đá tảng” là “Sự Thật,” Phêrô là người đầu tiên khám phá và tuyên xưng Sự Thật này. Người khác cho “Đá tảng” là chính niềm tin của Phêrô vào Chúa, và chính niềm tin này mà “quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi.” Mỗi câu trả lời đều cho chúng ta một lối nhìn về Phêrô: Ông là người được chọn bởi Thiên Chúa, nếu Thiên Chúa là Đá tảng, người cũng sẽ làm cho ông thành Đá tảng mà trên đó Gíao Hội được xây dựng. Đá tảng cũng là Sự Thật và niềm tin của Phêrô vào Chúa mà không một quyền lực nào có thể lấn át được.
3.3/ Tranh luận về quyền của Thánh Phêrô và các Đức Gíao Hòang kế vị ngài: “Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy.” Không biết bao nhiêu giáo hội và con người qua các thời đại đã tranh luận về câu Phúc Âm này và quyền bính tuyệt đối của Đức Gíao Hòang. Nhiều người đã công nhận đây là lý do chính ngăn cản các giáo hội trong sự hiệp nhất chứ không phải khác biệt về đạo lý. Nhiều giáo hội sợ một khi đã đồng ý trở về với Giáo Hội là họ phải phục tùng quyền bính của Đức Giáo Hoàng.
* Tranh luận về ơn “không thể sai lầm” khi tuyên xưng trọng thể những tín điều thuộc lãnh vực đức tin và luân lý. Công đồng Vatican II, trong Hiến-chế “Ecclesiae Christi,” chương iv, đã xác định như sau: “Chúng tôi truyền dạy và xác định đó là một tín điều do Thiên Chúa mặc khải khi Đức Giáo Hòang tuyên xưng ex cathedra, nghĩa là khi ngài dùng chức vụ mục tử và tiến sĩ của tất cả các Kitô hữu, bởi quyền tối thượng kế vị các Tông Đồ của ngài, khi ngài định nghĩa là một tín điều liên quan đến đức tin hay luân lý phải được chấp thuận bởi Giáo Hội phổ quát, vì sự trợ giúp từ Thiên Chúa đã được hứa cho ngài qua Thánh Phêrô, vì được sở hữu của ơn không thể sai lầm mà Đấng Cứu Chuộc đã mong muốn Giáo Hội của Ngài được trang bị trong việc định nghĩa là tín điều những gì thuộc đức tin và luân lý, và vì thế, những định nghĩa như thế bởi Đức Giáo Hòang và không bởi sự đồng ý của Gíao Hội không thể sửa đổi.”
* Nhiều người đã phủ nhận quyền bính và “ơn không thể sai lầm” của Đức Giáo Hoàng trong câu Phúc Âm này, nhưng một bằng chứng mà họ không phủ nhận được là quyền bính của Đức Giáo Hoàng và Giáo Hội vẫn tồn tại hơn 2000 năm qua. Hai bằng chứng hùng hồn cho thấy đâu là sự phiên dịch đúng của Phúc Âm hôm nay.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Vì yêu thương con người, Thiên Chúa đã chuẩn bị kế họach để con người luôn có những nhà lãnh đạo cần thiết trong mọi trạng huống của cuộc đời.
- Chúng ta cần tuân phục cha mẹ, thầy cô, các nhà lãnh đạo trong tôn giáo cũng như ngòai xã hội để bảo vệ trật tự chung trong gia đình, xã hội, và Giáo Hội.
- Người lãnh đạo được trao quyền bởi Thiên Chúa để phục vụ và mưu ích chung cho mọi người chứ không phải để hống hách và vun xới cho bản thân. Họ phải chịu trách nhiệm trước mặt Chúa về những người Chúa trao.
- Người Công Giáo phải nhìn mọi sự dưới con mắt đức tin. Họ phải tuyệt đối tin tưởng và vâng lời Đức Giáo Hoàng. 
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.


27/08/2017
CHÚA NHẬT TUẦN 21 TN – A
Mt 16,13-20
QUYỀN BÍNH ĐỂ PHỤC VỤ

“Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời: dưới đất anh ràng buộc điều gì, trên trời cũng sẽ ràng buộc như vậy.” (Mt 16,19)

Suy niệm: Tranh luận và tranh chấp về quyền bính là chuyện xảy ra như cơm bữa trong đời sống con người. Do tranh chấp nên chiến tranh bùng nổ, hận thù có cơ hội được khơi lên. Nếu con người, cách riêng các nhà lãnh đạo, ý thức quyền bính là để phục vụ, để xây dựng cộng đoàn, xã hội, chắc chắn thế giới sẽ có một bộ mặt khác, đời sống sẽ êm đẹp hơn, hạnh phúc hơn. Khi trao chìa khóa Nước Trời cho Phê-rô, Chúa Giê-su cũng muốn ông sống theo tinh thần đó của Tin Mừng: “Một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh” (Lc 22,32). Người ta đã trách Giáo Hội Công Giáo đề cao quyền tháo cởi, quyền chìa khóa của đức giáo hoàng. Thực ra, trong thành tâm thiện chí và trong ý hướng tốt lành của các đấng kế vị Thánh Phê-rô, khẩu hiệu “Tôi tớ của mọi tôi tớ” vẫn luôn là ngọn đuốc soi đường cho các vị giáo hoàng.

Mời Bạn: Khi tin vào giáo hội phẩm trật như Giáo hội Công giáo, bạn không thể không đứng vào hàng ngũ có trên có dưới, có trước có sau. Điều hệ trọng là chỗ đứng ấy giúp bạn thực thi lời Chúa dạy về cung cách phục vụ thế nào.

Sống Lời Chúa: Bạn là “thường dân” hãy vui mừng vì Chúa mặc khải Nước Trời cho những kẻ bé mọn; bạn là người lãnh đạo hãy là người phục vụ: “ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em” (Mt 20,27).

Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã đặt các người kế vị thánh Phê-rô để hướng dẫn Giáo hội. Xin ban cho Đức giáo hoàng chúng con nhiều sinh lực của Thánh Thần, và “nguyện xin người luôn sống vui yên hàn.” Amen.
(5 phút lời Chúa)


TRÊN TNG ĐÁ NÀY (27.8.2017 – Chúa nht 21 Thường niên, Năm A)
Ước gì mi người chúng ta li và yêu mến Hi Thánh, ci t và canh tân Hi Thánh bng vic canh tân chính bn thân mình. 


Suy nim:
Trong cộng đoàn Hội Thánh,
Simon là khuôn mặt nổi bật trong nhóm Mười Hai.
Ông thuộc nhóm những môn đệ đầu tiên theo Ðức Giêsu,
và là một trong ba môn đệ thân tín nhất.
Ông có mặt lúc Chúa hiển dung và trong Vườn Dầu.
Ông thường là phát ngôn viên của cả nhóm (x. Mt 19,27).
Ðức Giêsu phục sinh đã hiện ra cho ông trước tiên (1Cr 15,5),
và giao cho ông chăn dắt đoàn chiên của Ngài (Ga 21,15-17).
Simon có bản tính bộc trực, hăng hái.
Vì quá tin vào sức mình, ông đã sa ngã, chối Chúa.
Bất chấp những yếu đuối và giới hạn của Simon,
Ðức Giêsu vẫn chọn ông đứng đầu nhóm Mười Hai,
và làm nền tảng cho Hội Thánh của Ngài.
Ngài đặt cho Simon một tên mới là Phêrô,
tiếng Aram gọi là Kêpha, nghĩa là Tảng Ðá.
Tên mới này phản ánh sứ mạng Chúa giao cho ông.
Phêrô được tuyên bố là người có phúc,
vì ông đã được Cha trên trời cho biết Ðức Giêsu là ai.
Ông đã tin tưởng đón nhận mạc khải ấy.
“Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.”
Ðó là lời tuyên xưng đức tin của Phêrô.
Nhưng ông không chỉ tuyên xưng đức tin của mình,
ông còn tuyên xưng tình yêu nữa:
“Lạy Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy.”
Với niềm tin-yêu vào Ðức Giêsu,
Phêrô sẵn sàng chia sẻ sứ mạng Mục Tử của Ngài,
sẵn sàng hiến mình vì đoàn chiên.
Quả thực, Phêrô đã giang tay chịu chết như Thầy Giêsu,
đã theo Thầy và đến nơi mình không muốn đến.
Chúng ta ngỡ ngàng trước sự tin tưởng của Ðức Giêsu.
Ngài cho Phêrô được chia sẻ trách nhiệm với Ngài.
dù ông chỉ là một ngư phủ bình thường, ít học.
Chỉ mình Ðức Giêsu mới là Nền Tảng (x. 1Pr 2,4-5),
nhưng Phêrô cũng được làm nền cho Hội Thánh.
Chỉ mình Ðức Giêsu nắm giữ chìa khóa (x. Kh 3,7),
nhưng Phêrô cũng được trao chìa khóa Nước Trời.
Nếu Phêrô có quyền giáo huấn,
quyền thánh hoá và quản trị Hội Thánh,
thì chỉ nhằm mục đích là phục vụ Dân Chúa.
Hội Thánh đã gặp biết bao khó khăn trong dòng lịch sử.
Không phải chỉ là những cuộc bách hại đẫm máu,
mà còn là những chia rẽ, tranh chấp nội bộ,
những sa sút trầm trọng vì chạy theo thế gian.
Hôm nay, Hội Thánh cũng gặp khó khăn không ít,
khi nhiều người bỏ nhà thờ, bỏ đức tin,
khi ơn gọi giảm sút ở nhiều nơi,
khi Ðức Thánh Cha bị công kích?
Ước gì mỗi người chúng ta ở lại và yêu mến Hội Thánh,
cải tổ và canh tân Hội Thánh
bằng việc canh tân chính bản thân mình.
Cầu nguyn:

Lạy Chúa,
chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon,
một người đánh cá ít học và đã lập gia đình,
để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội.

Chúa xây dựng Giáo Hội
trên một tảng đá mong manh,
để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa.

Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con
theo Chúa, sống cho Chúa,
đặt Chúa lên trên mọi sự :
gia đình, sự nghiệp, người yêu.

Chúng con chẳng thể nào từ chối
viện cớ mình kém đức kém tài.

Chúa đưa chúng con đi xa hơn,
đến những nơi bất ngờ,
vì Chúa cần chúng con ở đó.

Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon,
bỏ mái nhà êm ấm để lên đường,
hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.

Lm Antôn Nguyn Cao Siêu, SJ


Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
27 THÁNG TÁM
Ánh Sáng Soi Dẫn Sự Sống
Của Giáo Hội Hôm Nay
Bản Báo Cáo Chung Kết (tài liệu đúc kết kỳ Thượng Hội Đồng bất thường này) diễn tả hùng hồn mối quan tâm của tập thể các giám mục và nỗ lực chung của toàn thể Giáo Hội nhằm muốn trân trọng hơn đối với Công Đồng Vatican II. Ở đây chúng ta nhìn các vấn đề của Giáo Hội hậu Công Đồng với một cái nhìn mới, với một tinh thần nhận định khách quan và với nhãn giới ưu tư mục vụ. Chúng ta khảo sát kỹ lưỡng tình hình của mình sau hai mươi năm, với tất cả những thay đổi và những cải thiện quan trọng đã xảy ra trong đời sống Giáo Hội. Trong cuộc khảo sát này, chúng ta nhìn thấy cả những khó khăn và những thành công.
Bản Báo Cáo Chung Kết này – được xem xét kỹ – đã trao cho chúng ta những đề nghị thích hợp để thay đổi và đã soi sáng cho những vấn đề khẩn cấp trong đời sống của Giáo Hội hiện nay. Có những nhấn mạnh đặc biệt về tiếng gọi nên thánh phổ quát. Chúng ta thấy rằng sự nên thánh này phải phát nguồn từ chính đời sống và ơn gọi của Giáo Hội. Trước hết, nó phải được cắm rễ trong sự đáp trả của Giáo Hội đối với Lời Chúa và đối với tiếng gọi phổ quát Phúc Aâm hóa bằng việc chia sẻ Tin Mừng. Hết thảy mọi Kitôhữu đều được mời gọi tiến tới trong tiếng gọi nên thánh khẩn thiết này, được hướng dẫn bởi quyền giáo huấn của các giám mục và công việc không ngừng của các nhà thần học của Giáo Hội.
Thứ hai, phụng vụ phải dẫn chúng ta vào trong một kinh nghiệm đích thực về sự thiêng thánh và thái độ tôn kính sự hiện diện của Thiên Chúa. Thực tại Giáo Hội trong phụng vụ phải được diễn tả như một sự hiệp thông với Đức Kitô và Thân Thể mầu nhiệm của Ngài.
Thứ ba, chúng ta nhận thấy nhu cầu phải đẩy mạnh những lãnh vực được Công Đồng đề cập đến. Chúng ta nhận thấy cần phải đối thoại và phát triển mối hiệp nhất giữa các Giáo Hội Đông phương và Tây phương. Chúng ta cần phải lưu tâm đến những đóng góp quan trọng của các hội đồng giám mục. Chúng ta phải tiếp tục làm cho Giáo Hội liên đới với những nhu cầu và những vấn đề của con người hiện đại. Chúng ta phải tăng cường sự hiểu biết và cảm thông đối với các tôn giáo ngoài Kitô giáo và đối với các anh chị em vô thần. Chúng ta phải luôn luôn thăng tiến quyền lợi của người nghèo và những người bị áp bức, và bảo vệ nhân phẩm của mọi con người bằng cách tuân thủ các giáo huấn xã hội của Giáo Hội. Công Đồng Vatican II là di sản của chúng ta, di sản của Giáo Hội.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II

Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 27- 8
Chúa Nhật XXI Thường niên
Is 22, 19-23; Rm 11, 33-36; Mt 16, 13-20.

Lời suy niệm: “Khi Đức Giêsu đến vùng kế cận thành Xêdarê Philípphê. Người hỏi các môn đệ rằng: Người ta nói Con Người là ai?”
Sau bao ngày các môn đệ của Chúa Giêsu, đã nghe những lời mạc khải về Nước Trời, đã nhìn thấy những việc Người làm, đã được ở cùng Người; đã được Người sai đi. Giờ đây Chúa Giêsu chính thức hỏi các ông về nhận định của đám đông dân chúng. Các ông đã trình thuật về những dư luận của người dân. Chúa Giêsu chưa thỏa mãn, nên Người đã hỏi ngay các môn đệ: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Phêrô thưa: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.”
Lạy Chúa Giêsu. Ngay hôm nay Chúa cũng đang hỏi chúng con: “Thầy là ai?”. Xin cho chúng con ơn yêu thích và ham mê học hỏi giáo lý và suy niệm Lời Chúa, để chúng con mạnh dạn tuyên xưng đức tin của chúng con trước mặt Chúa và người đời.
Mạnh Phương

Gương Thánh Nhân
27 Tháng Tám
Thánh Monica
(322?-387)


Hoàn cảnh cuộc đời Thánh Monica đã có thể biến ngài thành một người vợ hay mè nheo, một nàng dâu nhiều cay đắng và một người mẹ tuyệt vọng, tuy nhiên ngài đã không chịu thua bất cứ cám dỗ nào. Mặc dù ngài là một Kitô Hữu, cha mẹ ngài đã gả cho một người ngoại giáo, ông Patricius, là người sống trong cùng tỉnh Tagaste ở Bắc Phi Châu. Patricius là người tốt nhưng ông vô cùng nóng nẩy và phóng túng. Ngoài ra Thánh Monica còn phải chịu đựng bà mẹ chồng hay gắt gỏng. Ông Patricius thường rầy la vợ vì bà hay thương người. Nhưng sự cầu nguyện và gương mẫu đời sống của Thánh Monica sau cùng đã chinh phục được người chồng cũng như mẹ chồng, ngài đã đưa họ trở về với đức tin Kitô Giáo. Ông Patricius chết năm 371, sau khi rửa tội được một năm để lại người vợ goá và ba con nhỏ.


Người con cả, Augustine Hippo, nổi tiếng nhất (sau này là thánh). Vào lúc cha chết, Augustine mới 17 tuổi và là sinh viên trường hùng biện ở Carthage. Thánh Monica thật đau buồn khi thấy con mình đi theo tà thuyết Manikê và sống cuộc đời phóng đãng. Có những lúc Thánh Monica không cho con được ăn ngủ ở trong nhà. Và rồi một đêm kia, ngài được thị kiến và được đảm bảo là Augustine sẽ trở về với đức tin. Từ đó trở đi ngài sống gần với con hơn để ăn chay và cầu nguyện cho con. Quả vậy, ngài ở gần đến nỗi Augustine cũng phải bực mình.

Khi 29 tuổi, Augustine quyết định đi Rôma để dạy về hùng biện. Một tối kia, Augustine nói với mẹ là anh ra bến tầu để từ giã bạn bè. Nhưng, anh lại lên tầu đi Rôma. Thánh Monica thật đau lòng khi biết mình bị lừa, nhưng ngài nhất định đi theo. Vừa đến Rôma thì ngài lại biết là Augustine đã đi Milan. Mặc dù việc di chuyển khó khăn, Thánh Monica vẫn nhất định bám sát.

Ở đây, Augustine bị ảnh hưởng bởi một giám mục, Ðức Ambrôsiô, là vị linh hướng sau này của Thánh Monica. Augustine chấp nhận mọi lời khuyên của đức giám mục và tập được đức khiêm tốn đến độ ngài có thể từ bỏ được nhiều tật xấu. Thánh Monica trở thành người lãnh đạo của nhóm phụ nữ đạo đức ở Milan cũng như khi ở Tagaste.

Ngài tiếp tục cầu nguyện cho Augustine trong những năm anh theo học với đức giám mục. Vào Phục Sinh năm 387, Ðức Ambrôsiô rửa tội cho Augustine và một vài người bạn của anh. Không lâu sau đó, cả nhóm đi Phi Châu. Lúc ấy, Thánh Monica biết cuộc đời ngài sắp chấm dứt, ngài nói với Augustine, "Con ơi, không có gì trên trần gian này làm mẹ vui lòng cả. Mẹ không biết có gì còn phải thi hành và tại sao mẹ lại ở đây, vì mọi hy vọng của mẹ ở trần gian này đều đã được hoàn tất." Sau đó không lâu ngài bị bệnh và chịu đau đớn trong chín ngày trước khi từ trần.

Tất cả những gì chúng ta biết về Thánh Monica là trong tác phẩm Tự Thú của Thánh Augustine.

Lời Bàn

Trong xã hội ngày nay, mọi thứ đều sẵn sàng, từ mì ăn liền, cà phê uống liền, đến việc tiêu xài liền (instant-credit) khiến chúng ta không còn kiên nhẫn. Tương tự như thế, chúng ta cũng muốn lời cầu xin của chúng ta được đáp trả ngay lập tức. Thánh Monica là gương mẫu của sự kiên nhẫn. Những năm trường cầu nguyện, cộng với đức tính kiên cường và kỷ luật, sau cùng đã đưa đến sự trở lại của người chồng nóng nẩy, người mẹ chồng ưa gắt gỏng và người con thông minh nhưng bướng bỉnh, là Augustine.

Lời Trích

Khi Thánh Monica từ Bắc Phi Châu sang Milan, ngài nghĩ ra những thói quen đạo đức mới cho ngài và cho những người thời ấy, tỉ như ăn chay ngày thứ Bảy, là điều không phổ thông ở Milan. Ngài hỏi Thánh Ambrôsiô là nên giữ những thói quen nào. Câu trả lời nổi tiếng của Thánh Ambrôsiô là: "Khi cha ở đây, cha không giữ chay ngày thứ Bảy, nhưng khi ở Rôma thì cha sẽ giữ chay; hãy làm theo những phong tục và huấn thị của Giáo Hội như đã được ban bố đặc biệt cho địa phương mà con đang sống."


Trích từ NguoiTinHuu.com

27 Tháng Tám
Ăn Cắp Lửa Trời


Thần thoại Hy Lạp có kể lại câu chuyện của thần Prométhée ăn cắp lửu trời để sáng tạo con người.

Theo óc tưởng tượng của người Hy Lạp, Thiên Triều do thần Zeus cai trị gồm có hai loại thần: các đại thần và tiểu thần. Tiểu thần là các vị thần đã bị nhóm các vị thần trung thành với Ngọc Hoàng Zeus đánh đổ... Trong số các tiểu thần thất sủng ấy, Prométhée là vị thần duy nhất vẫn còn được Ngọc Hoàng Zeus tín nhiệm nên ban cho quyền tạo dựng con người và súc vật trên mặt đất.

Ngày nọ, Prométhée và em của mình đã thí nghiệm khảt năng sáng tạo của họ. Họ dùng mọi yếu tố trên trần gian để nhào nặn nên con người... Thế nhưng, giống người mà họ tạo nên vẫn chết cứng bởi vì còn thiếu lửa. Nhưng lửa thì chỉ có các vị đại thần trên thiên triều mới nắm giữ. Thế là Prométhée đã lén đến lò rèn của thần Hephetus để đánh cắp lửa thiêng. Lửa ăn cắp từ thiên triều đx lan tràn khắp mặt đất làm cho con người được sưởi ấm và hân hoan.

Ngọc Hoàng Zeus đã hay biết mọi chuyện. Ông nổi giận lôi đình và cho sấm sét đến lay chuyển cả mặt đất... Vì tội ăn cắp lửa trời, nên Prométhée đã bị Zeus cho trói vào một ngọn núi cao, mỗi ngày diều hâu đến mổ vào gan của ông.

Huyền thoại Prométhée trên đây như muốn nói lên sự khao khát vô tận và khả năng khoa học gần như không giới hạn của con người... Khả năng đó là một thể hiện của chính hình ảnh Thiên Chúa khắc ghi vào con người... Khả năng sáng tạo đó cũng nói lên phẩm giá siêu việt của con người... Khả năng sáng tạo đó, Thiên Chúa phú bẩm cho con người là để phục vụ phẩm giá con người hay để hủy hoại nó? Ðó là câu hỏi đang được đặt ra cho con người của thời đại chúng ta.

Có nhiều người chủ trương rằng do tiến hóa, con người bởi loài khỉ mà ra. Ðứng trên phương diện khoa học thì giả thuyết đó không phải là một điều tưởng tượng... Tuy nhiên, một thách đố có thể đặt ra cho con người là: liệu có thể có một tiến trình ngược lại theo đó con người có trở thành khỉ không?

Cách đây không lâu, ông Chiarelli, một giáo sư nhân chủng học tại đại học Firenze bên Italia đã đề nghị cho khỉ cái được thụ tinh nhân tạo với tinh trùng của người nam. Giống sinh vật do sự lai giống này sinh ra sẽ là một con vật nửa người nửa khỉ. Mục đích được tạo dựng của giống sinh vật này là để dùng vào các công tác tạp dịch hoặc để lấy các cơ phận của nó ghép vào các bệnh nhân.

Vấn đề được đặt ra là: giống sinh vật nửa người nửa khỉ này nếu dùng được ngôn ngữ của con người, nó sẽ xưng hô thế nào với người cho tinh trùng từ đó nó được thụ thai? Dù muốn dù không, không ai có thể chối bỏ được phụ tính của người đàn ông cho tinh trùng. Nói một cách nôm na, giống sinh vật nửa người nửa khỉ này là con của ông, nó có quyền gọi ông là cha... Vậy thì, có người cha nào muốn dùng con mình vào những cuộc thử nghiệm không? Có người cha nào muốn biết con của mình thành một con thú hay không?

Ðặt câu hỏi như thế không phải là xa vời, bởi vì dưới ánh mặt trời này, khi con người chối bỏ lẫn nhau, khi con người không còn biết nhìn nhận phẩm giá siêu việt của người khác, thì chuyện gì xem ra cũng có thể xảy đến... Hitler đã giết hại 6 triệu người Do Thái, Polpot đã tiêu diệt gần 2 triệu đồng bào ruột thịt của mình. Cả hai đều xây dựng trên một lý thuyết: con người chỉ là một con vật!

Câu chuyện khoa học trên đây có quá xa vời với chúng ta không? Dù trong nghiên cứu khoa học, trong các hoạt động chính trị hay trong các giao tế hằng ngày: vấn đề vẫn giống nhau. Mỗi khi con người chối bỏ phẩm giá của người khác là lúc con người cũng muốn biến người đó thành một loài khỉ và dĩ nhiên theo một thứ luận lý rất chặt chẽ, con người cũng tự nhận mình là khỉ.


Trích sách Lẽ Sống


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét