Chúa Nhật 20/01/2013
CHÚA NHẬT 2 THƯỜNG NIÊN Năm C
(phần II)
Phụng Vụ Lời Chúa: Chúa nhật tuần 2 Thường
Niên - năm C
CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN - C
(Is 62,1-5; 1Cr 12,4-11; Ga 2,1-12)
TIỆC CƯỚI GIỮA THIÊN CHÚA
VỚI CON NGƯỜI
VỚI CON NGƯỜI
“Ngày thứ ba, có tiệc cưới
tại Cana miền Galilê” (Ga 2,1)
tại Cana miền Galilê” (Ga 2,1)
I.
CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài
đọc I (Is 62,1-5)
Đoạn trích hôm nay nằm trong bối cảnh dân Do Thái trở
về từ chốn lưu đày. Mặc dù trước những phế phẩm hoang tàn của thành thánh
Giêrusalem, vị ngôn sứ vẫn thể hiện sự lạc quan, vui mừng và đầy hy vọng. Isaia
nhìn thấy và loan báo điều sắp xảy đến mà Thiên Chúa chỉ dành riêng cho Sion,
đó là Giêrusalem sẽ chiếu tỏa ánh sáng, như hừng đông sau đêm tối, như đuốc
sáng làm tan chảy bóng đêm, và muôn dân muôn nước sẽ quy tụ về nhờ ánh sáng chiếu
tỏa này. Chúng ta cũng sẽ nghe thấy điều tương tự trong phần thánh vịnh đáp ca
được đọc hôm nay.
Nhưng hơn hết tất cả, vị ngôn sứ còn thấy Thiên Chúa
làm mới lại mối tương quan với dân Người: với ngọc miện và triều thiên vương giả,
Giêrusalem sẽ bày tỏ vinh quang vị Vua của mình. Thêm nữa, Thiên Chúa, một khi
đã tìm thấy niềm vui nơi thành thánh mà Người thiết lập, Người sẽ phong nó làm
hiền thê của Người. Người sẽ ban cho nó một cái tên mới là “Ái khanh lòng Ta hỡi”,
là “Duyên thắm chỉ hồng”. (Trong Thánh Kinh, việc đặt một cái tên mới cho ai đó
luôn có nghĩa là thực hiện một cuộc biến đổi tận căn).
Mạc khải về mối tương quan thân mật phu thê này của
Thiên Chúa với dân Người, được biểu trưng qua thành thánh Giêrusalem, là một điều
thật kinh ngạc và tuyệt vời cho con người, bởi lẽ, Giêrusalem, vì sự bất trung
của mình với Thiên Chúa, một thời bị xem là “đồ bị ruồng bỏ”, là gái không chồng,
là “phận bạc duyên đơn”, thì nay, nhờ lòng khoan dung và sủng ái của Thiên
Chúa, đã trở thành người nữ được kết duyên, là hiền thê của Thiên Chúa.
2. Bài
đọc II (1Cr 12,4-11)
Đặc sủng là ơn ban nhưng không của Thiên Chúa cho
con người để phục vụ Giáo hội. Thế nhưng tại Côrintô đã xảy ra tình trạng lộn xộn
vì lý do này. Thay vì dùng các ơn ban để vì lợi ích của cộng đoàn, thì các tín
hữu ở đây đã tranh đua, so bì hơn kém vì những ơn ban này.
Vì thế, bài đọc II trích từ thư Côrintô giúp chúng
ta hiểu rõ hơn về đời sống của Giáo hội, của mỗi cộng đoàn tín hữu, về sự giàu
có cũng như nghèo nàn của mình.
Sự giàu có: đó là sự phong phú và đa dạng của các ơn
ban của Thánh Thần, xuất phát từ một Thiên Chúa duy nhất là Cha chúng ta, nhờ Đức
Kitô. Những ơn ban này nhắm trước hết là làm tăng trưởng đức tin, củng cố đời sống
Kitô hữu trong cộng đoàn, và đồng thời, cũng nhắm tới sự thiện ích của từng tín
hữu.
Không ai thiếu vắng ơn ban này. Nhưng nếu có tình trạng
tranh đua, chia rẽ, bất đồng trong cộng đoàn, đó là do ta sử dụng không tốt những
ơn ban. Như thế, cách gián tiếp, chúng ta làm nghèo nàn Giáo hội!
Vì thế, những lời của thánh Phaolô nhắc nhớ và mời gọi
mỗi chúng ta biết chân nhận giá trị những ơn ban của Thánh Thần trong đời sống
mỗi người. Những ơn này được ban không nhắm vào mục đích nào khác, ngoài việc
phục vụ cho cộng đoàn và nối kết tình huynh đệ.
3. Bài
Tin Mừng (Ga 2,1-12)
Như bao đoạn Tin Mừng Gioan khác, tiệc cưới Cana
mang đậm những nét biểu trưng.
Trước hết, chúng ta tìm thấy nơi đây nhiều chi tiết
rất thú vị: Thiên Chúa chân nhận giá trị đời sống phu thê và của bữa tiệc cưới;
ta còn thấy vai trò chuyển cầu rất quan trọng của Đức Maria trước những nhu cầu
của con người; ta còn thấy uy lực của Chúa Kitô, sự rộng lòng quảng đại của Người
khi thi ân giáng phúc cho con người, và thời khắc Chúa chọn khi can thiệp vào
các sự kiện; tất cả đều nhắm đến đức tin.
Tuy nhiên, chúng ta cũng cần phải tiến một bước xa
hơn.
Tiệc cưới nhân loại nơi có Đức Giêsu hiện diện, là
điểm xuất phát chủ đề: Đức Giêsu, phu quân của nhân loại. Tiệc cưới giữa Người
với Giáo hội sẽ xảy ra khi “đến giờ” của Người, nghĩa là lúc trên thập giá, Đức
Giêsu dâng hiến chính mình cho Giáo hội. Đó cũng là lúc mà “người nữ” Maria trở
thành Mẹ của một nhân loại mới.
Vì thế, những chum nước bằng đá, biểu trưng cho nghi
thức thanh tẩy Do Thái, đã bị vượt qua, và được thay thế bằng “rượu mới”, biểu
trưng cho ơn ban Thánh Thần trong Giao ước mới.
Với phép lạ tại tiệc cưới Cana, vinh quang Đức Kitô
đã tỏ hiện, và không chỉ các tông đồ, mà ngay cả những người ngoại cũng nhìn thấy
và tin vào Người.
Câu nói của người chủ tiệc “còn ông, ông lại giữ rượu
ngon mãi tới bây giờ” thể hiện một ý nghĩa mới. Cần phải đợi đến “giờ” của Đức
Kitô khi Người được tôn vinh, để rượu mới, là Thánh Thần Chúa, được ban cho
nhân loại.
II. GỢI
Ý SUY NIỆM
1. Không phải do bởi sự tín trung, hay bởi sáng kiến
của dân Do Thái mà Thiên Chúa thiết lập giao ước Phu Thê với con người. Nhưng
đây là do bởi tình yêu nhưng không, lòng quảng đại của Thiên Chúa cũng như từ ý
định yêu thương của Người. Người muốn đến với chúng ta bằng một giao kết tình
yêu hôn nhân, không phải để ràng buộc chúng ta trong bộ khung luật lệ, nhưng
chính yếu là để yêu và được yêu nhiều hơn trong một bộ khung mới là tình yêu.
Tôi cảm nghiệm điều gì trước mối tình của Thiên Chúa?
2. Đã có một thời trong Giáo hội, các ơn ban được
xem như chỉ dành riêng cho một số người, một số phẩm trật nhất định. Đoạn trích
thư Côrintô đã khẳng định cho chúng ta điều ngược lại. Tất cả mọi người họp
thành một cộng đoàn, một thân thể, một Giáo hội là Hiền thê của Chúa. Vì thế mọi
chi thể đều lãnh nhận được những ơn ban từ Thiên Chúa, tuy có khác nhau trong
vai trò của từng người. Vậy với tôi, đâu là những ơn ban mà Thiên Chúa đã yêu
thương dành cho tôi? Đâu là những ơn ban mà Thiên Chúa đã yêu thương dành cho
những người anh chị em của tôi?
3. Nhờ rượu mới, nhờ sự hiện diện của Đức Maria, và
nhất là nhờ Đức Giêsu, bữa tiệc cưới con người, từ sự u sầu vì hết rượu và có
nguy cơ thiếu vắng niềm vui, giờ đã trở thành bữa tiệc đầy niềm vui hoan lạc. Vậy
trong năm đồng hành với những gia đình gặp khó khăn, hình ảnh biểu trưng của tiệc
cưới Cana có thể là một ý hướng mục vụ cho mỗi người chúng ta?
III. LỜI NGUYỆN
CHUNG
Chủ
tế: Anh chị em
thân mến! Thiên Chúa là nguồn mạch sự sống và niềm vui đích thực cho con người.
Chúng ta hãy cảm tạ tình thương và lòng nhân từ của Thiên Chúa, cùng tha thiết
nài xin Người nâng đỡ đức tin của từng người và của cộng đoàn chúng ta.
1. “Hãy kể cho muôn dân biết những kỳ công Chúa đã
làm.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi thành phần Dân Chúa luôn ý thức và tích
cực dấn thân loan báo Tin mừng cứu độ cho con người thời đại, bằng chứng từ là
chính đời sống gương mẫu của mỗi người.
2. Đức Giêsu thực hiện dấu lạ đầu tiên tại Cana để
bày tỏ vinh quang của Người. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo trên
thế giới biết đón nhận các dấu chỉ thời đại như ơn Chúa soi sáng, để luôn hành
động cách khôn ngoan vì một thế giới hòa bình và văn minh.
3. Chúa đã chúc lành cho gia đình mới tại Cana.
Chúng ta cùng cầu nguyện cho các bậc cha mẹ luôn ý thức trách nhiệm Chúa trao
trong ơn gọi hôn nhân, biết chu toàn bổn phận vun đắp hạnh phúc gia đình và
giáo dục con cái bằng tình yêu, hy sinh và quảng đại.
4. “Người bảo gì, các anh hãy làm theo.” Chúng ta
cùng cầu xin Chúa cho mọi người đang hiện diện nơi đây biết sống theo sự hướng
dẫn của Chúa Thánh Thần, luôn yêu thương tha thứ và hết mình phục vụ, để trở
nên dấu chỉ của lòng Chúa thương xót ở giữa mọi người.
Chủ
tế: Lạy Thiên Chúa toàn năng, phúc lành của Chúa luôn phong phú tràn
trề cho con người. Xin nhận lời chúng con cầu nguyện và giúp chúng con biết hết
lòng tin tưởng vào tình thương của Chúa, luôn an vui thực thi ý Chúa trong mọi
hoàn cảnh của cuộc đời. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
SCĐ Chúa Nhật II TN.C
Chủ đề :
Hôn ước giữa Thiên Chúa với loài người
Chúa Giêsu hóa nước thành rượu
(Ga 2,1-11)
Sợi chỉ
đỏ :
Tình
yêu hôn nhân rất tốt đẹp. Vì thế Chúa Giêsu đã tới Cana để dự tiệc cưới và chúc
phúc cho đôi tân hôn (Bài Tin Mừng). Thiên Chúa còn dùng hình ảnh hôn nhân loài
người để giúp người ta hiểu được phần nào tình yêu của Ngài đối với nhân loại
(Bài đọc I)
I. Dẫn
vào Thánh lễ
Anh
chị em thân mến
Trong
phần Phụng vụ Lời Chúa hôm nay, chúng ta sẽ nghe Thiên Chúa ngỏ lời “tỏ tình” với
loài người chúng ta. Qua miệng ngôn sứ Isaia, Thiên Chúa phán : “Như trai
tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là
niềm vui cho chú rẻ, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ”.
Xin
Chúa giúp chúng ta hiểu được tình Chúa yêu thương chúng ta đến mức nào.
II. Gợi
ý sám hối
–
Chúa đã yêu thương chúng con rất nhiều, nhưng đáp lại, chúng con yêu thương
Chúa quá ít.
– Vì
yêu thương chúng con nhiều, nên Chúa hy sinh rất nhiều cho chúng con, thậm chí
Chúa đã chịu nạn chịu chết vì chúng con. Phần chúng con vì yêu thương Chúa ít
nên chúng con ít khi chịu hy sinh vì Chúa.
– Yêu
thương là cho đi. Chúa yêu thương chúng con vô cùng nên đã ban cho chúng con vộ
vàn ơn sủng. Còn chúng con thì chẳng có gì để dâng cho Chúa.
III.
Lời Chúa
- Bài đọc I (Is
62,1-5)
Bài
thơ này của Đệ Tam Isaia được sáng tác sau khi dân do thái được thoát cảnh lưu
đày, hồi hương về cố quốc.
Khi
nhìn ngược về quá khứ, tác giả hiểu rằng lưu đày là hình phạt xứng đáng đối với
tội bất trung của dân. Nhưng khi nhìn vào hiện tại, tác giả cảm nhận được tình
yêu nồng nàn của Chúa : dù dân đã phản bội nhưng Chúa vẫn yêu thương. Ngài
đã cứu họ khỏi cảnh khốn cùng : “Chẳng còn ai réo tên ngươi là ‘đồ bị ruồng
bỏ’, xứ sở ngươi hết bị tiếng là ‘phận bác duyên đơn’. Chẳng những thế, Chúa
còn yêu thương họ như người chồng rất mực yêu thương người vợ mới cưới :
“Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như
cô dâu là niềm vui cho chú rẻ, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ”.
2.
Đáp
ca (Tv 95)
Thánh
vịnh 95 là tâm tình của người ý thức tình thương Thiên Chúa : vui mừng, ca
tụng và loan báo “Hãy kể cho muôn dân được biết những kỳ công Chúa đã làm”.
3.
Tin
Mừng (Ga 2,1-12)
Tường
thuật này không phải đơn giản nói về một bữa tiệc cưới, nhưng còn là “dấu chỉ đầu
tiên” qua đó Chúa Giêsu “bày tỏ vinh quang của Ngài” để cho “các môn đệ tin vào
Ngài” (câu 11). Chúa bày tỏ những gì ?
- Trước hết Ngài cho
thấy Ngài Đấng khai mở một thời kỳ hoan lạc mới. Thánh Kinh thường dùng
hình ảnh tiệc cưới để chỉ thời hoan lạc Messia, và hình ảnh chú rể để chỉ
Đấng Messia. Trong đám cưới ở Cana, lẽ ra chú rể phải cung cấp đủ rượu cho
khách dự tiệc, và như thế bữa tiệc mới vui mừng trọn vẹn. Thế nhưng chú rể
ấy đã không chu toàn. Kẻ cung cấp rượu và làm cho bữa tiệc vui mừng trọn vẹn
lại chính là Chúa Giêsu.
- Ngài còn cho thấy
Ngài đến để thiết lập một tín ngưỡng mới thay thế tín ngưỡng đã quá lỗi thời
của người do thái : bài tường thuật có nhắc đến những chum đựng nước
để cho người ta thanh tẩy trước khi dự tiệc. Đấy là một tục lệ tiêu biểu của
đạo cũ. Hôm nay những chum ấy đã được Chúa Giêsu cho tràn ngập rượu mới, lại
là thứ rượu ngon vượt sức tưởng tượng của người ta. Nghĩa là tín ngưỡng mới
mà Chúa Giêsu thiết lập vượt xa tín ngưỡng cũ quá bám víu vào hình thức bề
ngoài.
- Bài tường thuật cũng
nói tới “giờ” (Chúa Giêsu nói với Đức Maria : “Giờ con chưa đến”).
“Giờ” là lúc Chúa Giêsu được vinh quang khi chịu chết trên Thập giá để
tuôn ơn cứu độ cho loài người. Hôm nay ở Cana, tuy chưa tới “giờ” ấy,
nhưng Ngài cũng tỏ chút vinh quang cho các môn đệ và người ta thấy trước
qua việc Ngài làm phép lạ cho nước hóa thành rượu.
- Vinh quang Chúa đã
được hé lộ trước cũng do công của Đức Maria, kẻ đã tế nhị thấy hoàn cảnh
khó khăn của chủ nhà và chủ động đến xin Chúa Giêsu can thiệp.
4.
Bài
đọc II (1 Cr 12,4-11) (Chủ đề phụ)
Có nhiều
chia rẻ, đố kỵ và tranh chấp trong giáo đoàn Côrintô : người có tài thì
khinh chê kẻ khác, kẻ bất tài thì đố kỵ, những kẻ có tài lại ganh ghét nhau.
Thánh
Phaolô nhắc cho họ nhớ : (1) tất cả mọi tài năng đều là do Chúa Thánh Thần
ban ; (2) mà ơn Chúa Thánh Thần ban thì khác nhau nơi mỗi người ; (3)
và tất cả những ơn ban đó đều nhằm phục vụ lợi ích chug của Giáo Hội.
IV. Gợi
ý giảng
*
1. Tình yêu của Chúa
Trong
các thứ tình yêu, tình yêu nào nồng nàn tha thiết nhất ? Thưa là tình cha
mẹ dành cho con cái, và tình vợ chồng đối với nhau. Nếu so sánh hai thứ tình đó
với nhau thì tình yêu hôn nhân chắc là mạnh hơn. Bởi đó sách Sáng thế đã viết
“Người nam sẽ lìa bỏ cha mẹ và khắn khít với vợ mình” (St 2,24). Chúa Giêsu
cũng đồng ý như thế nên đã trích dẫn lại câu ấy khi tranh luận với các người biệt
phái (Mt 19,5). Cũng vì lý do đó nên khi muốn tỏ cho loài người biết Thiên Chúa
yêu thương loài người đến mức nào, Thiên Chúa đã dùng hình ảnh tình yêu vợ chồng
để minh họa.
Trong
tình yêu vợ chồng, điều gì đáng quý nhất ? Thưa đó là sự hy sinh cho nhau
và chung thuỷ với nhau. Hy sinh cho nhau nhiều chừng nào thì đó là bằng chứng
yêu thương nhau nhiều chừng ấy. Dù gặp phải bao sóng gió, dù những khuyết điểm
lỗi lầm thường xuyên đe dọa, nhưng vợ chồng vẫn yêu thương nhau đến chết, đó mới
là tình yêu chân thật vững bền.
Thế
nhưng, trong một trăm đôi vợ chồng, có bao nhiêu đôi hy sinh và chung thuỷ được
như thế.
Rốt
cuộc, dù con người được nếm vị ngọt của nhiều loại tình yêu, nhưng rất nhiều lần
cũng phải thất vọng với những tình yêu nhân loại, cho dù đó là tình vợ chồng
tha thiết nhất.
Chỉ
có tình yêu Thiên Chúa mới là tình yêu chân thật và cao cả nhất : vì yêu
thương chúng ta, Chúa Cha đã hy sinh ban chính Con Một của Ngài cho chúng
ta ; vì yêu thương chúng ta, Chúa Giêsu đã hy sinh đến nỗi chịu chết vì
chúng ta : “Không có tình yêu nào cao trọng bằng tình yêu của người dám
thí mạng vì người mình yêu”. Mặt khác, dù loài người luôn phản bội, Thiên Chúa
vẫn tha thứ và vẫn cứ yêu. Loài người đã nhiều lần bỏ Chúa, nhưng Chúa không
bao giờ bỏ loài người.
Con
người là một sinh vật yêu thương : con người cần yêu thương và cần được
yêu thương. Chúng ta hãy tìm đến tình yêu Thiên Chúa. Chắc chắn chúng ta sẽ chẳng
phải thất vọng bao giờ.
2.
Phép
lạ ở Cana
Thời
nay đang có một cuộc khủng hoảng về gia đình : số người lập gia đình rồi
li dị càng ngày càng nhiều ; nhiều người trẻ không muốn lập gia
đình ; một số người chủ trương nếu thích nhau thì cứ sống chung với nhau,
đến khi nào không thích nhau nữa thì chia tay, cần gì mà phải cam kết sống
chung suốt đời.
Cuộc
sống gia đình quả là rất khó khăn : Ngày mới cưới, tình yêu vợ chồng thắm
nồng như ly rượu tân hôn. Nhưng chẳng bao lâu sau, rượu nhạt tình phai, thậm
chí còn thiếu rượu. Tình yêu thủy chung, luôn cho đi mà không hề mệt mõi, không
ngừng nhường nhịn nhau và tha thứ cho nhau. Một tình yêu như thế ở thời nay quả
là một phép lạ.
Ở
Cana, Chúa Giêsu đã làm phép lạ như thế : khi người ta thiếu rượu, Ngài đã
làm cho có rượu dồi dào ; và rượu ấy Ngài đã làm ra từ những chum nước lã.
Phép lạ này ngày nay Chúa vẫn tiếp tục làm, cho những ai thực lòng cầu xin
Ngài. Tại sao những đôi vợ chồng đang gặp khó khăn không cầu xin phép lạ ấy ?
Tại sao anh chị em không nhờ Đức Mẹ chuyển lời cầu xin ?
*
3. Ý nghĩa sâu xa của phép lạ hóa nước thành rượu
Tin Mừng
theo Thánh Gioan thường có ý nghĩa rất sâu xa. Chẳng hạn đoạn Tin Mừng này, tuy
nói về một đám cưới nhưng ý nghĩa không chỉ gói gọn trong đời sống hôn nhân mà
bao trùm cả đời sống mọi người ; tuy nói về nước hóa thành rượu nhưng chỉ
đến tất cả những thứ mà quyền năng Chúa Giêsu có thể biến đổi.
Việc
Chúa Giêsu hóa nước thành rượu được Thánh Gioan gọi là “dấu chỉ” và còn là “dấu
chỉ đầu tiên để bày tỏ vinh quang của Ngài”. Dấu chỉ là cái gì đó trước mắt chỉ
tới cái khác. Cái trước mắt ở Cana là nước thành rượu. Cái khác mà nước thành
rượu chỉ tới là gì ? Thưa là điều được ngôn sứ Isaia tiên báo trong bài đọc
I : đó là ngày mà Thiên Chúa biến đổi cuộc sống con người thành hoan lạc
như tiệc cưới : “Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi
sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rẻ, ngươi cũng là niềm vui cho
Thiên Chúa ngươi thờ”.
Chúa
Giêsu đã đến khai mạc ngày hoan lạc ấy. Ở Naim, Ngài đã biến đổi những giọt nước
mắt đau thương của người mẹ khóc con thành những giọt lệ vui mừng khi con mình
sống lại. Ở Giêricô, Ngài đã biến đổi cõi lòng héo úa vì ích kỷ của ông Dakêu
thành một tâm hồn tươi tốt quãng đại. Cho tới lúc đã bị đóng đinh trên thập
giá, Ngài vẫn tiếp tục biến đổi người trộm lành đang tuyệt vọng thành người
khách mời đầu tiên dự tiệc thiên quốc. Và nhất là trong biến cố phục sinh, Ngài
đã biến đổi sự chết thành sự sống.
Nếu đời
bạn đang tẻ nhạt như nước lã. Hãy đến với Chúa Giêsu. Ngài sẽ biến đổi cho nước
lã ấy thành rượu ngon tuyệt vời.
4.
Hạnh
phúc mong manh
Ở đất
Vũ Bình có giống vượn đỏ như vang, nõn nà như tơ, trông xa lấp lánh rất là đẹp
mắt. Có hai mẹ con vượn, mẹ thì khôn ngoan, tinh anh, con thì ngây ngô, nhẹ dạ,
nhưng lúc nào mẹ con cũng đi bên nhau. Người đi săn không thể nào nhử mồi đánh
bẫy được, mới lấy thuốc độc sát vào đầu mũi tên, rình lúc vượn mẹ vô ý thì bắn.
Khi vượn mẹ bị trúng tên, biết mình không thể sống được, liền vắt sữa ra cho
con uống, xong rồi lăn ra chết.
Người
đi săn quay về phía vượn con, cầm roi quất vào xác vượn mẹ. Vượn con trông thấy
kêu gào thương xót chạy lại gần, người đi săn liền vồ lấy mà bắt sống. Lúc về
nhà, cứ đêm đêm, vượn con nằm phục bên xác mẹ thì mới yên, đôi khi lại ôm lấy mẹ
kêu gào thảm thiết. Không được mấy hôm vượn con cũng lăn ra chết.
*
Tình
mẫu tử của giống vượn lông đỏ làm cho chúng ta vô cùng xúc động : Tuy
nhiên, chúng ta cũng có một người mẹ, hết lòng chăm lo cho từng đứa con còn lớn
lao hơn gấp bội. Đó chính là Mẹ Maria.
Có thể
nói, một trong những trang đẹp nhất của sách Tin Mừng Gioan, chính là bài tường
thuật về “Tiệc cưới Cana”. Chính nơi tiệc cưới này, Mẹ đã bày
tỏ thật sâu sắc tình mẫu tử của người.
Theo
tập tục Do thái, đám cưới kéo dài suốt bảy ngày, nhưng mới đến “ngày thứ
ba” thì tiệc cưới Cana đã hết rượu. Thật là một tai hoạ bất ngờ, chủ
tiệc vô cùng bối rối khó xử. Duy chỉ có Mẹ Maria nhận ra được tình thế gay go ấy.
Sự nhạy cảm và lòng thương yêu của tình mẫu tử đã khiến Mẹ mạnh dạn thưa với
Chúa Giêsu : “Họ hết rượu rồi” (Ga 2,3). Một câu nói ngụ
ý nài xin kín đáo.
Nhưng
lời đáp trả của Chúa Giêsu mới làm cho chúng ta thật sửng sốt : “Tôi
với bà có can chi ? Giờ tôi chưa đến” (Ga 2,4). Qua câu này Chúa
Giêsu chỉ muốn xác quyết tính siêu việt của Người : Hoàn toàn lệ thuộc
Chúa Cha. Chắc Mẹ cũng không hiểu rõ chữ “Giờ” tức là giờ vinh
quang của Chúa Giêsu sau cuộc tử nạn và phục sinh. Nhưng Mẹ vẫn một mực hoàn
toàn tin tưởng vào Con của Mẹ, Mẹ mong Con làm một điều gì đó : “Người
bảo gì, các anh cứ việc làm theo”(Ga 2,5). Quả thật, Chúa Giêsu có bảo và
các người giúp việc đã làm.
Thế
là Chúa Giêsu quyết định thực hiện một phép lạ đầu tiên trong cuộc đời công
khai rao giảng, một phép lạ kiểu mẫu của các phép lạ kế tiếp. Tuy “Giờ” tôn
vinh chưa đến, nhưng ngay lúc này, Người muốn biểu lộ giờ vinh quang ấy qua
phép lạ Người sắp thực hiện để “Các môn đệ tin vào Người” (Ga
2,11).
Nhờ sự
can thiệp của Mẹ mà phép lạ Cana đã được thực hiện, để đức tin của các môn đệ
được củng cố và triển nở.
Nhờ sự
đóng góp của Mẹ mà sáu chum nước lã đã biến thành 700 lít rượu ngon, để niềm
vui của đôi tân hôn và khách dự tiệc được trọn vẹn.
Ngày nay,
Mẹ vẫn nói nhỏ bên tai Chúa : “Họ hết rượu rồi”.
Để
cho bao mối tình đang nhạt phai được trở nên nồng thắm và tràn đầy tin yêu.
Để
cho bao gia đình thiếu vắng tình yêu được củng cố và thuận hoà yêu thương.
Để
cho bao tâm hồn đang chao đảo giữ vững được niềm tin và hy vọng.
Nếu
ngày xưa Chúa Giêsu đã biến nước lã của Cựu ước thành rượu ngon của Tân ước, để
mở ra một thời đại mới, thời đại thiên sai ; thì ngày nay, Người cũng muốn
chúng ta biến cuộc đời lạt lẽo của mình thành rượu nồng tình yêu : yêu Chúa
và yêu tha nhân, để mọi người được chan chứa niềm vui cứu độ.
Nếu
Chúa Giêsu đã biến thứ nước tẩy uế của Do thái giáo thành rượu ngon hảo hạng, để
thiết lập một trật tự mới ; thì Người cũng mời gọi chúng ta hãy biến đổi
trái đất này thành một thế giới mới : chân thật, công bằng và yêu thương.
Lạy
Chúa, chúng con luôn khát khao kiếm tìm hạnh phúc, nhưng dường như hạnh phúc thật
mong manh. Xin Chúa hãy đến dự những bữa tiệc cuộc đời chúng con, để mang lại
cho chúng con một hạnh phúc vững bền.
Xin
Mẹ Maria luôn là đấng Bầu Cử cho chúng con trước toà Chúa mỗi khi chúng con gặp
khó khăn bối rối, nhất là khi chúng con đã vơi cạn rượu nồng tình yêu.
Amen. (TP)
5.
Đức
Maria, gương mẫu của sứ vụ
Tin Mừng
thánh Gioan chỉ nhắc tới Đức Maria có hai lần : một lần ở Cana lúc Chúa
Giêsu mới bắt đầu sứ vụ, và một lần dưới chân thập giá lúc Ngài hoàn thành sứ vụ.
Hai lần ở đầu và cuối, ngụ ý bao hàm tất cả. Các Tin Mừng nhất lãm nói rõ hơn về
điều này.
Trong
biến cố Truyền tin, khi được hỏi có muốn làm mẹ Đấng Cứu Thế hay không, Người
đã bỏ ý riêng sang một bên để quảng đại “Xin Vâng” theo thánh ý Chúa. Sứ vụ đôi
khi có nghĩa là sẵn sàng gác sang một bên những chương trình riêng của mình, để
đáp lại lời Chúa mời hợp tác trong chương trình của Ngài.
Trong
biến cố Thăm viếng, khi vừa hay tin người chị họ của mình đã mang thai 6 tháng
và đang cần người giúp đỡ, Đức Maria đã vội vã đến nơi. Sứ vụ đôi khi có nghĩa
là phải có sáng kiến : thấy nhu cầu, và mau mắn phục vụ.
Trong
biến cố Cana, Đức Mẹ thoáng nhận ra vẻ bối rối của nhà chủ, Người hiểu ngay là
họ thiếu rượu, và Người đã xin Con giúp đỡ. Sứ vụ đôi khi cần phải tế nhị :
nhận ra điều người ta đang cần, nhưng ý thức rằng bản thân mình không làm gì được,
nên giới thiệu cho kẻ có khả năng giúp đỡ.
Trên
đồi Golgotha, Đức Mẹ đứng dưới chân thập giá nhìn con yêu dấu đang hấp hối, rất
đau lòng nhưng chỉ biết lặng thinh. Sứ vụ có khi còn có nghĩa là chấp nhận bất
lực không làm gì được, chỉ biết phó thác.
Tất cả
chúng ta đều được Chúa trao sứ vụ : sứ vụ đối với gia đình, sứ vụ với Giáo
Hội, sứ vụ với xã hội, sứ vụ với tất cả mọi người. Chúng ta hãy nhìn gương Đức
Mẹ và bắt chước Người. (FM)
6.
Chuyện
minh họa
a/
Con sâu trong tảng đá
Một
hôm Đức Ala gọi một Thiên sứ đến và truyền lệnh : “Ngươi hãy xuống trần
gian để đưa về đây người đàn bà góa có 4 đứa con thơ”. Thiên sứ ra đi, gặp ngay
người đàn bà góa đang cho đứa con nhỏ nhất bú. Ngài nhìn người đàn bà với 4 đứa
con dại, rồi lại lên Đức Ala để tha thiết nài xin rút lại lệnh truyền. Làm sao
có thể nhẫn tâm tách lìa người mẹ khỏi những đứa con thơ ấy ? Nhưng lời
van xin của Sứ thần chẳng mảy may đánh động được Đức Ala. Cuối cùng Sứ thần
đành phải vâng lệnh Đức Ala mà cướp người mẹ góa khỏi bầy con thơ và đưa về trời.
Hoàn
thành công tác, nhưng xem chừng vị thiên sứ lại có vẻ buồn. Phải, làm sao vui
được trước cảnh chia ly giữa mẹ và con ? Thấy sứ thần buồn, Đức Ala gọi đến
và đưa vào sa mạc. Ngài chỉ cho sứ thần thấy một tảng đá lớn và bảo đập nó ra.
Tảng đá vừa vỡ đôi, sứ thần ngạc nhiên vô cùng, vì từ trong tảng đá một con sâu
nhỏ từ từ bò ra. Chợt hiểu được ý nghĩa của sự kiện ấy, sứ thần bỗng thốt
lên : “Ôi lạy Đấng tối cao, mầu nhiệm thay công cuộc sáng tạo của Ngài. Với
sự khôn ngoan thượng trí và tình yêu vô biên, Ngài đã không bỏ mặc một tạo vật
bé nhỏ như con sâu kia, thì hẳn Ngài cũng sẽ không quên được 4 đứa trẻ mồ côi
là con cái của Ngài.” (Trích “Món quà giáng sinh”)
b/
Cái nhìn của bậc thánh nhân
Một
buổi trưa hè nóng bức, Thánh Phanxicô Assisi sau khi đi đường mệt nhọc đã tìm
được một chỗ nghỉ chân rất thoải mái. Chỗ đó là dưới một gốc cây có tàng lá che
mát, bên dưới là một dòng nước trong lành mát rượi. Thánh nhân rửa tay rửa mặt
xong xuôi rồi ngả mình dưới tàng lá. Bỗng dưng người bật khóc. Vì người
nghĩ : từ không biết bao đời, Chúa đã biết hôm nay mình đến đây, Chúa biết
mình mệt, cho nên Chúa đã đặt sẵn ở đây một bóng mát và một dòng suối để cho
mình nghỉ ngơi.
Cái
nhìn của bậc thánh nhân đã nhận ra những điều mà người phàm không bao giờ thấy
được.
V. Lời
nguyện cho mọi người
Chủ
tế : Anh chị em
thân mến, chỉ Thiên Chúa mới có thể đem lại cho con người niềm vui chân thật và
hạnh phúc trọn vẹn. Tin tưởng vào tình thương và quyền năng của Chúa, chúng ta
cùng dâng lời cầu xin :
- Hội thánh là đại
gia đình của những ai tin Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho tất cả
mọi thành viên trong đại gia đình này / không chân thành yêu thương
và quảng đại nâng đỡ nhau.
- Trên thế giới
ngày nay / tình trạng đổ vỡ trong đời sống hôn nhân và gia đình đang
gia tăng đến mức báo động / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các gia
đình luôn được hạnh phúc và bình an.
- Gia đình tốt thì
xã hội và Giáo hội mới tốt được / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các
gia đình Kitô hữu / luôn quan tâm giáo dục đức tin và nhân bản cho
con cái của mình.
- Một trong những
điều kiện hết sức quan trọng / đem lại hạnh phúc lâu dài cho đời sống
hôn nhân và gia đình / đó là cần tìm hiểu kỹ lưỡng và chuẩn bị chu
đáo trước khi kết hôn / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho giới trẻ của
giáo xứ chúng ta / biết tích cực tham gia các khóa dự bị hôn
nhân / trước khi cử hành bí tích Hôn phối.
Chủ
tế : Lạy Chúa, nếu
không có Chúa ban ơn giúp sức, chúng con không thể làm được việc gì thành công.
Vậy xin thương ban ơn trợ giúp để mọi việc làm của chúng con, từ khởi sự cho đến
hoàn thành, đều nhờ bởi ơn Chúa. Chúng con cầu xin.
VI.
Trong Thánh Lễ
– Trước
kinh Lạy Cha : Ở tiệc cưới Cana, Chúa Giêsu đã làm phép lạ cho nước
hóa thành rượu, nhờ lời chuyển cầu của Đức Mẹ Maria. Giờ đây, chúng ta cũng hãy
nhờ Đức Mẹ chuyển cầu và kết hợp tâm tình với Chúa Giêsu, dâng lên Chúa Cha những
lời nguyện chân thành của chúng ta.
– Trước
kinh Đây Chiên Thiên Chúa : Rượu ở tiệc cưới Cana là hình bóng của Bàn
Tiệc Thánh mà chúng ta sắp được tham dự. Chúng ta hãy cảm tạ lòng nhân lành
Chúa vì hồng ân này.
VII.
Giải tán
Chúng
ta đã cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa qua Thánh lễ vừa tham dự. Giờ đây tuy
Thánh lễ sắp kết thúc nhưng chúng ta hãy tiếp tục sống trong tình yêu của Ngài,
nhất là hãy trở thành dấu chỉ tình yêu ấy trước mặt mọi người.
Bài đọc thêm
* Được
trích đọc cách bán liên tục từ Chúa nhật thứ 2 đến Chúa nhật thứ 8 trong bài đọc
II.
A.
Giáo đoàn côrintô
- Thành phố Côrintô đã
bị một viên tướng Rôma tên là L. Mumium phá hủy vào năm 146 trước công
nguyên. Một thế kỷ sau nó được xây dựng lại bởi lệnh hoàng đế Jules César
và trở thành một thuộc địa của đế quốc Rôma. Chẳng bao lâu sau nó thành thủ
phủ của tỉnh Achaie của đế quốc.
- Côrintô cũng là một
hải cảng lớn với một nền thương mại phồn thịnh. Vì nằm trên tuyến đường nối
hai miền Đông Tây, nên việc giao thông cũng tấp nập. Dân số thời ấy khoảng
600 ngàn, trong số đó 2/3 là nô lệ. Về tín ngưỡng, dân Côrintô thờ nhiều
thần. Luân lý rất suy đồi, nạn dâm ô tràn lan (x. Rm 1,26-32).
- Phaolô đến Côrintô lần
đầu tiên trong chuyến du hành truyền giáo thứ hai. Ông đã lưu lại đây 18
tháng từ mùa đông năm 50 đến mùa hè năm 52. Ban đầu ông cũng hành nghề dệt
lều và rao giảng trong hội đường do thái vào những ngày hưu lễ. Khi có
Sila và Timôtêô đến tiếp thì ông hoàn toàn lo rao giảng. Nhiều người đã
tin theo và Phaolô lập được một giáo đoàn mà đa số là người lương trở lại,
phần đông thuộc giới hạ lưu nghèo khổ. Những tín hữu này rất hăng say sống
đạo nhưng đầu óc còn thấm nhiễm tâm thức lương dân. Sau đó dân Côrintô đã
đuổi Phaolô đi. Sau khi ông ra đi ít lâu, có một nhà trí thức do thái ở
Alexandria tên là Apollo đến nối tiếp sứ mạng rao giảng Tin Mừng cho dân
Côrintô và thu được rất nhiều kết quả (x 1Cr 1,26-28 11,21-22).
B.
Thư 1 Côrintô
- Hoàn cảnh và mục
đích
Năm
56, Phaolô đang ở Êphêxô thì được nhiều tin tức không tốt đẹp về giáo đoàn
Côrintô : nạn bè phái, thói kiện cáo nhau trước tòa án lương dân, tội dâm
ô v.v. Ngoài ra, nhiều tín hữu cũng có những thắc mắc về lương tâm và phụng vụ.
Phaolô viết thư này để sửa dạy những thói xấu và giải đáp những thắc mắc ấy.
2.
Bố
cục
– Lời chào
01,01-03
– Lời tạ
ơn
01,04-09
– Sửa dạy những thói xấu :
. Nạn
bè
phái
01,10–04,21
. 1 trường hợp loạn
luân
05,01-13
. Kiện cáo
nhau
06,01-11
. Tội dâm
ô
06,12-20
– Giải đáp những thắc mắc :
. Về hôn nhân và đồng trinh
07,01-40
. Vấn đề ăn đồ
cúng
08,01–11,01
– Bàn về cộng đoàn phụng tự
và các đoàn sủng
11,02–14,40
– Bàn về việc kẻ chết sống lại ch 15
– Kết
16,01-18
– Lời
chào
16,19-24
Thư 1
Cr là một bức tranh cho thấy rõ hơn tất cả các thư khác của Phaolô về nếp
sống của một cộng đoàn tín hữu sơ khai với những tâm trạng và những vấn
đề của họ. Qua thư này ta cũng hiểu rõ hơn con người của Phaolô : một
tông đồ nhiệt thành luôn muốn đem người ta về với Đức Kitô, một
người thầy dạy dỗ tận tụy và có khi nghiêm khắc, và một người
cha đầy tình yêu thương đối với các đứa con thiêng liêng của mình.
Ngoài ra trong thư này chúng ta có được giáo lý rõ ràng về Bí tích
Thánh Thể và Nhiiệm thể Đức Kitô.
Lm. Cảolo HỒ BẶC XÁI
Lectio
Divina: Chúa Nhật II Thường Niên (C)
Chủ
Nhật 20 Tháng Một, 2019
Phép
Lạ Đầu Tiên của Chúa Giêsu
“Hễ
Người bảo gì thì phải làm theo!”
Ga
2:1-12
1.
Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy sai Thần Khí
Chúa đến giúp chúng con đọc Kinh Thánh với cùng tâm tình mà Chúa đã đọc cho các
môn đệ trên đường Emmau. Trong ánh sáng của Lời Chúa, được viết
trong Kinh Thánh, Chúa đã giúp các môn đệ khám phá ra được sự hiện diện của
Thiên Chúa trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết của Chúa. Vì thế, cây
thập giá tưởng như là sự kết thúc của mọi niềm hy vọng, đã trở nên nguồn mạch của
sự sống và sự sống lại.
Xin
hãy tạo trong chúng con sự thinh lặng để chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa
trong sự Tác Tạo và trong Kinh Thánh, trong các sự kiện của đời sống hằng ngày
và trong những người chung quanh, nhất là những người nghèo khó và đau khổ.
Nguyện xin Lời Chúa hướng dẫn chúng con để, giống như hai môn đệ từ Emmau,
chúng con cũng sẽ được hưởng sức mạnh sự phục sinh của Chúa và làm chứng cho những
người khác rằng Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng con như nguồn mạch của tình
anh em, công lý và hòa bình. Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con Đức
Maria, Đấng đã mặc khải cho chúng con về Chúa Cha và đã sai Chúa Thánh Thần đến
với chúng con. Amen.
2.
Bài Đọc
a)
Chìa khóa dẫn đến bài đọc:
Bài
Tin Mừng của ngày Chúa Nhật thứ hai mùa Thường Niên hôm nay đặt chúng ta trước
bữa Tiệc Cưới tại Cana, trong xứ Galilêa. Vào thời ấy, cũng như bây
giờ, mọi người thích những dịp lễ lạc: tiệc cưới hoặc lễ Rửa Tội, tiệc
sinh nhật, tiệc mừng thánh Quan Thầy hoặc Bổn Mạng của Giáo Hội, lễ tất niên,
tiệc và tiệc… Có một số lễ vẫn còn khắc sâu trong trí nhớ của chúng
ta, và với thời gian, luôn đạt được một ý nghĩa sâu sắc hơn. Các
ngày lễ khác, chúng ta quên mất. Chúng ta không còn nhớ đến nữa bởi
vì chúng đã làm mất đi ý nghĩa. Tiệc cưới tại Cana, như được mô tả
trong Tin Mừng của thánh Gioan (Ga 2:1-12), vẫn còn sống động trong trí nhớ của
những người Kitô hữu, và nó đã cho ra một vài ý nghĩa sâu sắc hơn.
Để hiểu
được sự khám phá tiến triển này về tầm quan trọng của Tiệc Cưới tại Cana, chúng
ta phải nhớ rằng Tin Mừng của Gioan thì khác với các sách Tin Mừng
khác. Gioan mô tả các sự kiện của cuộc đời Đức Giêsu theo một cách
mà độc giả khám phá thấy trong một khía cạnh sâu xa hơn, chỉ có đức tin mới có
thể cảm nhận được. Đồng thời, Gioan giới thiệu bức ảnh chụp cùng với
bức hình ghi lại bằng quang tuyến-X. Đây là lý do tại sao trong khi
đọc bài đọc, thiết tưởng chúng ta nên chú ý kỹ đến các chi tiết của văn bản, đặc
biệt là hai điều sau đây: (i) về thái độ và cách cư xử của những người
trong câu chuyện và (ii) về những gì thiếu thốn và những gì có dư dật trong Tiệc
Cưới tại Cana.
b)
Phần phân đoạn văn bản để trợ giúp cho bài đọc:
Ga
2:1-2: Tiệc cưới. Đức Maria có mặt, Chúa Giêsu là một
trong những khách mời.
Ga
2:3-5: Chúa Giêsu và Mẹ Người trước việc thiếu rượu.
Ga
2:6: Những cái chum không, được dùng cho việc tẩy rửa.
Ga
2:7-8: Sáng kiến của Chúa Giêsu và của các người giúp việc.
Ga
2:9-10: Việc khám phá ra phép lạ bởi người quản tiệc.
Ga
2:11-12: Lời bình luận của Thánh Sử.
c)
Tin Mừng:
1 Vào ngày thứ ba, có tiệc cưới tại
Cana xứ Galilêa. Và có mẹ của Chúa Giêsu ở đó. 2Chúa Giêsu và
các môn đệ Người cũng được mời dự tiệc cưới. 3 Và bỗng thiếu
rượu, mẹ Chúa Giêsu nói với Người: “Họ hết rượu rồi”. 4 Chúa
Giêsu nói với mẹ: “Hỡi bà, Con với bà có can chi đâu, giờ Con chưa đến”. 5 Mẹ
Người nói với những người giúp việc: “Hễ Người bảo gì, thì phải làm theo”.
6 Ở đó có sáu chum đá, dùng vào việc thanh
tẩy của người Do-thái, mỗi chum đựng được hai hoặc ba thùng nước. 7 Chúa
Giêsu bảo họ: “Hãy đổ nước đầy các chum”. Họ đổ đầy tới miệng. 8 Và
Chúa Giêsu bảo họ: “Bây giờ hãy múc đem cho người quản tiệc!” 9 Và
họ đã đem đi. Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu, ông không biết
tự đâu ra, nhưng những người giúp việc đã múc nước thì biết, ông mới gọi tân
lang 10 mà nói: “Ai cũng đem rượu ngon ra trước, khi khách
ngà ngà thì mới đem rượu xoàng hơn. Còn ông, ông lại giữ rượu ngon tới giờ
này”. 11 Chúa Giêsu đã làm phép lạ đầu tiên này tại Cana xứ
Galilêa, và đã tỏ vinh quang Người và các môn đệ Người tin Người.
12 Sau đó Người xuống Caphárnaum làm một với
mẹ Người, anh em (Người) và môn đệ của Người, nhưng các Ngài chỉ lưu lại ở đó
ít ngày thôi.
3.
Giây phút thinh lặng cầu nguyện
Để Lời
Chúa có thể thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.
4.
Một vài câu hỏi gợi ý
Để
giúp chúng ta trong phần suy gẫm cá nhân.
a) Điểm nào trong bài Tin Mừng này
đã làm bạn hài lòng nhất và điểm nào tạo ấn tượng với bạn nhất? Tại
sao?
b) Điều gì đã làm bạn cảm kích trong thái độ
và trong cách cư xử của những người trong cuộc? Tại sao?
c) Những gì đã thiếu thốn và những gì đã có
dư dật trong tiệc cưới? Chi tiết này có ý nghĩa như thế nào?
d) Chúa Giêsu đã làm gì và bằng cách nào
Người đã làm điều ấy để ban cho rượu được dư thừa?
e) Chúa Giêsu bắt đầu việc công bố về Nước
Trời trong Tiệc Cưới. Với cử chỉ này, Người muốn dạy cho chúng ta điều
gì?
f) Ngày nay, bài Tin Mừng này cho chúng ta
sứ điệp gì?
5.
Dành cho những ai muốn đào sâu vào trong chủ đề
a)
Bối cảnh để hiểu được bức ảnh chụp và hình tia-X:
Khi
chúng ta nói “bức ảnh chụp”, chúng ta cho thấy các sự kiện trong đó, giống như
khi chúng xuất hiện trước mắt chúng ta. Khi chúng ta nói “hình chụp
bằng tia-X”, chúng ta muốn nói đến một chiều hướng sâu xa hơn, vô hình đối với
mắt chúng ta, được đính kèm trong các sự kiện mà chỉ có đức tin mới làm cho
chúng ta cảm nhận được và mặc khải cho chúng ta.
Đó là
cách thức mà Gioan mô tả các sự kiện ông chiếu quang tuyến-X vào những lời nói
và cử chỉ của Chúa Giêsu. Qua các chi tiết nhỏ nhặt và điểm quy chiếu
này, ông làm rõ ràng khía cạnh biểu hiệu và, trong việc này, ông giúp chúng ta
đi sâu hơn vào mầu nhiệm về con người và sứ điệp của Đức
Giêsu. Trong Tiệc Cưới tại Cana, xứ Galilêa, có sự biến đổi của nước
dùng vào việc thanh tẩy của người Do Thái trở nên rượu cho Tiệc Cưới. Chúng
ta hãy nhìn kỹ vào các chi tiết Gioan miêu tả về bữa tiệc, trong một cách mà
chúng ta có thể hiểu được ý nghĩa sâu sắc hơn về phân cảnh xinh đẹp và rất nổi
tiếng này.
b)
Lời bình luận về văn bản:
Ga
2:1-2: Tiệc cưới. Chúa Giêsu là khách mời.
Trong
Cựu Ước, tiệc cưới là một biểu tượng của tình yêu Thiên Chúa dành cho dân riêng
của Người. Đó là những gì mọi người mong chờ trong tương lai (Hs
2:21-22; Is 62:4-5). Và chính tại bữa tiệc cưới, chung quanh gia
đình và cộng đồng, Chúa Giêsu thực hiện “phép lạ đầu tiên” của Người (Ga
2:11). Mẹ Chúa Giêsu cũng có mặt tại bữa tiệc cưới. Chúa
Giêsu và các môn đệ là khách mời. Mẹ Chúa Giêsu cũng dự phần vào tiệc
cưới. Điều này tượng trưng cho Cựu Ước. Cùng với các môn
đệ, Chúa là Tân Ước đang đến: Thân Mẫu Chúa Giêsu sẽ giúp để đi từ Cựu
Ước sang Tân Ước.
Ga
2:3-5: Chúa Giêsu và Mẹ Người trước việc tiệc bị thiếu rượu
Ngay
giữa bữa tiệc, xảy ra việc hết rượu. Mẹ Chúa Giêsu nhận ra những giới
hạn của Cựu Ước và đưa ra sáng kiến, để cho Tân Ước có thể được biểu thị. Bà
đến gần Chúa và nói với Người: “Họ hết rượu rồi!” Ở đây
chúng ta có bức ảnh và hình chụp bằng tia-X. Bức ảnh cho thấy Mẹ
Chúa Giêsu giống như một người quan tâm đến vấn nạn của người khác và nhận biết
rằng việc thiếu rượu sẽ làm hỏng bữa tiệc. Bà không những chỉ nhận
thấy được vấn đề, mà còn có sáng kiến hiệu quả để giải quyết nó. Tấm
phim chụp bằng tia-X cho thấy khía cạnh sâu xa nhất của sự
liên hệ giữa Cựu Ước (Mẹ Chúa Giêsu) và Tân Ước (Chúa Giêsu). Câu
nói: “Họ hết rượu rồi!” phát xuất từ Cựu Ước, và làm thức tỉnh trong
Chúa Giêsu động tác đưa ra ánh sáng cho Tân Ước. Chúa Giêsu nói “Hỡi
bà, Con với bà có can chi đâu?” Đó là, sự liên kết giữa Cựu và Tân Ước
là gì? “Giờ Con chưa đến!” Đức Maria đã không hiểu câu trả
lời này theo nghĩa tiêu cực, như là một lời chối từ, bởi vì bà nói với những
người giúp việc: “Hễ Người bảo gì, thì phải làm
theo!” Chính trong việc làm đó Chúa Giêsu dạy rằng người ta đi từ Cựu
Ước sang Tân Ước! Giờ của Chúa Giêsu, trong đó việc chuyển
đổi từ Cựu Ước sang Tân Ước sẽ xảy ra, là cuộc Thương Khó, sự Tử Nạn và Phục
Sinh của Người. Việc nước hóa thành rượu là dấu hiệu dự đoán những
gì mới mẻ sẽ đến từ sự Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Giêsu.
Vào
cuối thế kỷ thứ nhất, những Kitô hữu tiên khởi đã thảo luận về việc sự hợp lệ của
Cựu Ước. Có người không còn muốn biết bất cứ điều gì về Cựu Ước nữa. Trong
buổi gặp gỡ của các thánh tông đồ tại Giêrusalem, thánh Giacôbê đã bênh vực việc
tiếp tục xử dụng Cựu Ước (Cv 15:13-21). Trong thực tế, vào đầu thế kỷ
thứ hai, nhóm lạc giáo Marcione đã khước từ Cựu Ước và chỉ tin vào những sách
Tân Ước. Một số người thậm chí còn khẳng định rằng sau khi Chúa
Thánh Thần xuất hiện, ông Giêsu thành Nagiarét không nên được nhớ đến nữa,
chúng ta chỉ nên nói về Chúa Kitô Phục Sinh mà thôi. Nhân danh Chúa
Thánh Thần, họ nói: “Giêsu đáng nguyền rủa!” (1Cr 12:3).
Ga
2:6: Những chum nước dành cho việc thanh tẩy đã trống không
Đó là
câu hỏi về một chi tiết nhỏ, rất quan trọng. Những chum nước thông
thường là đầy nước, đặc biệt là trong một bữa tiệc. Ở đây chúng lại
trống không! Tại sao vậy? Việc tuân giữ quy luật thanh tẩy,
được điển hình bằng sáu chum nước, đã ráo cạn hết các khả năng của
chúng. Lề luật cũ đã thành công trong việc chuẩn bị để cho người ta
có thể có sự kết hợp của ân sủng và biện hộ trước Thiên Chúa. Những
chum nước, Giao Ước cũ, đã cạn khô! Chúng không còn khả năng để tạo
ra đời sống mới.
Ga 2:
7-8: Chúa Giêsu và những người giúp việc
Lời
khuyên của Thân Mẫu Chúa Giêsu cho các người giúp việc là mệnh lệnh cuối cùng của
Cựu Ước: “Hễ Người bảo gì, thì phải làm theo!” Cựu Ước hướng
về Chúa Giêsu. Từ giờ trở đi, những lời nói, cử chỉ và hành động của
Chúa Giêsu sẽ là những điều chỉ hướng cho đời sống chúng ta. Chúa
Giêsu cho gọi những người giúp việc và bảo họ đổ đầy nước vào sáu cái chum trống
không. Tổng cộng, hơn sáu trăm lít! Ngay lập tức Người ra
lệnh cho họ múc nước từ chum và đem đến cho người quản tiệc. Việc khởi
xướng của Chúa Giêsu diễn ra không có sự can thiệp của người quản tiệc. Không
phải Chúa Giêsu, cũng chẳng phải Đức Maria Mẹ Người, cũng không phải những người
giúp việc hiển nhiên là những thân chủ. Không ai trong bọn họ đã đến
xin phép người quản tiệc hoặc chú rể. Sự đổi mới trao qua cho những
người không thuộc về trung tâm quyền lực.
Ga 2:
9-10: Việc khám phá dấu chỉ của người quản tiệc
Người
quản tiệc nếm thử nước đã hóa thành rượu và nói với tân lang: “Ai
cũng đem rượu ngon ra trước, khi khách ngà ngà thì mới đem rượu xoàng hơn. Còn
ông, ông lại giữ rượu ngon tới giờ này!” Người quản tiệc, Cựu Ước,
công nhận cách công khai rằng Tân Ước thì tốt hơn! Điều mà trước đó
là nước dành cho nghi thức thanh tẩy của người Do Thái, giờ đây lại có dư giả
rượu cho bữa tiệc. Có rất nhiều rượu! Hơn sáu trăm lít,
và bữa tiệc thì sắp tàn! Đâu là ý nghĩa của sự dư giả
này? Sẽ phải làm sao đây với những rượu dư thừa đó? Chúng
ta đang uống rượu ấy cho đến bây giờ!
Ga
2:11-12: Lời bình luận của Thánh Sử
Đây
là dấu chỉ đầu tiên. Trong sách Tin Mừng Thứ Tư, dấu chỉ đầu tiên xảy
ra để giúp đỡ trong việc xây dựng gia đình, cộng đoàn, để hàn gắn các mối quan
hệ giữa con người. Sáu dấu chỉ khác sẽ nối tiếp. Gioan
không dùng chữ phép lạ, mà dùng chữ dấu chỉ. Chữ
dấu chỉ cho thấy rằng các hành động của Chúa Giêsu thay mặt cho người ta mang một
giá trị sâu xa hơn, mà chỉ có thể khám phá ra được với hình tia-X của đức
tin. Cộng đoàn nhỏ đã được hình thành chung quanh Chúa Giêsu trong
tuần đó, nhìn thấy dấu chỉ, đã sẵn sàng để cảm nhận được ý nghĩa sâu sắc hơn và
“tin tưởng vào Người”.
c)
Phần phụ chú:
- Một Đám Cưới
nhiều chờ đợi hy vọng
Trong
sách Tin Mừng Gioan, sự bắt đầu cuộc sống công khai của Chúa Giêsu xảy ra trong
một tiệc cưới, giây phút của sự vui mừng lớn lao và hy vọng tràn trề. Cũng
vì lý do này, tiệc cưới tại Cana có một ý nghĩa tượng trưng rất mạnh mẽ. Trong
Kinh Thánh, hôn nhân là hình ảnh được dùng để biểu thị việc thực hiện sự kết hợp
hoàn hảo giữa Thiên Chúa và dân của Người. Cuộc hôn nhân này giữa
Thiên Chúa và dân của Người đã được mong đợi trong thời gian lâu dài, trong hơn
tám trăm năm!
Chính
tiên tri Hôsê (khoảng năm 750 trước Công Nguyên), lần đầu tiên, ông đã đại diện
cho niềm hy vọng của cuộc hôn nhân này khi ông thuật lại dụ ngôn về sự không
chung thủy của người ta trước lời hôn ước của Đức Gia-Vê . Chế độ
quân chủ ở Israel đã từ bỏ Đức Gia-Vê và lòng thương xót của Ngài, dẫn đưa dân
Israel hướng đến tà thần. Nhưng ngôn sứ, chắc chắn về tình yêu của
Thiên Chúa, nói rằng người ta sẽ được hướng dẫn lần nữa trong sa mạc để nghe lời
hứa sau đây từ Thiên Chúa: “Ta sẽ lập với ngươi một hôn ước vĩnh cửu,
Ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong công minh và chính trực, trong ân tình và xót
thương; Ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong tín thành, và ngươi sẽ được biết Đức
Chúa!” (Hs 2:21-22). Cuộc hôn nhân này giữa Thiên Chúa và dân của
Người chỉ ra rằng lý tưởng của việc xuất hành sẽ đạt được (Hs
2:4-25). Khoảng một trăm năm mươi năm sau đó, tiên tri Giêrêmia dùng
những lời của tiên tri Hôsê để tố cáo chế độ quân chủ của bộ tộc
Giuđa. Và ông nói rằng dân Giuđa sẽ có cùng chung sống phân như dân
Israel vì lòng bất trung của họ (Gr 2:2-5; 3:11-13). Nhưng tiên tri
Giêrêmia cũng hướng tới niềm hy vọng cho một cuộc hôn nhân hoàn hảo với sự mới
mẻ sau đây: đó là người phụ nữ sẽ quyến luyến người chồng (Gr
31:22). Và mặc dù cuộc khủng hoảng tạo nên bởi cuộc lưu đày ở
Babylon, người ta không mất hy vọng rằng có một ngày cuộc hôn nhân này sẽ diễn
ra. Đấng Gia-Vê sẽ chạnh lòng thương xót với người vợ bị ruồng bỏ của
mình (Is 54:1-8). Với sự trở lại của người lưu vong, “người vợ bị ruồng
rẫy” một lần nữa sẽ là người vợ được chấp nhận với sự vui mừng lớn lao (Is
62:4-5).
Cuối
cùng, nhìn vào việc Mới Lạ đang xảy ra, Gioan Tiền Hô hướng về Chúa Giêsu, chàng
rể đang được chờ đợi (Ga 3:29). Trong lời giáo huấn của Chúa và
trong các cuộc trò chuyện với mọi người, Đức Giêsu nói lại dụ ngôn của tiên tri
Hôsê, ước mơ về cuộc hôn nhân hoàn hảo. Người tự giới thiệu mình là
chàng rể đang được mong đợi (Mk 2:19). Trong cuộc nói chuyện với người
phụ nữ Samaritanô, Chúa kín đáo tự giới thiệu mình là chàng rể thật sự, là người
chồng thứ bảy (Ga 4:16-17). Các cộng đoàn Kitô hữu sẽ chấp nhận Đức
Giêsu như là chàng rể đang được mong đợi (2Cr 11:2; Êp 5:25-31). Tiệc
cưới tại Cana muốn cho thấy rằng Đức Giêsu là chàng rể đích thực đến với đám cưới
đang được chờ đợi, mang lại rượu ngon và dồi dào. Cuộc hôn nhân cuối
cùng này được mô tả với những hình ảnh đẹp đẽ trong sách Khải Huyền (Kh 19:7-8;
21:1a; 22:5).
- Thân mẫu của
Chúa Giêsu trong sách Tin Mừng của Gioan
Mặc
dù bà không bao giờ được nhắc đến với tên là Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu xuất hiện
hai lần trong sách Tin Mừng của Gioan: vào lúc bắt đầu tiệc cưới tại
Cana (Ga 2:1-5), và vào lúc kết thúc, dưới chân cây Thập Giá (Ga
19:25-27). Trong cả hai trường hợp, bà đại diện cho Cựu Ước đang chờ
đợi Tân Ước đến, và trong cả hai trường hợp, bà góp phần vào sự xuất hiện của
Tân Ước. Đức Maria là sự nối kết hiệp nhất giữa những gì xảy ra trước
đây trong quá khứ và những gì sẽ đến sau đó. Tại Cana, Đức Maria, Mẹ
của Chúa Giêsu, tượng trưng cho Cựu Ước, là người nhận thức được những hạn chế
của Cựu Ước và bước tới những bước cần thiết để đạt được Tân Ước. Tại
chân Thập Tự Giá, bà đứng bên cạnh của “Người Môn Đệ Chúa Yêu”. Người
Môn Đệ Chúa Yêu là cộng đoàn phát triển chung quanh Chúa Giêsu, ông là người
con sinh ra từ Cựu Ước. Trước lời yêu cầu của Đức Giêsu, người con,
Tân Ước, nhận Đức Maria, Cựu Ước, vào trong nhà mình. Cả hai phải
cùng đồng hành với nhau. Thật ra, Tân Ước không thể hiểu được mà
không có Cựu Ước. Tân Ước sẽ không có nền tảng, hoặc căn bản. Và
Cựu Ước mà không có Tân Ước thì sẽ không đầy đủ: một cây không có
hoa trái.
- Bảy ngày của việc
Tạo Dựng Mới
Văn bản
bắt đầu bằng cách nói rằng: “Vào ngày thứ ba” (Ga
2:1). Trong chương trước, Gioan đã lặp đi lặp lại câu
nói: “Vào ngày hôm sau” (Ga 1:29, 35, 43). Vì
điều này, nó cho chúng ta lược đồ sau đây: Việc chứng tá của Gioan Tẩy
Giả về Đức Giêsu (Ga 1:19-28) xảy ra vào ngày thứ nhất. “Ngày hôm
sau” (Ga 1:29), là ngày thứ hai, là ngày Chúa Giêsu chịu Phép Rửa (Ga
1:29-34). Ngày thứ ba, việc mời gọi các môn đệ và ông
Phêrô xảy ra (Ga 1:35-42). Vào ngày thứ tư, Chúa Giêsu gọi
ông Philíphê và Philíphê gọi ông Nathanaen (Ga 1:43-51). Cuối
cùng, “ba ngày sau đó” đó là ngày thứ bảy, nghĩa là, vào ngày
Thứ Bảy, dấu chỉ đầu tiên xảy ra, tại tiệc cưới ở Cana (Ga
2:1). Trong suốt sách Tin Mừng, Đức Giêsu làm ra bảy dấu chỉ.
Thánh
Gioan sử dụng đề cương của một tuần lễ để trình bày việc khởi
đầu hoạt động của Chúa Giêsu. Cựu Ước dùng cùng một đề cương để
trình bày sự sáng tạo vũ trụ. Trong sáu ngày đầu tiên, Thiên Chúa đã
tạo dựng nên mọi thứ và đặt tên cho chúng. Vào ngày thứ bảy, Người
nghỉ ngơi, và không làm việc nữa (Ga 1:1-2, 4). Trong cùng một cách,
Chúa Giêsu trong những ngày đầu hoạt động của mình, Người thu nhận các môn đệ
và thành lập cộng đoàn, nhân loại mới. Vào ngày thứ bảy, đó là ngày
Thứ Bảy, Chúa Giêsu không nghỉ ngơi, mà làm dấu chỉ đầu tiên. Trong
các chương kế tiếp, từ chương 2 cho đến hết chương 19, Người làm sáu dấu chỉ
khác, luôn luôn vào ngày Thứ Bảy (Ga 5:16; 9:14). Cuối cùng, vào buổi
sáng Phục Sinh, khi bà Maria Mađalêna ra thăm mộ, ngày đó được viết
là: “ngày thứ nhất trong tuần” (Ga 20:1). Đó là ngày đầu
tiên của sự sáng tạo mới, sau ngày Thứ Bảy dài lê thê trong đó Chúa Giêsu đã
làm bảy dấu chỉ. Bị buộc tội là làm việc trong ngày Thứ Bảy, Đức
Giêsu đáp lại: “Cho đến nay, Cha Ta vẫn làm việc, thì Ta cũng làm việc”
(Ga 5:17). Qua hoạt động của Chúa Giêsu từ Cana đến cây Thập Giá,
Chúa Cha hoàn tất những gì còn thiếu sót trong việc tạo dựng cũ, trong một cách
thức mà sự sáng tạo mới có thể nổi bật lên trong sự Phục Sinh của Đức Giêsu.
6.
Cầu Nguyện với Thánh Vịnh 148
Alleluia! Ca
tụng CHÚA đi, tự cõi trời thăm thẳm,
ca tụng Người, trên chốn cao xanh.
Ca tụng Chúa đi, mọi sứ thần của Chúa,
ca tụng Người, hỡi toàn thể thiên binh!
ca tụng Người, trên chốn cao xanh.
Ca tụng Chúa đi, mọi sứ thần của Chúa,
ca tụng Người, hỡi toàn thể thiên binh!
Ca tụng
Chúa đi, này vầng ô bóng nguyệt,
ca tụng Người, muôn tinh tú rạng soi.
Ca tụng Chúa đi, hỡi cửu trùng cao vút,
cả khối nước phía trên bầu trời.
ca tụng Người, muôn tinh tú rạng soi.
Ca tụng Chúa đi, hỡi cửu trùng cao vút,
cả khối nước phía trên bầu trời.
Nào
ca tụng thánh danh ĐỨC CHÚA,
vì Người ra lệnh, là hết thảy được tạo thành;
Người định nơi cho tất cả đến muôn đời muôn thuở,
ban truyền lề luật, luật đó chẳng hề qua.
vì Người ra lệnh, là hết thảy được tạo thành;
Người định nơi cho tất cả đến muôn đời muôn thuở,
ban truyền lề luật, luật đó chẳng hề qua.
Ca tụng
CHÚA đi, từ mười phương đất,
này thủy quái dị hình, này tất cả vực sâu,
lửa hồng mưa đá, tuyết trắng mây mù,
ngọn cuồng phong, cấp thừa hành lời Chúa.
Núi với đồi trùng trùng điệp điệp,
cây ăn trái và đủ loại bá hương,
thú vật rừng hoang cùng là gia súc,
loài bò sát và mọi giống chim trời.
Bậc vua chúa cũng như hàng lê thứ,
khanh tướng công hầu, thủ lãnh trần gian,
ai là nam thanh, ai là nữ tú,
khắp mặt bô lão, khắp mặt nhi đồng!
này thủy quái dị hình, này tất cả vực sâu,
lửa hồng mưa đá, tuyết trắng mây mù,
ngọn cuồng phong, cấp thừa hành lời Chúa.
Núi với đồi trùng trùng điệp điệp,
cây ăn trái và đủ loại bá hương,
thú vật rừng hoang cùng là gia súc,
loài bò sát và mọi giống chim trời.
Bậc vua chúa cũng như hàng lê thứ,
khanh tướng công hầu, thủ lãnh trần gian,
ai là nam thanh, ai là nữ tú,
khắp mặt bô lão, khắp mặt nhi đồng!
Nào
ca tụng thánh danh Đức Chúa,
vì thánh danh Người cao cả vô song,
và oai phong vượt quá đất trời.
Thế lực dân Người, Người đã nâng cao.
Đó là bài ca tụng của những ai hiếu trung với Chúa,
của con cháu nhà Israel, dân gần gũi với Người.
vì thánh danh Người cao cả vô song,
và oai phong vượt quá đất trời.
Thế lực dân Người, Người đã nâng cao.
Đó là bài ca tụng của những ai hiếu trung với Chúa,
của con cháu nhà Israel, dân gần gũi với Người.
7.
Lời Nguyện Kết
Lạy
Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa về Lời Chúa đã giúp chúng con hiểu rõ hơn
ý muốn của Chúa Cha. Nguyện xin Thần Khí Chúa soi sáng các việc làm
của chúng con và ban cho chúng con sức mạnh để thực thi Lời Chúa đã mặc khải
cho chúng con. Nguyện xin cho chúng con, được trở nên giống như Đức
Maria, thân mẫu Chúa, không những chỉ lắng nghe mà còn thực hành Lời
Chúa. Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha trong sự
hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.






Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét