06/01/2019
Chúa Nhật CHÚA HIỂN LINH năm C.
Lễ trọng. Lễ HỌ.
(phần II)
Phụng vụ Lời Chúa: Chúa Nhật Lễ Chúa Hiển
Linh
CHÚA NHẬT LỄ CHÚA HIỂN LINH NĂM C
Is 60,1-6; Ep 3,2-3a.5-6; Mt 2,1-12
Is 60,1-6; Ep 3,2-3a.5-6; Mt 2,1-12
THỜ LẠY VÀ DÂNG TIẾN
“Họ vào nhà, thấy Hài Nhi…liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo
tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến” (Mt 2,11)
I.
CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài
đọc I - Is 60,1-6
Bài đọc I hôm nay nằm trong những chương của sách
ngôn sứ Isaia nói hoàn toàn về ơn cứu độ. Trong các chương 60-62 này, chúng ta
không đọc thấy những lời kết tội hay đe dọa, cũng không có điều kiện cho những
người đón nhận ơn cứu độ ngoài lòng muốn đón nhận ơn cứu độ. Do đó, bài đọc hôm
nay là một bài ca tuyệt vời tràn ngập niềm vui, niềm hi vọng của ơn cứu độ. Nó
diễn tả cảnh huy hoàng của thành Sion vào ngày Đức Chúa xuất hiện. Sion bừng
sáng không phải tự nó, nhưng là nhờ ánh sáng của Đức Chúa. Các dân tộc đang sống
trong bóng tối của đau khổ tội lỗi sẽ lần bước tìm về với ánh sáng của Sion, vì
đó chính là ánh sáng cứu độ mà Thiên Chúa mang đến. Hình ảnh các dân tộc kéo về
Giêrusalem cùng với muôn vàn thú vật và vàng bạc trầm hương diễn tả sự giàu có
sung túc và hạnh phúc của thành thánh trong ngày Đức Chúa xuất hiện.
Hình ảnh ánh sáng và vinh quang thường gặp thấy
trong các Thánh vịnh ca ngợi vương triều của Thiên Chúa, hát mừng ngày đăng
quang của Đức Chúa. Trong Is 6,3-5 ngôn sứ Isaia cũng đã nói về vinh quang của
Đức Chúa được tỏ hiện khi vương quốc của Người được thiết lập và khi vương quyền
Người được loan báo ở Sion. Bài đọc hôm nay công bố sự thiết lập vương triều của
Đức Chúa ở Giêrusalem qua sự xuất hiện của ánh sáng và vinh quang của Người. Và
khi đó các dân sẽ tìm về theo ánh sáng của Người để được ơn cứu độ. Ánh sáng của
Người chiếu soi mọi dân, soi những người đang ngồi trong bóng tối; vinh quang của
Người nâng dậy những ai mệt mỏi rã rời. Mọi người đến với Người để được yêu
thương che chở và cùng chia sẻ những hạnh phúc và niềm vui. Ở Giêrusalem, thành
đô Sion, Thiên Chúa quy tụ và mang đến niềm vui và ơn cứu độ cho mọi người tìm
đến với Người, không phân biệt màu da tiếng nói hay giai cấp địa vị. Mọi người
cùng được mời gọi vui lên, bừng sáng lên cùng Sion, cùng Giêrusalem, thành đô
thiên quốc trong ngày Đức Chúa xuất hiện.
2. Bài
đọc II - Ep 3,2-3a.5-6
Thánh Phaolô trong bài đọc II đã khẳng định rằng ơn
cứu độ không dành riêng cho dân Do thái theo huyết thống, nhưng cả những người
dân ngoại, những người không phải là Do thái, cũng được “cùng thừa kế gia nghiệp
với người Do thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa
hứa”. Dân mới của Đức Chúa, dân Người quy tụ trong thành Giêrusalem thiên quốc
sẽ bao gồm mọi sắc dân thuộc mọi ngôn ngữ, tất cả những ai tin vào Người. Họ
không phải chỉ là những thành phần thêm vào trong dân của Thiên Chúa, nhưng
chính là những người đồng thừa hưởng gia nghiệp và phúc lành mà Thiên Chúa đã hứa
ban, điều mà Người đã mạc khải cho các thánh Tông đồ và ngôn sứ.
3. Bài
Tin Mừng - Mt 2,1-12
Đoạn Tin Mừng theo thánh Mátthêu chúng ta vừa nghe
tường thuật lại việc các nhà chiêm tinh theo ánh sao đi tìm Hài Nhi Giêsu vừa
chào đời và cuộc gặp gỡ của họ với Vua Hêrôđê và các nhà lãnh đạo Do thái. Đoạn
Tin Mừng thuật lại những hình ảnh, những thái độ và những hành động trái ngược
của các nhà chiêm tinh và “dân Do thái” trước sự kiện ngôi sao lạ xuất hiện báo
tin sự ra đời của Đức Vua dân Do thái.
Trước hết, các nhà chiêm tinh là những học giả Đông
phương, thông thạo chiêm tinh; có thể họ đã biết về trào lưu chờ đợi Đấng Mêsia
nơi dân Do Thái, nên khi thấy ngôi sao lạ xuất hiện, họ đã nghĩ đến “Vua dân Do
thái”, Đấng Mêsia đã đến. Truyền thống sau này đã nghĩ rằng họ là 3 vị vua với
3 loại lễ vật khác nhau; người ta còn gán cho các vị ấy tên Gaspar, Balthasar
và Melchior. Các nhà chiêm tinh nhìn thấy ánh sao xuất hiện bên phương Đông nên
đã đi tìm, nhưng vì không biết chính xác nơi Đấng Mêsia sẽ xuất hiện nên họ đã
đến hỏi Vua Hêrôđê về nơi Đức Vua dân Do thái mới sinh. Được Vua Hêrôđê dặn dò,
họ đã tiếp tục ra đi, và ngôi sao họ nhìn thấy trước kia lại tiếp tục hướng dẫn
họ đến tận nơi Hài Nhi đang ở. Nhìn thấy Hài Nhi, họ lấy lễ vật để dâng tiến
Người.
Những nhà chiêm tinh là những người dân ngoại, chỉ
biết về Đấng Mêsia qua những kiến thức không chắc chắn, nhưng họ đã khao khát,
mau mắn tìm kiếm Đấng Mêsia, nên đã đi tìm hiểu để có thể gặp được Người. Họ ra
đi ngay trong đêm vì nao nức tìm gặp Hài Nhi, vì có ánh sao chỉ đường cho họ. Gặp
được Hài Nhi họ đã nhận ra đây chính là vị Cứu Thế nên đã bái lạy và dâng những
lễ vật thường được dâng tiến cho một vị Vua. Những người ngoại giáo này đã tìm
gặp được Đấng Cứu Thế nhờ lòng chân thành yêu mến của mình.
Còn Vua Hêrôđê và các nhà lãnh đạo khác thì sao? Họ
đã phản ứng hoàn toàn trái ngược với các nhà chiêm tinh. Phản ứng đầu tiên
chúng ta đọc thấy chính là sự bối rối của Vua Hêrôđê, cũng như tâm trạng xôn
xao của dân thành Giêrusalem. Họ không vui mừng như các nhà chiêm tinh, không
ra đi tìm Hài Nhi, nhưng lại lo lắng. Vì sao? Vì sự xuất hiện của Vua dân Do
thái sẽ đe dọa ngai vàng của Vua Hêrôđê, vì sự xuất hiện của vị Vua mới đòi những
thay đổi nơi dân chúng. Họ cảm thấy bất an sợ hãi. Chính dân Do thái là những
người đã được mạc khải, được loan báo về sự ra đời của Đấng chăn dắt Israel. Họ
đã biết những lời các ngôn sứ loan báo về sự ra đời của vị Mục tử này. Họ đã có
thể giải thích cho các nhà chiêm tinh và hướng dẫn các vị này đi đến Bêlem để gặp
Hài Nhi, còn chính họ thì dửng dưng trước sự kiện này, hay đúng hơn họ đang có
những tính toán, lo lắng cho cuộc đời của mình.
Nếu như các nhà chiêm tinh đã để cho ánh sao của Đấng
Cứu Thế hướng dẫn mình, để cho những lời Kinh Thánh soi sáng mình, thì ngược lại,
Vua Hêrôđê cùng các thượng tế và kinh sư lại nhắm mắt, bịt tai trước các mạc khải,
các sứ điệp và các lời mời gọi về tin vui cứu độ. Các nhà chiêm tinh là những đại
diện của dân ngoại, đã trở thành những người đón nhận ơn cứu độ. Ngược lại, Vua
Hêrôđê và các nhà lãnh đạo Do thái, những người thừa hưởng lời hứa cứu độ, lại
tự đặt mình ra ngoài chương trình cứu độ của Thiên Chúa, đã trở nên thù địch với
ơn cứu độ.
II. GỢI
Ý MỤC VỤ
1. Các nhà chiêm tinh đã nhận được sự thúc đẩy
đầu tiên khi nghiên cứu thiên văn. Đến Giêrusalem, các vị lại nhận được một
thông tin chính xác hơn rút từ Kinh Thánh. Các vị đã can đảm lấy quyết định lên
đường và cứ dò dẫm từng bước, và Thiên Chúa đã dẫn dắt các vị đạt tới mục tiêu
bằng “ngôi sao” dẫn đường. Bởi vì các vị không kháng cự lại và không quản ngại
mệt nhọc, trái lại đã chấp nhận được hướng dẫn, các vị đã vui sướng đạt tới mục
tiêu. Thiên Chúa luôn đáp ứng những ai tha thiết tìm ơn cứu độ, dù đôi khi người
trong cuộc cảm thấy đường đi không rõ và mục tiêu mịt mù. Chúng ta có khao khát
tìm kiếm Thiên Chúa như các nhà chiêm tinh không? Giữa những nghi ngại của thế
giới hôm nay, giữa những trào lưu dửng dưng tôn giáo và tục hóa mọi điều thánh
thiêng, chúng ta có còn kiên vững theo Chúa hay không?
2. Các nhà chiêm tinh không thấy vinh quang hay
uy quyền của Hài Nhi Giêsu, nhưng các vị đã bái lạy mà nhìn nhận Người là Chúa
tể, là Đức Vua và vị Mục Tử của Dân ngoại, vì các vị tin. Đức tin cần thiết cho
từng bước đi tới chỗ nhận biết Đức Chúa. Mỗi khi chúng ta cảm thấy lạc lối
trong đời sống đạo, không nhìn thấy Chúa hay cảm thấy không có Chúa trong cuộc
đời mình, thử xét lại xem mình có xác tín, có đủ niềm tin để nhận ra Chúa trong
những điều xem ra tầm thường hay ngay cả không thể chấp nhận được.
3. Hình ảnh các nhà chiêm tinh đến gặp Vua
Hêrôđê để được biết thêm về nơi sinh của Vua dân Do thái, Đấng Mêsia cũng nhắc
chúng ta về nghĩa vụ giới thiệu về Đấng Cứu Thế cho những ai chưa nhận biết Người.
Chúng ta đã chuẩn bị cho mình một sự hiểu biết cần thiết, nhất là một xác tín về
Người để có thể trình bày và dẫn đưa những ai khao khát tìm về với Người chưa?
III.
LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ
tế: Anh chị em
thân mến! Thiên Chúa muốn tỏ mình cho nhân loại trong Đức Giêsu Kitô để bất cứ
ai tin nhận Người là Con Thiên Chúa và là Đấng Cứu Thế thì được ơn cứu rỗi. Cộng
đoàn chúng ta hãy thành tâm cảm tạ Chúa và tin tưởng cầu xin:
1. Chúa đã dùng ánh sao lạ dẫn đường cho các đạo sĩ
phương đông đến thờ lạy Hài Nhi Giêsu. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các vị chủ
chăn trong Hội Thánh được đầy ơn khôn ngoan và lòng nhiệt thành, trở nên ánh
sáng soi lối cho mọi người nhận biết Thiên Chúa.
2. Nhiều người trên thế giới và tại đất nước Việt
Nam chưa tin nhận Chúa. Chúng ta cùng cầu nguyện cho những người thành tâm thiện
chí biết dõi theo ánh sáng của Chúa soi dẫn để tìm kiếm và tin nhận Đức Kitô là
đường, là sự thật và là sự sống cho cuộc đời họ.
3. Các đạo sĩ đã sấp mình thờ lạy và dâng tiến lễ vật
cho Hài Nhi Giêsu. Chúng ta cùng cầu xin cho mọi kitô hữu biết thành kính tôn
thờ và phụng sự Chúa qua đời sống cầu nguyện cùng các cử hành phụng vụ, đồng thời,
luôn nỗ lực thực thi công bình bác ái trong đời sống.
4. Lời Chúa chính là ánh sáng dẫn đưa con người đến
sự thật và sự sống. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn
chúng ta luôn yêu mến, năng suy niệm cùng thực hành Lời Chúa, hầu trở nên men
muối cho đời và chiếu tỏa ánh sáng cho trần gian.
Chủ
tế: Lạy Thiên Chúa
là Đấng cứu độ, xin đoái nhận tâm tình cảm tạ và lời cầu xin tha thiết của dân
Chúa. Xin giúp chúng con trong cuộc sống hằng ngày biết nỗ lực trở nên ánh sao
dẫn lối chỉ đường cho những người chung quanh tin nhận Đức Giêsu Kitô, Con Chúa.
Người hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.
SCĐ Lễ Hiển Linh A,B,C
CHÚA GIÊSU
LÀ ÁNH SÁNG CỦA MUÔN DÂN
LÀ ÁNH SÁNG CỦA MUÔN DÂN
“Khi Đức Giêsu sinh ra tại Bêlem, có mấy đạo sĩ từ Phương đông đến
bái lạy Ngài” (Mt 2,1-2)
Sợi chỉ
đỏ :
– Bài
đọc I : “Hỡi Giêrusalem hãy tỏa sáng, các dân sẽ lần bước tìm về sự sáng của
ngươi.”
– Đáp
ca : “Lạy Chúa, các dân nước sẽ ca ngợi Ngài.”
– Tin
Mừng : “Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Ngài ở phương Đông và chúng tôi đến
để triều bái Ngài.”
– Bài
đọc II : “Nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được nên đồng thừa tự, đồng một thân
thể và đồng thông phần với lời hứa của Ngài trong Chúa Giêsu Kitô.”
I .DẪN
VÀO THÁNH LỄ
Chúa
Giêsu là ánh sáng. Trong dịp lễ Giáng sinh, Ngài đã chiếu sáng các nhà thờ và
các gia đình tín hữu. Nhưng Ngài còn muốn là ánh sáng cho tất cả mọi người nữa.
Ngày
hôm nay chúng ta mừng lễ Hiển linh, kỷ niệm việc ngày xưa Chúa Giêsu đã tỏ mình
ra cho các đạo sĩ, đại diện cho lương dân. Chúng ta hãy cầu nguyện cho những
người ngoài Kitô giáo cũng nhận được ánh sáng Chúa ; và cho chính chúng ta
ý thức bổn phận mang ánh sáng Chúa đến cho mọi người.
–
Chúng ta có tội vì quá thờ ơ với việc mang ánh sáng Tin Mừng đến cho lương dân.
–
Chúng ta có tội vì cộng đoàn xứ đạo chúng ta không nêu gương sáng trước mặt mọi
người.
–
Chúng ta có tội vì không quan tâm tìm ý Chúa qua những đấu chỉ hằng ngày.
Mặc
dù đang sống trong chốn lưu dày, ngôn sứ Isaia đã mơ tới ngày hồi hương. Khi đó
Giêrusalem sẽ được tái thiết lại huy hoàng và là nơi thu hút muôn dân tuôn đến :
–
Trong khi cả trái đất ngập chìm trong tăm tối thì Giêrusalem lại bừng sáng, vì
có Chúa là Ánh sáng đang ngự ở đó.
– Bởi
thế, muôn dân từ khắp nơi sẽ tuốn về ánh sáng của Giêrusalem.
Trên
thực tế, dân do thái đã được hồi hương và Giêrusalem đã được tái thiết. Nhưng
Giêrusalem đâu có được đúng như Isaia đã mơ. Giấc mơ của Isaia chỉ được thực hiện
trọn vẹn nơi Đức Giêsu. Ngài chính là Ánh sáng đến trần gian.
Tv
này cầu nguyện cho một vị vua lý tưởng mà trong triều đại ngài hòa bình và công
lý ngự trị, mọi người đều hạnh phúc.
Vị
vua lý tưởng ấy cũng chính là Chúa Giêsu.
Các
“đạo sĩ” là những nhà trí thức ở vùng Babylon phía Đông xứ Palestine. Do niềm
tin có phần mê tín rằng ngôi sao lạ là điềm báo một Đấng cứu tinh đã sinh ra, họ
đã đi theo ánh sao và tìm đến với Hài nhi Giêsu.
Nhưng
cuộc hành trình của các vị cũng không phải là trơn tru dễ dàng vì có lúc ánh
sao biến mất. Nhưng nhờ các vị kiên trì, ánh sao đã xuất hiện lại và cuối cùng
các vị đã tìm đến nơi.
Như
thế, qua ánh sao lạ, Chúa Hài nhi đã tỏ mình ra cho đại diện lương dân, đang
khi các nhà trí thức do thái ở Giêrusalem tuy thông thạo Thánh Kinh nhưng đã
không nhận ra Chúa.
Để thấy
được nét độc đáo của đoạn thư này, trước hết chúng ta hãy lưu ý đến tâm thức của
người do thái : họ cho rằng dân tộc họ được Thiên Chúa đặc biệt tuyển chọn,
cho nên ơn cứu độ là độc quyền của họ.
Thánh
Phaolô thì không nghĩ như vậy. Trong thư viết cho dân thành Êphêxô, một “dân
ngoại”, ngài tiết lộ cho họ biết một “mầu nhiệm”, đó là Thiên Chúa đã trao sứ mạng
cho ngài đem ân sủng của Tin Mừng phân phát cho tất cả các dân. Nhờ Tin Mừng
này, mọi dân tộc đều trở thành “đồng một thân thể” với nhau và với Đức Giêsu
Kitô, hơn thế nữa họ trở nên “đồng thừa tự” để hưởng gia tài của Đức Giêsu Kitô
và “đồng thông phần” với lời hứa cứu độ của Ngài.
Chúa
Giêsu là Ánh Sáng, ánh sáng huy hoàng hơn cả mặt trời.
Nếu mặt
trời không phải là của riêng ai, thì Chúa Giêsu cũng là của mọi người, mọi dân.
Ngài mang ơn cứu độ đến cho muôn dân. “Không ai thắp đèn rồi để dưới đáy thùng,
nhưng đặt trên giá để soi cho mọi người”.
Bởi
thế, ngay sau khi giáng sinh, tỏ mình ra cho những kẻ chăn chiên nghèo hèn,
Chúa Giêsu cũng sớm tỏ mình ra cho các đạo sĩ đại diện cho lương dân.
Vì
Chúa muốn tỏ mình ra cho muôn dân, cho nên lương dân có quyền được biết
Chúa, và những người đã biết Chúa có bổn phận giúp cho lương dân biết
Chúa.
Lời
Chúa trong Thánh lễ hôm nay dùng một hình ảnh vừa rất đẹp vừa rất hay để dạy
chúng ta cách giúp cho người khác biết Chúa, đó là Ánh Sáng :
– Hãy
đưa cao Tin Mừng như người ta nâng cao ngọn đuốc sáng để soi chiếu mọi vùng tăm
tối.
–
Cách sống của những người đã biết Chúa phải là một ngọn đèn sáng gương mẫu cho
những người chung quanh. Chúa Giêsu nói : “Sự sáng của chúng con cũng hãy
tỏa sáng trước mặt mọi người. Còn Thánh Phaolô thì nói : “Anh em hãy chiếu
sáng như những tinh tú trên bầu trời”.
Hành
trình của các đạo sĩ là hình ảnh minh họa cho hành trình của mọi kẻ tin :
a/
Hành trình khởi đầu bằng một điều gì đó lạ lùng khiến người ta chú ý (thí dụ
ánh sao lạ đối với các đạo sĩ). Điều lạ lùng này mời gọi người ta từ bỏ nếp sống
đã quen để dấn thân đi tìm một cái gì đó cao hơn, xa hơn, tốt đẹp hơn.
b/ Tiếp
theo là những bước thăng trầm trong cuộc hành trình : có khi con đường rất
bằng phẳng êm ái, có khi lại quanh co gồ ghề, có lúc ánh sao sáng tỏ trên bầu
trời, có lúc nó vụt biến mất.
c/
Nhưng miễn là người ta không nản lòng mà cứ kiên trì dấn bước thì cuối cùng người
ta sẽ gặp được Chúa.
Đó là
cuộc hành trình của kẻ chưa có đức tin tìm đến với Chúa, mà cũng là cuộc hành
trình của kẻ đã tin rồi nhưng muốn đến với Chúa một cách gần gũi thân tình hơn.
Có những
người tìm kiếm như các đạo sĩ, lên đường như Abraham. Cũng có những người ngồi
một chỗ như Hêrôđê. Muốn biết ư ? Ông đã có các chuyên viên. Muốn tiêu diệt
đối phương ư ? Ông có cả ngàn quân lính dưới quyền. Thiên Chúa hướng dẫn
những ai muốn tìm Người cách lạ lùng. Người trốn thoát khỏi những kẻ muốn tìm bắt.
Người không hung hãn chống lại những kẻ muốn huỷ diệt Người. Người tự xóa mình
đi và biến mất.
Người
ở đâu, Đức Giêsu ẩn dấu của thời đại ? Trong làng quê heo hút nào, trong
gia đình nghèo khó nào có ánh sáng Thiên Chúa mời ta nhận ra Người ? “Ta
đói các ngươi đã cho Ta ăn… Thực, Ta bảo các ngươi : mỗi lần các ngươi làm
cho một trong những kẻ bé nhỏ nhất là anh em Ta đây, là các ngươi làm cho chính
Ta” (Mt 25,35-40). Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng có lời kinh thánh : Ta
đã không bị cám dỗ dùng lời Kinh Thánh để át giọng kẻ quấy rầy ư ? Đức
Giêsu đâu để cho ta đền bù. Nếu ta muốn nắm lấy Người để được an tâm, Người sẽ
thoát khỏi tầm tay ta. Nếu ta chấp nhận lên đường tìm kiếm Người, ta sẽ như các
đạo sĩ, được đầy tràn niềm vui và tìm thấy Người (…) Đọc kỹ Kinh Thánh thôi
chưa đủ, còn phải để Kinh Thánh gợi hứng cho đời ta, để ta đem ra thực hành, để
ta đặt mình dưới sự điều khiển của Kinh Thánh. Các luật sĩ và các thầy thượng tế
biết lời sấm lắm chứ. Nhưng họ chỉ biết trưng dẫn thôi… Hêrôđê thì dùng Kinh
Thánh để tìm cách giết Hài nhi… Còn các đạo sĩ, bản thân chẳng biết Kinh Thánh,
chỉ được Hêrôđê chỉ dẫn, đã lên đường tìm kiếm Đức Giêsu và họ đã gặp Người…
(Mgr Lucien Daloz, Le Règne des cieux s’est approché, Trích dịch bởi Fiches
dominicales, trang 55-56).
Ánh
sáng và bóng tối
Các đạo
sĩ đã đi trong bóng tối nhờ tia sáng của một ánh sao dẫn đường.
Các
ông đã tìm được Chúa vì không sợ bóng tối nhờ tin vào ánh sáng.
Thực
ra, ta chỉ thấy được ánh sáng của ngôi sao khi trời tối
Trời
càng tối thì sao càng sáng.
Tất cả
chúng ta cũng là những khách lữ hành đi trong đêm tối
Nhưng
chúng ta đừng sợ vì Đức Kitô là ánh sáng đã đến trần gian :
–
Ánh sáng bừng lên trong đêm tối
–
Ánh sáng xóa tan tăm tối
–
Ánh sáng mà không sự tối tăm nào dập tắt được.
a/ Tôn
giáo nào có Chúa ?
Ngày
nọ, Chúa và tôi đến một hội chợ, không phải hội chợ thương mại, mà là Hội chợ
Tôn giáo. Nhưng những người tham dự luôn tỏ ra hung bạo và tuyên truyền ầm ĩ.
Tại
quầy hàng của người Do thái, chúng tôi nhận được những tờ quảng cáo nói rằng
Chúa là Đấng thương xót và dân Do thái là dân được Ngài tuyển chọn. Ngoài những
người Do thái, không ai khác được chọn như họ.
Tại
quầy hàng của người Hồi giáo, chúng tôi học biết rằng Chúa đầy lòng khoan dung
và Mohammed là ngôn sứ duy nhất của Ngài. Sự cứu độ đến nhờ việc nghe ngôn sứ
duy nhất của Chúa.
Tại
quầy hàng của người Kitô giáo, chúng tôi khám phá ra Chúa là tình yêu và không
có sự cứu độ ở ngoài giáo hội. Hoặc gia nhập giáo hội hoặc phải chịu kết án đời
đời.
Trên
đường trở ra, tôi hỏi Chúa : “Ngài nghĩ gì về những điều nói về
Chúa ?”
Chúa
nói : “Ta không tổ chức Hội chợ đó. Ta thấy xấu hổ ngay cả khi đến thăm
nó”.
b/ Các
tôn giáo
Chúa
Giêsu nói rằng Ngài chưa bao giờ xem bóng đá. Vì thế, bạn tôi và tôi dẫn Ngài
đi xem một trận. Đó là trận đấu gay cấn giữa những người Tin lành và những người
Công giáo.
Người
Công giáo ghi bàn thắng trước. Chúa Giêsu reo hò và tung mũ lên. Rồi đến người
Tin lành ghi bàn thắng, Chúa Giêsu cũng reo hò và tung mũ. Điều này gây khó chịu
cho anh thanh niên ngồi sau chúng tôi. Anh vỗ nhẹ lên vai Chúa Giêsu và hỏi :
“Này anh bạn tốt, anh ủng hộ bên nào ?”
Lúc
này Chúa Giêsu thấy hứng thú vì trận đấu, Ngài trả lời : “Tôi hả ? Ồ,
Tôi không đứng về bên nào. Tôi chỉ thưởng thức trận đấu”.
Anh
quay sang người bạn bên cạnh, nhếch mép cười : “Hừ, kẻ vô thần“.
Trên
đường trở về, chúng tôi cho Chúa Giêsu biết về tình trạng các tôn giáo trên thế
giới ngày nay : “Chúa ạ, thật buồn cười về những người trong các tôn giáo.
Dường như họ luôn nghĩ rằng Chúa chỉ đứng về phía họ và chống lại những người
khác”.
Chúa
Giêsu đồng ý : “Đó là lý do tại sao Ta không ủng hộ các tôn giáo. Ta ủng hộ
con người. Con người quan trọng hơn tôn giáo. Con người quan trọng hơn ngày
Sabát”.
Một
trong chúng tôi nói với vẻ lo lắng : “Ngài phải thận trọng. Ngài biết,
Ngài đã một lần bị đóng đinh vì nói như thế”.
CT :
Anh chị em thân mến
Thiên
Chúa yêu thương và muốn cứu độ hết thảy mọi người. Người đã dùng ngôi sao hướng
dẫn muôn dân đến gặp gỡ Đấng Cứu Thế. Với tâm tình cảm tạ tri ân Thiên Chúa là
Cha nhân hậu, chúng ta cùng dâng lời cầu xin.
1-
Chúa là Vua lãnh đạo muôn dân / Người đã mời gọi các hiền sĩ / là những người
ngoại giáo đầu tiên đến thờ lạy Người tại Bêlem / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho
mọi người trong Hội Thánh / biết tôn thờ và phụng sự Chúa hết lòng.
2-
Chúa là Vua công bình chính trực / Người đến giải thoát người nghèo cô thân cô
thế / chúng ta hiệp lời cầu xin cho những người cùng khổ sầu đau / luôn được
Chúa thương xót đỡ nâng.
3-
Chúa đến làm ánh sáng chiếu soi muôn người / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những
người đang tìm Chúa / qua những bóng mờ và hình ảnh / được ánh hào quang của Đức
Kitô soi sáng và hướng dẫn / để họ thêm phấn khởi trên đường tìm chân lý.
4-
Mỗi tín hữu phải là một ngôi sao dẫn đường cho người khác tìm về với Chúa /
Chúng ta hiệp lời cầu xin cho công đoàn giáo xứ chúng ta / biết dùng đời sống
bác ái yêu thương / phục vụ khiêm tốn / mà giới thiệu Chúa cho những anh chị em
chưa nhận biết Chúa.
CT :
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã sai chúng con mang sứ điệp Tin Mừng đến tận cùng
trái đất. Xin cho đời sống thường ngày của chúng con thể hiện một cách trung thực
tình yêu bao la của Chúa đối với nhân loại. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
– Trước
kinh Lạy Cha : Chúa Giêsu đã tỏ mình ra cho lương dân vì Ngài muốn
quy tụ tất cả mọi người trong Nước của Ngài. Chúng ta hãy cùng với Ngài thiết
tha cầu xin cho Nước Chúa mau trị đến.
Ngày
xưa Chúa đã dùng ánh sao lạ dẫn đường các đạo sĩ đến với Ngài. Ngày nay Ngài muốn
dùng mỗi người chúng ta như một ánh sao lạ dẫn đường cho anh em lương dân đến với
Ngài. Rồi nhà thờ trở về với cuộc sống, chúng ta hãy sống như một ánh sao trước
mặt mọi người. Chúc anh chị em bình an.
Lm.
Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio Divina: Chúa Hiển Linh
Chủ
Nhật 6 Tháng Một, 2019
Hành
trình đức tin của ba vị Đạo Sĩ
Việc
bái thờ Chúa Giêsu Hài Đồng là Vua và là Chúa
Mt
2:1-12
1.
Lời nguyện mở đầu
Lạy
Cha nhân từ, Chúa đã gọi con để gặp gỡ Chúa trong lời này của Tin Mừng, bởi vì
Chúa muốn con được có sự sống, Chúa muốn ban cho con chính bản thân
Chúa. Con cầu xin Chúa, xin Chúa hãy sai Thánh Thần Chúa xuống trên
con để con được dẫn dắt trên con đường thiên liêng của đoạn Kinh Thánh
này. Hôm nay, nguyện xin cho con có thể bước ra khỏi nhà tù của
chính mình để bắt đầu cuộc hành trình đi tìm kiếm Chúa. Xin cho con
có thể nhận ra ánh sao mà Chúa đã thắp sáng như là dấu hiệu tình yêu của Chúa
trên cuộc hành trình của con để bước theo nó không hề mệt mỏi, một cách mạnh dạn,
dấn thân cả cuộc đời con. Cuối cùng, xin cho con được bước vào nhà
Chúa và ở đó được trông thấy tôn nhan Chúa, xin cho con biết cúi lạy cách khiêm
tốn để bái thờ trước nhan Chúa và dâng lên Chúa cuộc sống của con, cả con người
con và tất cả những gì con có. Lạy Chúa, nhờ vào ân sủng Chúa, xin
cho con có thể trở về bằng một con đường mới, mà không bao giờ đi qua những con
đường cũ của tội lỗi.
2.
Bài đọc
a)
Bối cảnh của đoạn Tin Mừng
Đoạn
Tin Mừng này thuộc về hai chương đầu tiên của sách Tin Mừng Mátthêu, tạo thành
lời mở đầu cho toàn bộ tác phẩm. Ở đây chúng ta được giới thiệu về
nguồn gốc lịch sử của Đấng Cứu Thế là con cháu của vua Đavít, cũng như nguồn gốc
thiên tính của Đức Giêsu Kitô, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta. Ngay lập
tức, thánh Mátthêu dẫn chúng ta vào trong một sự suy niệm sâu lắng và lôi cuốn,
đặt trước chúng ta một sự chọn lựa chính xác qua con người mà ông giới thiệu
trong câu chuyện: chúng ta hoặc nhận ra và chào đón Chúa là Đấng vừa
được sinh ra, hay là chúng ta vẫn lãnh đạm thờ ơ, thậm chí còn muốn loại trừ và
giết bỏ Người. Đoạn Tin Mừng này cống hiến cho chúng ta một câu chuyện
đẹp về cuộc hành trình của ba nhà Đạo Sĩ, những người đến từ phương xa bởi vì họ
muốn tìm kiếm và chào đón, yêu thương và tôn thờ Chúa Giêsu. Nhưng
cuộc hành trình dài và miệt mài tìm kiếm của họ, việc hoán cải tâm hồn của họ
là sự kiện đang nói về chúng ta, sự kiện đã được ghi lại trong cuốn sách câu
chuyện thiêng liêng của chính chúng ta.
b)
Phần phụ chú để giúp cho việc đọc bài Tin Mừng:
Đoạn
Tin Mừng này có thể được chia ra làm hai phần chính, được xác định theo nơi câu
chuyện xảy ra: phần thứ nhất (đoạn 2:1-9a) xảy ra tại Giêrusalem,
trong khi phần thứ hai lại tập trung xung quanh thành Bêlem (đoạn 2:9b-12).
Mt
2:1-2: Đoạn
Tin Mừng bắt đầu với những dấu hiệu chính xác như nơi chốn và thời gian chào đời
của Chúa Giêsu: tại Bêlem, thuộc xứ Giuđêa, trong đời vua
Hêrôđê. Trong lời mô tả khá rõ ràng này, các nhà Đạo Sĩ đột nhiên xuất
hiện, những người đến từ phương xa, tìm đến Giêrusalem dưới sự hướng dẫn của một
ánh sao. Chính họ là những người loan báo sự ra đời của vị Vua Thiên
Chúa. Họ hỏi thăm xem Người hiện đang ở đâu bởi vì họ muốn đến để
triều bái Người.
Mt
2:3-6: Khi nghe
những lời của các vị Đạo Sĩ nói, vua Hêrôđê, và tất cả thành Giêrusalem cùng với
nhà vua, bối rối và sợ hãi. Thay vì chào đón Chúa và chọn Người, họ
tìm cách trừ khử Người. Vua Hêrôđê triệu tập tất cả các thượng tế Do
Thái và Kinh Sư trong dân. Chính các nhà Đạo Sĩ, nhờ sự giúp đỡ của
các ngôn sứ thuở xưa, là những người nói và mặc khải Bêlem là nơi để tìm thấy Đấng
Mêssia.
Mt
2:7-8: Vua
Hêrôđê ngầm cho vời các nhà Đạo Sĩ bởi vì nhà vua muốn dùng họ cho mục đích xấu
xa của mình. Việc hỏi han cặn kẽ của nhà vua hoàn toàn nhắm vào việc
loại trừ Đức Kitô.
Mt
2:9a: Các
nhà Đạo Sĩ, được thúc đẩy bởi sức mạnh đức tin và được hướng dẫn bởi ánh sao, lại
lên đường và hướng về thành Bêlem.
Mt
2:9b-11: Ngôi
sao lại xuất hiện, đi với các vị Đạo Sĩ và dẫn họ đến đúng nơi chỗ Chúa Hài Đồng
Giêsu ở. Tràn đầy niềm vui mừng, họ tiến vào nhà và phủ phục sụp lạy
Người; họ dâng tiến Người lễ vật quý giá vì họ nhận biết Người là vua và là
Chúa.
Mt
2:12: Khi đã
chiêm ngắm và thờ lạy Chúa, các vị Đạo Sĩ nhận được sự mặc khải từ Thiên Chúa;
chính Chúa nói với họ. Các ông là những con người mới; họ có trong
mình một trời mới đất mới. Các vị Đạo Sĩ đã thoát khỏi sự lừa dối của
vua Hêrôđê, và do đó, họ quay trở lại với đời sống mình bằng một nẻo đường hoàn
toàn mới.
c)
Phúc Âm:
1 Khi Chúa Giêsu sinh hạ tại Bêlem, thuộc
xứ Giuđêa, trong đời vua Hêrôđê, có mấy nhà đạo sĩ từ Đông Phương tìm đến
Giêrusalem. 2 Các ông nói: “Vua người Do-Thái mới
sinh ra hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở
Đông Phương, và chúng tôi đến để triều bái Người.”
3 Nghe nói thế, vua Hêrôđê bối rối,
và tất cả Giêrusalem cùng với nhà vua. 4 Vua đã triệu tập
tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân, và hỏi họ cho biết nơi mà Đức Kitô
sinh hạ. 5 Họ tâu nhà vua rằng: “Tại
Bêlem thuộc xứ Giuđêa, vì đó là lời do đấng tiên tri đã chép: 6 “Cả
ngươi nữa, hỡi Bêlem, đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các
thành trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ
chăn nuôi Israel dân tộc của Ta.”
7 Bấy giờ Hêrôđê ngầm triệu mấy nhà
Đạo sĩ tới, cặn kẽ hỏi han họ về thời giờ ngôi sao đã hiện ra. 8 Rồi
vua phái họ đi Bêlem và dặn rằng: “Các khanh hãy đi điều tra cẩn thận
về Hài Nhi, rồi khi đã gặp thấy, hãy báo tin lại cho trẫm, để cả trẫm cũng đến
triều bái Người.” 9 Nghe nhà vua nói, họ lên đường. Và
kìa ngôi sao họ xem thấy ở Đông Phương, lại đi trước họ, mãi cho tới khi tới
nơi và đậu lại trên chỗ Hài Nhi ở. 10 Lúc nhìn thấy ngôi
sao, họ hết sức vui mừng. 11 Và khi tiến vào nhà, họ đã gặp
thấy con trẻ và Đức Maria, mẹ Người, và họ đã quỳ gối xuống, sụp lạy Người. Rồi,
mở bảo tráp ra, họ đã dâng tiến Người lễ vật: vàng, nhũ hương, và mộc
dược.
12 Và khi nhận được lời mộng báo “Đừng trở
lại với Hêrôđê”, họ đã qua đường khác, trở về xứ sở mình.
3.
Giây phút thinh lặng cầu nguyện
Tôi lắng
nghe thật sâu tiếng nói thì thầm của Chúa và để cho hơi thở của Chúa Thánh Thần
đến với tôi và truyền cho tôi. Trong sự thinh lặng này, tôi đi tìm
kiếm Chúa và lặp lại trong lòng tôi: “Lạy Thiên Chúa của con, Chúa
đang ở đâu?”
4.
Một vài câu hỏi gợi ý
a) Tôi dùng những lời đầu tiên phát ra từ
miệng các nhà Đạo Sĩ và làm cho chúng trở thành của riêng tôi: “Vua
dân Do-Thái mới sinh ra hiện đang ở đâu?” Tôi có thực sự cảm thấy
bị lôi cuốn đến nơi Chúa ở bởi vì tôi mong ước được ở bên cạnh Người
không? Tôi có sẵn sàng lìa bỏ nơi tối tăm và cũ kỹ của thói quen của
tôi, của sự thoải mái của tôi, để thực hiện một cuộc hành trình đức tin trong
việc tìm kiếm Đức Giêsu không?
b) “Chúng tôi đến để triều bái Người.” Ở đây Lời Chúa kiểm định
tôi, đặt tôi qua một thử thách: tôi có thực sự sống trong một mối
quan hệ yêu thương với Thiên Chúa không? Tôi có thể nào rộng mở cuộc
sống tôi trong sự hiện diện của Người và để cho Người ngự vào trong mỗi nhịp đập
của tim tôi không?
c) “Vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh,
Người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta.” Tôi có khả năng đặt và dâng trọn xác hồn
tôi cho sự hướng dẫn của Chúa, tin cậy nơi Ngài, tin vào tình yêu của Ngài,
trong sự hiện diện rất thật của Ngài dù rằng Ngài vẫn vô hình không?
d) “Khi tiến vào nhà, họ đã gặp thấy con trẻ.” Đó chính là bởi vì họ chấp nhận bước vào
trong nhà, bước vào sự hiệp thông, dâng trọn vẹn và thật sự con người họ để mắt
họ có thể trống thấy, chiêm ngưỡng và nhận ra. Tại sao tôi không nhận
thức được thực tế là khi tôi càng ở bên ngoài, thì tôi càng xa cách với cuộc sống
anh chị em tôi và tôi càng trở nên u buồn và trống trải?
5.
Chìa khóa dẫn đến bài đọc
Tôi
tìm một số chữ chính, một số chủ đề căn bản, để có thể hướng dẫn và giúp tôi hiểu
thấm hơn ý nghĩa của đoạn Tin Mừng này, để cho đời tôi có thể được soi sáng và
thay đổi bởi Lời của Chúa.
* Hành
trình: Đoạn
Tin Mừng này dường như trải qua với chủ đề lớn của một cuộc hành trình, một cuộc
xuất cư, một chuyến đi. Các vị Đạo Sĩ, những nhân vật bí ẩn, ra đi,
đi xa khỏi miền đất của họ và đi tìm kiếm vị vua, Chúa. Thánh
Mátthêu trình bày dữ kiện này bằng một số các động từ song song với sự phát triển
của sự kiện: tìm đến, chúng tôi đến, phái đi, đi, lên
đường, đi trước họ, tiến vào, đừng trở lại, trở về. Cuộc
hành trình thể lý của các vị Đạo Sĩ ẩn dấu một cuộc hành trình rất quan trọng
và có ý nghĩa hơn, cuộc hành trình đức tin. Đây là sự chuyển động của
tâm hồn được nảy sinh từ lòng ước ao gặp gỡ và biết Chúa. Đồng thời,
đó là lời mời gọi của Thiên Chúa, Đấng kêu gọi và lôi cuốn chúng ta với quyền
năng của Người; chính Người là Đấng nâng chúng ta dậy và chuẩn bị cho chúng ta
lên đường, Đấng ban cho chúng ta các dấu chỉ và không ngừng đồng hành với chúng
ta. Kinh Thánh cho chúng ta nhiều ví dụ quan trọng và những điều đó
giúp cho chúng ta bước vào con đường của ân sủng và phúc lành
này. Thiên Chúa đã phán bảo ông Abraham rằng: “Hãy
rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi” (St
12:1). Ông Giacóp cũng là một người hành hương của
đức tin và sự hoán cải; trên thực tế, Thánh Kinh đã viết về
ông: “Giacóp ra khỏi Bơ-e-Seba và đi về Kharan” (St 28:10) và
“Giacóp cất bước đi về đất con cái Phương Đông” (St 29:1). Nhiều năm
sau đó, Đức Chúa đã phán với ông rằng: “Hãy trở về quê cha đất tổ, về
với họ hàng ngươi; Ta sẽ ở với ngươi” (St 31:3). Ông Môisen cũng là
người đi trên một cuộc hành trình; chính Thiên Chúa đã chỉ cho ông đường đi, cuộc
Xuất Hành, trong tâm hồn ông, trong cõi lòng ông, và được làm bằng cả cuộc đời
ông cho cuộc hành trình dài của ơn cứu độ cho ông và cho dân tộc
ông: “Bây giờ, ngươi hãy đi! Ta sai ngươi đến với Pharaô
để đưa dân Ta là con cái Israel ra khỏi Ai-Cập!” (Xh 3:10). Dân
riêng mới của Chúa cũng thế, chúng ta là con cái của lời hứa và giao ước mới, hằng
được gọi để lên đường và ra đi trên cuộc hành trình theo chân của Chúa
Giêsu. Cuộc xuất hành không bao giờ ngừng; cuộc giải phóng xuất phát
từ đức tin thì vẫn luôn năng động. Chúng ta hãy nhìn vào Chúa Giêsu,
vào các vị tông đồ của Người, vào thánh Phaolô: không ai đứng yên tại
chỗ, không ai lẩn tránh. Tất cả các nhân chứng này nói với chúng ta
ngày nay bằng những hành động của họ và họ lặp lại: “Phúc thay kẻ lấy
Ngài làm sức mạnh, ấp ủ trong lòng giấc mộng hành hương” (Tv 84:6).
* Ngôi
sao: Đây là
một yếu tố trọng tâm và rất quan trọng trong đoạn Tin Mừng này bởi vì ngôi sao
có vai trò hướng dẫn các vị Đạo Sĩ đi đến nơi họ định đến, nó là sự soi sáng
cho họ trong những đêm trên cuộc hành trình, nó chỉ đúng nơi có sự hiện diện của
Chúa, nó cho một niềm vui tuyệt vời trong tim họ. Khắp suốt bộ Kinh
Thánh, ngôi sao xuất hiện như là dấu chỉ của sự chúc phúc và vinh quang, gần
như là một hiện thân của Thiên Chúa, Đấng không bỏ rơi dân Ngài, và đồng thời,
sự nhân cách hóa của dân tộc đã không quên Thiên Chúa của họ và chúc tụng Ngài
(xem Tv 148:3; Br 3:34). Từ ngữ ngôi sao xuất hiện
lần đầu tiên trong Kinh Thánh trong sách Sáng Thế Ký 1:16, khi mà vào ngày thứ
tư, câu chuyện về Thiên Chúa sáng tạo trời đất cho chúng ta biết về sự xuất hiện
trên vòm trời: mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao, như là các dấu hiệu và ánh
sáng, để thiết lập trật tự và cho ánh sáng. Thuật ngữ của người Do
Thái về chữ “ngôi sao” (kokhab) rất tuyệt đẹp và đầy ý
nghĩa. Thật ra, những mẫu tự tạo nên chữ mặc khải sự bao la của sự
hiện diện mà các yếu tố thiên thể đi kèm với chúng. Chúng ta thấy
hai chữ caf, có nghĩa là “bàn tay” và kèm theo chữ waw,
có nghĩa là con người, được hiểu trong cấu trúc sự sống của người ấy, trong
xương sống người ấy, giúp cho anh ta đứng vững, giúp anh ta hướng lên trời, tiếp
xúc với Thiên Chúa và là Đấng Tạo Dựng của anh ta. Do đó, bên trong
các ngôi sao có hai bàn tay, mẫu tự caf và caf, được
giữ cách yêu thương trong mẫu tự “waw”, con người: đó là đôi
bàn tay của Thiên Chúa không bao giờ ngừng nắm lấy chúng ta, nếu chúng ta chỉ cần
phó thác cho đôi bàn tay ấy. Sau đó xuất hiện mẫu tự bet,
có nghĩa là nhà. Do đó, các ngôi sao nói với chúng ta về cuộc hành
trình hướng về nhà chúng ta, về cuộc di cư liên tục từ đó và trở về, một khi
chúng ta đã đến, từ ngày tạo thiên lập địa và thậm chí từ đời đời. Thiên
Chúa thường so sánh con cháu của Abraham với sao trên trời, như thể mỗi người
là một vì sao, được sinh ra để cho ánh sáng vào ban đêm: “Hãy ngước
mắt lên trời, và thử đếm các vì sao, xem có đếm nổi không” Và rồi Người lại
thêm rằng: “dòng dõi ngươi sẽ như thế đó!” (St 15:5). Đức
Giêsu là một vì sao, một vì sao xuất hiện từ nhà Giacóp (Ds 24:17), rằng bắt
nguồn từ trên cao, là Sao Mai sáng ngời, như sách Khải Huyền đã viết
(22:16). Thật ra, trong Người tình yêu vô hạn của Thiên Chúa đã mặc
lấy xác thịt, mà chiếu hướng về phía chúng ta, con cái của Người, và mở rộng
vòng tay để tụ tập và chào đón chúng ta. Chỉ có tình yêu như vậy mới
có thể ban cho sự yếu đuối vô hạn của chúng ta khả năng và lòng dũng cảm, sự
kiên trì và niềm hân hoan của việc chấp nhận ra đi, đi trên cuộc hành trình dài
và gian khổ của đức tin, dẫn chúng ta đến làng Bêlem, đến nơi Thiên Chúa xuất
hiện với chúng ta.
* Tôn
thờ triều bái: Hành
động tôn thờ triều bái thì xưa như chuyện nhân loại, bởi vì ngay từ đầu, mối
quan hệ với Thiên Chúa đã được đi kèm theo với nhu cầu của sự yêu thương, của sự
khiêm nhường, của sự tận hiến. Trước sự cao cả của Thiên Chúa, chúng
ta, những con người bé nhỏ, cảm nhận và khám phá ra rằng chúng ta không là gì,
một hạt bụi, một giọt nước trong biển khơi. Trong Cựu Ước, cử chỉ
tôn thờ xuất hiện như một hành động của tình yêu sâu sắc đối với Chúa, một cử
chỉ đòi hỏi sự tham dự của cả bản thân: tâm trí, ý muốn chọn lựa, tình yêu tràn
đầy ước vọng và một bản thân cúi lạy và thậm chí còn phủ phục dưới đất. Người
ta nói rằng ở một vài nơi cử chỉ tôn thờ triều bái được kèm theo cả việc phủ phục
dưới đất; khuôn mặt của một người, ánh mắt, hơi thở của người ấy sẽ trở về bụi
đất một khi người đó có nguồn gốc của mình và tại đó người ấy nhìn nhận mình là
tạo vật của Thiên Chúa, như hơi thở đến từ Thiên Chúa. “Hãy vào đây
ta cúi mình phủ phục, quỳ trước tôn nhan Chúa là Đấng dựng nên ta” (Tv
95:6): đây là lời mời của Kinh Thánh cho chúng ta mỗi ngày, chỉ cho
chúng ta thấy đường đi để chúng ta có thể nhiều lần trở lại với sự thật và để sống
trọn vẹn.
Tân Ước
còn đi sâu hơn trong sự suy niệm tinh thần về sự kiện này và dường như còn muốn
cùng đồng hành với chúng ta trên cuộc hành trình sư phạm của sự hoán cải và trưởng
thành trong đời sống nội tâm của chúng ta. Trong các sách Tin Mừng,
chúng ta thấy các môn đệ, nam và nữ, thờ lạy Chúa Giêsu sau khi Người sống lại
(Mt 28:9; Lc 24:52), bởi vì họ nhận ra Người chính là Thiên Chúa. Lời
của Chúa Giêsu trong cuộc đối thoại với người phụ nữ Samaritanô cho chúng ta một
cái nhìn sâu sắc vào sự thật của cử chỉ này, mà sau cùng, liên quan đến cả cuộc
đời và là thái độ của con tim: việc thờ lạy là dành cho Chúa Cha và
không xảy ra đây đó mà là trong Chúa Thánh Thần và trong chân lý, đó là trong
Chúa Thánh Thần và trong Chúa Con, Đức Giêsu. Chúng ta không được
phép tự lừa dối mình; đó không phải là việc đi hết nơi này sang nơi nọ, cũng chẳng
phải vì tìm kiếm một nhân vật thần thánh này hay nhân vật khác để chúng ta có
thể tôn thờ Thiên Chúa. Việc di chuyển, cuộc hành trình là một chuyến
đi nội tâm và xảy ra trong nơi tận cùng sâu thẳm nhất của chúng ta và là sự
hàng phục hoàn toàn của chính mình, của đời sống chúng ta, cả con người chúng
ta, vào đôi cánh của Chúa Thánh Thần và trong vòng tay của Chúa Giêsu, đang mở
rộng trên thập giá và luôn sẵn sàng đón nhận tất cả mọi thứ đến với Người. Thánh
Phêrô đã nói rõ ràng: “Đức Kitô là Đấng Thánh, hãy tôn Người làm
Chúa ngự trị trong lòng anh em” (1Pr 3:15). Cử chỉ cúi mình trên đất,
phủ phục trước mặt Chúa đến từ trái tim. Nếu chúng ta để cho Chúa đụng
chạm vào tâm hồn chúng ta, nếu chúng ta cho phép Chúa đi vào lòng mình, không
gian thiêng liêng, thì Người sẽ thay đổi chúng ta hoàn toàn, biến đổi toàn bộ
con người chúng ta và biến đổi chúng ta trở nên những con người mới.
6.
Cầu nguyện: Thánh Vịnh 84
Một bài Thánh Vịnh về lòng tin tưởng của
con người trên cuộc hành trình tiến về nhà Chúa
Đáp
ca: Lạy Chúa, con đã thấy ngôi sao của Chúa,
Và
con đã đến để thờ lạy Chúa!
Lạy
Chúa Tể càn khôn, cung điện Ngài xiết bao khả ái.
Mảnh hồn này khát khao mòn mỏi
mong tới được khuôn viên đền vàng.
Cả tấm thân con cùng là tấc dạ
những hướng lên Chúa Trời hằng sống mà hớn hở reo mừng.
Mảnh hồn này khát khao mòn mỏi
mong tới được khuôn viên đền vàng.
Cả tấm thân con cùng là tấc dạ
những hướng lên Chúa Trời hằng sống mà hớn hở reo mừng.
Lạy
Chúa Tể càn khôn là Đức Vua, là Thiên Chúa con thờ,
ngay chim sẻ còn tìm được mái ấm,
cánh nhạn kia cũng làm tổ đặt con
bên bàn thờ của Chúa!
ngay chim sẻ còn tìm được mái ấm,
cánh nhạn kia cũng làm tổ đặt con
bên bàn thờ của Chúa!
Phúc
thay người ở trong thánh điện
họ luôn luôn được hát mừng Ngài.
họ luôn luôn được hát mừng Ngài.
Phúc
thay kẻ lấy Ngài làm sức mạnh,
ấp ủ trong lòng giấc mộng hành hương.
ấp ủ trong lòng giấc mộng hành hương.
Lúc
trẩy qua thung lũng Khô Cằn,
họ biến nó thành nguồn suối nước,
mưa đầu mùa đổ phúc lộc chứa chan.
họ biến nó thành nguồn suối nước,
mưa đầu mùa đổ phúc lộc chứa chan.
Càng
tiến lên, họ càng mạnh bước
đến chiêm ngưỡng Chúa Trời ngự trên núi Xi-on.
đến chiêm ngưỡng Chúa Trời ngự trên núi Xi-on.
Lạy
CHÚA là Chúa Tể càn khôn,
xin đoái nghe lời con cầu nguyện.
Xin lắng tai, lạy Chúa nhà Giacóp.
xin đoái nghe lời con cầu nguyện.
Xin lắng tai, lạy Chúa nhà Giacóp.
Lạy
Chúa là khiên mộc chở che,
xin thương xem nhìn đến
gương mặt đấng Ngài đã xức dầu.
xin thương xem nhìn đến
gương mặt đấng Ngài đã xức dầu.
Một
ngày tại khuôn viên thánh điện
quý hơn cả ngàn ngày.
Thà con ở cổng đền Thiên Chúa
vẫn còn hơn sống trong trại ác nhân!
quý hơn cả ngàn ngày.
Thà con ở cổng đền Thiên Chúa
vẫn còn hơn sống trong trại ác nhân!
Thiên
Chúa là vầng thái dương, là thuẫn đỡ,
CHÚA tặng ban ân huệ với vinh quang.
Ai sống đời trọn hảo, Người chẳng nỡ từ chối ơn lành.
CHÚA tặng ban ân huệ với vinh quang.
Ai sống đời trọn hảo, Người chẳng nỡ từ chối ơn lành.
Lạy
Chúa Tể càn khôn, phúc thay người tin tưởng vào Chúa!
7.
Lời nguyện kết
Lạy
Chúa, là Cha của chúng con, con đã thực sự nhìn thấy ngôi sao của Chúa, con đã
mở mắt ra với sự hiện diện tình yêu và ơn cứu rỗi của Chúa và con đã lãnh nhận
ánh sáng của sự sống. Con đã lặng ngắm bóng đêm biến đổi thành ánh
sáng, nỗi đau khổ trở nên niềm hân hoan, nỗi cô đơn thành sự hiệp thông; vâng,
tất cả những điều này đã xảy ra trước nhan thánh Chúa, trong Lời
Chúa. Chúa đã dẫn con qua sa mạc; Chúa đã đưa con đến nhà Chúa và mở
cửa cho con bước vào. Ở đó con trông thấy Chúa, , Đức Giêsu Con Một
Chúa, Đấng Cứu Độ của đời con; con đã cầu nguyện và thờ lạy, con đã khóc và tìm
thấy nụ cười của Chúa, con giữ im lặng và học nói. Trong nhà Chúa,
là Cha nhân từ, con đã tìm được sự sống một lần nữa!
Và giờ
đây con sắp trở lại, con tiếp tục cuộc hành trình của mình, nhưng đường đi
không phải là con đường mà con đã đi trước đây và cuộc sống con không phải là
cuộc sống như trước đó nữa. Lời Chúa đã để lại trong con một quả tim
mới, có khả năng mở ra để yêu thương, để lắng nghe, để chào đón và trở thành
mái ấm cho nhiều anh chị em mà Chúa đã đặt để họ trên đường con
đi. Lạy Chúa, con đã không biết, nhưng Chúa đã làm cho con trở nên
trẻ thơ một lần nữa, Chúa đã sinh ra con với Chúa Giêsu. Lạy Cha,
xin cảm tạ Cha, ôi Cha của con!




Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét