21/01/2019
Thứ Hai tuần 2 thường niên
Thánh Anê, trinh nữ, tử đạo.
Lễ nhớ.
* Anê là một thiếu
nữ Rôma, mới từ mười hai đến mười lăm tuổi đã tình nguyện chết vì đức tin khi
cuộc bách hại của hoàng đế Đi-ô-cơ-lê-xi-a-nô tới hồi khốc liệt nhất (năm 305).
Đó là sự việc thánh Am-rô-xi-ô đã ghi lại, và là lý do khiến Hội Thánh Rôma tưởng
nhớ thánh nữ với hết tình yêu mến.
BÀI ĐỌC I: Dt 5, 1-10
“Dầu là Con Thiên Chúa, Người
đã học vâng phục do những đau khổ Người chịu”.
Trích thư gửi tín hữu
Do-thái.
Tất cả các vị Thượng tế
được chọn giữa loài người, nên được đặt lên thay cho loài người mà lo việc
Chúa, để hiến dâng lễ vật và hy lễ đền tội. Người có thể thông cảm với những kẻ
mê muội và lầm lạc, vì chính người cũng mắc phải yếu đuối tư bề. Vì thế cũng
như người phải dâng lễ đền tội thay cho dân thế nào, thì người dâng lễ đền tội
cho chính mình như vậy. Không ai được chiếm vinh dự đó, nhưng phải là người được
Thiên Chúa kêu gọi, như Aaron. Cũng thế, Đức Kitô không tự dành lấy quyền làm
thượng tế, nhưng là Đấng đã nói với Người rằng: “Con là Con Cha, hôm nay Cha
sinh ra Con”. Cũng có nơi khác Ngài phán: “Con là Tư tế đến muôn đời theo phẩm
hàm Menkixêđê”. Khi còn sống ở đời này, Chúa Kitô đã lớn tiếng và rơi lệ dâng lời
cầu xin khẩn nguyện lên Đấng có thể cứu Mình khỏi chết, và vì lòng thành kính,
Người đã được nhậm lời. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã học vâng phục do những
đau khổ Người chịu, và khi hoàn tất, Người đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời
đời cho tất cả những kẻ tùng phục Người. Người được Thiên Chúa gọi là Thượng tế
theo phẩm hàm Menkixêđê. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 109, 1. 2.
3. 4.
Đáp: Con là Thượng
tế tới muôn đời theo phẩm hàm Menkixêđê (c. 4bc).
Xướng: 1) Thiên Chúa
đã tuyên bố cùng Chúa tôi rằng: “Con hãy ngồi bên hữu Ta, cho tới khi Ta bắt
quân thù làm bệ kê dưới chân Con”. – Đáp.
2) Đức Thiên Chúa từ
Sion sẽ phô bày vương trượng quyền bính của Ngài, rằng: “Con hãy thống trị giữa
quân thù”. – Đáp.
3) Các thủ lãnh cùng
hiện diện bên Con, ngày Con giáng sinh trong thánh thiện huy hoàng: trước rạng
đông, tựa hồ sương sa, Ta đã sinh hạ ra Con”. – Đáp.
4) Đức Thiên Chúa đã
thề và không hối hận rằng: “Con là Thượng tế tới muôn đời theo phẩm hàm
Menkixêđê”. – Đáp.
ALLELUIA: Tv 144, 13cd -Chúa trung thành trong mọi lời Chúa phán,
và thánh thiện trong mọi việc Chúa làm. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mc 2, 18-22
“Tân lang còn ở với họ”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, môn đồ của
Gioan và các người biệt phái ăn chay, họ đến nói với Chúa Giêsu rằng: “Tại sao
môn đồ của Gioan và các người biệt phái ăn chay, còn môn đồ Ngài lại không ăn
chay?” Chúa Giêsu nói với họ: “Các khách dự tiệc cưới có thể ăn chay khi tân
lang còn ở với họ không? Bao lâu tân lang còn ở với họ, thì họ không thể ăn
chay được. Nhưng sẽ đến ngày tân lang bị đem đi, bấy giờ họ sẽ ăn chay. Không
ai lấy vải mới mà vá áo cũ, chẳng vậy, miếng vải vá sẽ rút lại mà kéo áo cũ, và
chỗ rách lại tệ hơn. Cũng không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, chẳng vậy, rượu sẽ
làm vỡ bầu da, và rượu đổ, bầu da hư. Nhưng rượu mới phải để trong bầu da mới”.
Đó là lời Chúa.
Suy Niệm : Cốt lõi của
đạo
Trong những thập
niên gần đây, mặc dầu càng lúc Hiến pháp các quốc gia càng đi sâu vào sự tách
biệt giữa tôn giáo và nhà nước; thế nhưng, sự liên kết giữa tôn giáo và chính
trị lại càng đậm nét hơn. Cuộc chiến giữa Tư bản và Cộng sản đã hầu như chấm dứt,
nhưng chiến tranh tôn giáo xem chừng vẫn dai dẳng, không những giữa những người
khác tôn giáo với nhau, mà ngay cả trong cùng một tôn giáo. Nhìn vào thảm cảnh ấy,
ai cũng thắc mắc tự hỏi: Tôn giáo nào mà không dạy ăn ngay ở lành, tôn giáo nào
mà không dạy sự khoan dung tha thứ, thế thì tại sao những người có tôn giáo lại
nhân danh tôn giáo của mình để gây chiến với người khác hay với chính những người
đồng đạo của mình?
Câu trả lời thật
đơn giản: sở dĩ người có tôn giáo có thái độ quá khích và bất khoan nhượng, là
vì họ chưa sống đúng cái cốt lõi của đạo. Xét cho cùng, cái cốt lõi của tôn
giáo nào cũng là tình thương.
Chúa Giêsu cũng muốn
chứng tỏ cho chúng ta thấy thế nào là sống đạo. Chúng ta hãy chiêm ngắm thái độ
và lời dạy của Ngài trong Tin Mừng hôm nay. Vừa bắt đầu sứ mệnh rao giảng của
Ngài, cũng như các kinh sư của thời đại Ngài, Chúa Giêsu cũng qui tụ một số môn
đệ; và cũng như các môn đệ của các kinh sư khác, môn đệ của Ngài cũng theo một
lối sống nào đó. Thế nhưng, điều khiến cho nhiều người ngạc nhiên và đặt vấn đề,
đó là Chúa Giêsu và các môn đệ Ngài không tuân giữ một số ngày chay tịnh như
môn đệ của Gioan hay của những người Biệt phái. Không tuân giữ những ngày chay
tịnh đã đành, sau này xem ra Chúa Giêsu càng thách thức hơn nữa, khi Ngài không
tuân giữ cả ngày hưu lễ hay một số tập tục khác, như rửa tay trước khi ăn.
Suốt cuộc sống của
Ngài, Chúa Giêsu đã tỏ ra rất độc lập đối với Do thái giáo. Ðây quả là cách sống
đạo hoàn toàn mới mẻ mà Chúa Giêsu muốn đề ra cho con người. Ðối với Ngài, linh
hồn và cốt lõi của đạo chính là tình thương; tình thương ấy đã thúc đẩy Ngài đi
đến tận cùng bằng cái chết trên Thập giá, và cái chết của Ngài mãi mãi là lời tố
cáo về thái độ bất khoan nhượng trong niềm tin tôn giáo của con người. Vụ án của
Ngài được thi hành như một vụ án chính trị; mãi mãi tên tuổi của viên toàn quyền
La mã là Philatô gắn liền với cái chết của Ngài. Tuy nhiên, vụ án của Chúa
Giêsu vẫn là một vụ án tôn giáo: Ngài chết vì sự cuồng tín và thái độ bất khoan
nhượng của các thủ lãnh Do thái giáo.
Chiêm ngắm thái độ của
Chúa Giêsu trong suốt cuộc đời trần thế của Ngài và lắng nghe giáo huấn của
Ngài, chúng ta sẽ thấy rằng cái cốt lõi của đạo chính là tình thương. Trong cuộc
sống đạo, nhiều lúc chúng ta thắc mắc phải ăn chay thế nào cho đúng cách? Ngày
Chúa nhật có được làm việc xác không? Bỏ lễ Chúa nhật có tội hay không? Thật ra
còn có nhiều câu hỏi nền tảng hơn mà thiết tưởng chúng ta không thể không đặt
ra để tự vấn lương tâm mỗi ngày: tôi có sống công bình, bác ái chưa? Tôi có yêu
thương người anh em bên cạnh tôi chưa? Nhắm mắt làm ngơ trước nỗi khổ của người
xung quanh tôi có phải là một tội không?
Nguyện xin Chúa cho
chúng ta ngày càng thấu hiểu và xác tín rằng sống đạo là sống yêu thương, rằng
cốt lõi của Kitô giáo chính là tình thương.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày
Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Hai Tuần II TN, Năm lẻ
Bài đọc: Heb
5:1-10; Mk 2:18-22.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Cũ và mới
Xung đột giữa cái cũ
và cái mới thường xảy ra ở mọi nơi và mọi thời: các chính thể, tôn giáo, cách
cư xử, thời trang và vóc dáng. Ví dụ: Phong trào canh tân của Nhóm Tự Lực Văn
Đòan vào đầu thế kỷ 20, điển hình trong tác phẩm Đọan Tuyệt của Khái Hưng. Chúa
Giêsu và các môn đệ cũng phải đương đầu với người Do-Thái khi mang ra những mặc
khải mới của Thiên Chúa đến cho con người. Câu hỏi đặt ra: Cái nào tốt hơn?
Các Bài Đọc hôm nay
cũng xoay quanh sự xung đột giữa cũ và mới. Trong Bài Đọc I, tác giả Thư
Do-Thái dùng tiêu chuẩn cũ để chứng minh Đức Kitô là Thượng Tế mới có khả năng
đem Thiên Chúa đến cho con người và đem con người về cho Thiên Chúa; vì Ngài vừa
có kinh nghiệm của Thiên Chúa, vừa có kinh nghiệm của con người. Trong Phúc Âm,
Chúa Giêsu dùng câu hỏi của những người thuộc thời đại cũ để giúp họ nhận ra thời
đại mới đã bắt đầu; họ cần có tâm hồn mới để lãnh nhận giáo lý mới của Ngài
mang đến.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Chúa Giêsu là Thượng Tế. Bản
văn chúng ta nghiên cứu hôm nay, Heb 5:1-10, được tác giả sắp xếp theo cấu trúc
hình nón, với chóp đỉnh là Thượng Tế Aaron của Cựu Ước. Mục đích của tác giả là
chứng minh Chúa Giêsu là Thượng Tế của Tân Ước. Để làm điều này, tác giả dùng một
tam đọan luận: trước tiên, tác giả liệt kê 3 đặc tính của chức Thượng Tế; sau
đó, tác giả chứng minh Chúa Giêsu hội đủ 3 điều kiện này; cuối cùng, tác giả kết
luận: “Thiên Chúa tôn xưng Chúa Giêsu là Thượng Tế theo phẩm trật Melkisedech.”
1.1/ Ba đặc tính của Thượng
Tế:
(1) Thượng Tế đại diện
cho con người: “Quả vậy, thượng tế nào cũng là người được chọn trong số người
phàm, và được đặt lên làm đại diện cho loài người, trong các mối tương quan với
Thiên Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội.”
(2) Thượng Tế phải cảm
thông với con người: “Vị ấy có khả năng cảm thông với những kẻ ngu muội và những
kẻ lầm lạc, bởi vì chính người cũng đầy yếu đuối; mà vì yếu đuối, nên người phải
dâng lễ đền tội cho dân thế nào, thì cũng phải dâng lễ đền tội cho chính mình
như vậy.”
(3) Thượng Tế phải được
Thiên Chúa gọi: “Không ai tự gán cho mình vinh dự ấy, nhưng phải được Thiên
Chúa gọi, như ông Aaron đã được gọi.”
1.2/ Chúa Giêsu là Thượng
Tế:
(1) Chúa Giêsu được chọn
làm Thượng Tế: “Cũng vậy, không phải Đức Kitô đã tự tôn mình làm Thượng Tế,
nhưng là Đấng đã nói với Người: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra
Con, như lời Đấng ấy đã nói ở một chỗ khác: Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm
trật Melkisedech.”
(2) Chúa Giêsu cảm
thông với con người: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu
van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người
khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. Dầu là Con Thiên Chúa,
Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục.”
(3) Chúa Giêsu đại diện
cho con người: “và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn
ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người, vì Người đã được Thiên
Chúa tôn xưng là Thượng Tế theo phẩm trật Melkisedech.”
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu bảo vệ môn đệ của mình.
2.1/ Tại sao môn đệ Chúa
Giêsu không ăn chay? “Bấy giờ các môn đệ ông
Gioan và các người Pharisees đang ăn chay; có người đến hỏi Đức Giêsu: “Tại sao
các môn đệ ông Gioan và các môn đệ người Pharisees ăn chay, mà môn đệ ông lại
không ăn chay?”
Giao thời giữa Cựu và
Tân Ước là thời gian người Do-Thái gia tăng việc chay tịnh và khổ chế, không những
chỉ có trong những giáo phái, mà còn phổ thông trong dân như các việc đạo đức.
Chay tịnh, cùng với cầu nguyện và làm phúc, được coi là ba trụ chính của đời sống
đạo đức (Tob 12:8). Sách Judith coi chay tịnh là cách để xin ơn lành từ Thiên
Chúa (Jdt 4:9). Lối sống chay tịnh và khổ chế của Gioan Tẩy Giả trong sa mạc là
muốn đề cao lối sống đơn giản và sự tùy thuộc hòan tòan vào Thiên Chúa.
2.2/ Câu trả lời của Chúa
Giêsu nhấn mạnh đến 2 điểm chính:
(1) Lý do ăn chay: Ăn
chay phải có mục đích rõ ràng. Chúa cho biết lý do tại sao các môn đệ của Ngài
chưa ăn chay: “Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể ăn chay, khi chàng rể còn
ở với họ? Bao lâu chàng rể còn ở với họ, họ không thể ăn chay được.” Chúa Giêsu
nhận Ngài chính là chàng rể, và khách dự tiệc cưới, bạn hữu của chàng rể là các
môn đệ.
(2) Thời gian ăn chay:
Chay tịnh có lúc của nó, không phải lúc nào cũng ăn chay. Chúa Giêsu cho biết
khi nào các môn đệ của Ngài sẽ ăn chay: “Nhưng khi tới ngày chàng rể bị đem đi
rồi, bấy giờ họ mới ăn chay trong ngày đó.”
2.3/ Phải có tâm hồn mới
để lãnh nhận đạo lý mới: Chúa Giêsu là mốc
thời gian để phân biệt giữa cái cũ và mới. Những người Pharisees và môn đệ của
Gioan đại diện cho lớp người cũ, các môn đệ của Chúa Giêsu đại diện cho lớp người
mới. Để có thể lãnh nhận những đạo lý mới được giảng dạy bởi Đức Kitô, một người
cần có tâm hồn mới: rộng đủ để nhận ra những bất tòan của đạo lý cũ; đồng thời
biết đón nhận những đạo lý mới để làm cho con người ngày càng tòan hảo hơn. Nếu
không có tâm hồn mới, con người sẽ ngoan cố thủ cựu những điều cũ; đồng thời họ
sẽ khước từ những giáo lý mới của Đức Kitô.
Để giúp họ nhận ra sự
quan trong của một tâm hồn mới, Chúa Giêsu dùng 2 ví dụ rất quen thuộc với khán
giả:
(1) Áo và miếng vá:
“Chẳng ai lấy vải mới mà vá áo cũ, vì như vậy, miếng vá mới đã vá vào sẽ kéo vải
cũ, khiến chỗ rách lại càng rách thêm.”
(2) Rượu và bầu da:
“Cũng không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy, rượu sẽ làm nứt bầu, thế
là rượu cũng mất mà bầu cũng hư. Nhưng rượu mới, bầu cũng phải mới!”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúa Kitô là Thượng
Tế mới của giao ước mới hòan hảo hơn. Chúng ta hãy chạy đến với Ngài để học hỏi
những mặc khải mới của Thiên Chúa; và mời Ngài đồng hành với chúng ta.
– Chúng ta cần mở rộng
tâm hồn để đón nhận những điều mới lạ từ Thiên Chúa và tha nhân. Một tâm hồn
khép kín và thái độ hay chỉ trích sẽ không làm cho chúng ta tiến xa được.
– Dĩ nhiên chúng ta
không đón nhận tất cả các cái mới và lọai bỏ các cái cũ; nhưng biết dùng trí
khôn để thích ứng với hòan cảnh: giữ lại những gì tốt, thâu nhận những gì mới,
và cải tiến để làm cho tốt hơn.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
21/01/2019 – THỨ HAI TUẦN 2 TN
Th. A-nê, trinh nữ, tử đạo
Mc 2,18-22
Ý NGHĨA ĐÍCH THỰC CỦA VIỆC ĂN CHAY
“Tại sao môn đệ ông
lại không ăn chay?” (Mc 2,18)
Suy niệm: Ăn chay là việc đạo đức
truyền thống trong đạo Do Thái. Việc này phát xuất từ luật dạy, từ tâm tình thống
hối ăn năn vì tội lỗi cá nhân hoặc tập thể, từ lòng tự nguyện để khấn xin điều
gì tốt đẹp hơn, hay bày tỏ lòng chờ mong Đấng Cứu thế ngự đến. Khi thiết lập đạo
mới, Chúa Giê-su không từ bỏ thói quen đạo đức tốt lành này, vì chính Ngài cũng
ăn chay 40 đêm ngày trong hoang địa trước khi khởi sự rao giảng Nước Trời. Thế
nhưng, Ngài đặt việc ăn chay đúng vị trí của nó: Nước Trời được ví như bữa tiệc
cưới vui vẻ mà chú rể là Chúa Giê-su; khi Ngài còn hiện diện giữa họ, các phù rể
– các môn đệ – không thể ăn chay, họ mừng vui vì sự hiện diện của Ngài, họ
không thể ủ dột buồn bã, vì Chúa chính là nguồn vui đích thực của đời họ.
Mời Bạn: Ki-tô giáo là đạo của niềm
vui, niềm vui vì có Chúa đồng hành với ta trong cuộc đời, hạnh phúc vì được
Chúa yêu thương, chăm sóc. Sống trong Nước Trời của Chúa, niềm vui luôn được
bày tỏ nơi khuôn mặt bạn, trong cách hành xử, cung cách chọn lựa. Tuy nhiên, để
có niềm vui ấy, bạn phải chấp nhận tinh thần chay tịnh, chay tịnh trong việc sửa
đổi các thói hư tật xấu, chay tịnh trong lời ăn tiếng nói…
Sống Lời Chúa: Không nên chất vấn khắt
khe người khác khi thấy họ không thực hành một số việc đạo đức giống mình,
không hỏi ai đó “tại sao” khi không cần thiết.
Cầu nguyện: Lạy Chúa,
xin dạy con biết sống quảng đại với Chúa và anh chị em, vì sống như thế, con sẽ
biết phải làm thế nào trong mỗi hành vi ứng xử của mình. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
Chàng rể còn ở với (21.1.2019 –
Thứ Hai Tuần 2 TN - Thánh Anê, Trinh nữ, Tử Đạo)
Suy niệm:
Một trong những nét khác biệt giữa Gioan Tẩy Giả với Đức Giêsu
là sự khắc khổ nhiệm nhặt.
Gioan được coi là người “không ăn bánh, không uống rượu” (Lc 7, 33).
còn Đức Giêsu bị mang tiếng là “tay ăn nhậu” với quân thu thuế (Lc 7,
34).
Chúng ta đã từng thấy ngài ăn tại nhà ông Lêvi hay ông Dakêu.
Các người Pharisêu cũng là những người thích ăn chay nhiều lần trong tuần,
dù ngày ăn chay chính thức hàng năm của đạo Do-thái chỉ là ngày lễ Xá tội.
Như thế có sự khác biệt khá rõ giữa môn đệ của Đức Giêsu
với môn đệ của Gioan Tẩy Giả và môn đệ của người Pharisêu.
Một bên có vẻ thoáng và thoải mái, một bên thì khắc khổ nhiệm nhặt.
“Tại sao môn đệ của ông lại không ăn chay ?”
Có người đã dám hỏi thẳng Đức Giêsu như thế.
Ngài đã trả lời bằng một cách dùng một hình ảnh dễ hiểu và đầy ý nghĩa.
Vào thời Đức Giêsu, tại Paléttin, cũng như tại nhiều vùng quê ngày nay,
đám cưới là một biến cố mừng vui có tính làng xã.
Chẳng thể nào hiểu được chuyện một người đi ăn cưới
với khuôn mặt buồn của kẻ đang ăn chay.
“Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể ăn chay,
khi chàng rể còn ở với họ”
Đức Giêsu tự ví mình với chàng rể, còn môn đệ là khách dự tiệc cưới.
Bầu khí trong nhóm môn đệ của ngài là bầu khí vui tươi của một lễ thành
hôn
bởi lẽ thời đại thiên sai đã đến rồi.
Đức Giêsu, Đấng Mêsia dân Ítraen mong đợi từ lâu, nay có mặt.
Ngài là chàng rể kết duyên với cô dâu là dân tộc Ítraen của ngài.
Đức Giêsu đã làm trọn điều các ngôn sứ nói trong Cựu Ước
về việc Thiên Chúa lập hôn ước với dân của Người (Hs 2, 21-22; Is 62,
4-5).
“Nhưng khi tới ngày chàng rể bị đem đi khỏi họ, bấy giờ họ mới ăn chay.”
Sau khi Đức Giêsu chịu cái chết dữ dằn, được phục sinh và lên trời,
Giáo hội bước vào một giai đoạn mới, giai đoạn chờ đợi ngài quang lâm.
Trong giai đoạn này, khi Chúa Giêsu vừa vắng mặt, vừa hiện diện,
Các Kitô hữu ăn chay, vác thánh giá theo Chúa Giêsu,
dù họ vẫn luôn sống trong niềm vui, bởi tin vào Đấng đã phục sinh vinh hiển.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
các sách Tin Mừng chẳng khi nào nói Chúa cười,
nhưng chúng con tin Chúa vẫn cười
khi thấy các trẻ em quấn quýt bên Chúa.
Chúa vẫn cười khi hồn nhiên ăn uống với các tội nhân.
Chúa đã cố giấu nụ cười trước hai môn đệ Emmau
khi Chúa giả vờ muốn đi xa hơn nữa.
Nụ cười của Chúa đi đôi với Tin Mừng Chúa giảng.
Nụ cười ấy hòa với niềm vui
của người được lành bệnh.
Lạy Chúa Giêsu,
có những niềm vui
Chúa muốn trao cho chúng con hôm nay,
có sự bình an sâu lắng Chúa muốn để lại.
Xin dạy chúng con biết tươi cười,
cả khi cuộc đời chẳng mỉm cười với chúng con.
Xin cho chúng con biết mến yêu cuộc sống,
dù không phải tất cả đều màu hồng.
Chúng con luôn có lý do để lo âu và chán nản,
nhưng xin đừng để nụ cười tắt trên môi chúng con.
Ước gì chúng con cảm thấy hạnh phúc,
vì biết mình được Thiên Chúa yêu thương
và được sai đi thông truyền tình thương ấy. Amen.
Lm. Antôn nguyễn Cao Siêu. S.J
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
21 THÁNG GIÊNG
Những Người Thất
Nghiệp – Mối Ưu Tư Nặng Trĩu Lòng Tôi
Tôi đặc biệt cảm thông
tận đáy lòng mình hoàn cảnh của vô số anh chị em thất nghiệp. Họ muốn làm việc,
nhưng không thể kiếm được một chỗ làm. Nhiều trường hợp, đó bởi vì nạn kỳ thị
tôn giáo, giai cấp, chủng tộc, hay ngôn ngữ. Không có việc làm hay thiếu việc
làm – tình trạng ấy gây ra nỗi chán chường và dễ làm cho người ta tự cảm thấy
mình thừa thãi. Đó là nguyên nhân của nhiều xung đột trong các gia đình và thường
dẫn đến bao phiền não lắm khi không thể tả xiết. Tình trạng ấy vừa làm suy yếu
cấu trúc xã hội, vừa đe dọa chính phẩm giá của người ta, nam cũng như nữ, trong
các gia đình.
Chúng ta cần có những
sáng kiến mới mẻ để giải quyết vấn đề rất hệ trọng này. Những sáng kiến ấy sẽ
đòi hỏi sự cộng tác trên bình diện quốc gia và quốc tế. Điều cực kỳ quan trọng,
đó là những chương trình được phác họa để giải quyết vấn đề thất nghiệp phải
thúc đẩy lòng tôn trọng và cảm thông giữa những người chủ việc và những người
lao động đang tìm kiếm một chỗ làm.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 21/1
Thánh Anê, trinh nữ,
tử đạo
Dt 5, 1-10; Mc 2,
18-22.
LỜI SUY NIÊM: “Bấy giờ các môn
đệ ông Gioan và các người Pharisêu đang ăn chay, có người đến hỏi Đức Giêsu: ‘Tại
sao các môn đệ ông Gioan và các môn đệ người Pharisêu ăn chay, mà môn đệ ông lại
không ăn chay’. Đức Giêsu trả lời: ‘Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể ăn
chay. Bao lâu chàng rể còn ở với họ, họ không thể ăn chay’”
Chúa Giêsu không bao giờ chối bỏ việc ăn chay, Điều này đã minh chứng trước khi
Người đi vào đời sống công khai: mạc khải về Chúa Cha và Nước Trời, Người đã ăn
chay trọn bốn mươi đêm ngày trong sa mạc. Nhưng khi các môn đệ của ông Gioan,
và môn đệ của người Pharisêu đang ăn chay mà các môn đệ của Người không ăn
chay. Đến hỏi Người; thì Người lại cho họ biết, vì các môn đệ của Người đang được
ở trong một thời gian của niềm vui của một lễ cưới, mà chính Người là chú rể.
Và Người cho họ biết, khi không còn sự hiện diện của Người họ mới ăn chay.
Lạy Chúa Giêsu, ăn chay là một phương thế sám hối về những điều đã sai phạm làm
mất lòng Chúa, mất lòng người, đã lâm vào hoàn cảnh cách xa Chúa và cách xa người
anh em. Xin cho chúng con luôn dùng phương thế ăn chay và cầu nguyện để luôn
làm mới lại đời sống của chúng con để được cùng vui sống với Chúa và với hết mọi
người.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 21-01: Thánh
ANÊ
Đồng trinh Tử đạo
(khoảng + 304)
Một cuộc đời được gặt
bởi gươm đao. Đó là tất cả. Không có nhiều việc, không có nhiều chuyện, nhưng
danh tiếng đã nên lẫy lừng.
Một sử gia đã chân nhận
như thế theo những lời truyền khẩu. Người ta biết rằng: Anê qua đời khoảng năm
12 tuổi. Cuộc khảo sát xương sọ cho biết như vậy. Người ta còn biết được rằng,
theo thánh Ambrosiô, vào năm 375 đã cử hành các lễ kính thánh nữ và vị thánh trẻ
trung này được trình bày như vị thánh tử đạo sau khi đã chiến đấu để giữ mình đồng
trinh.
Người ta yêu cái tên của
Ngài, Anê theo tiếng la-tinh có nghĩa là con chiên, theo tiếng Hy Lạp có nghĩa
là trong trắng. Người ta muốn rằng Ngài có nét đẹp duyên dáng quyến rũ và thuộc
gia đình quý phái. Các cô gái lập gia đình sớm. Trong số những chàng trai ngưỡng
mộ Ngài, có con trai một vị tổng trấn, nhưng Anê tự cởi lòng đã chọn lựa vị hôn
phu của mình.
Ngài đã nghe về Chúa
Giêsu, đã trở thành Kitô hữu và đã tận hiến vĩnh viễn cho Chúa Kitô. Các trẻ em
thời này hay có tư tưởng anh hùng vì đã được thấy dòng máu của những vị tử đạo
tuôn đổ. Anê từ khước lời cầu hôn của người thanh niên lương dân và bị tố giác
trước quan tổng trấn.
Theo một trong các cuộc
đối chất tuyệt vời mà cả trăm nghìn Kitô hữu cho là chính xác, các lời hứa hẹn
với những đe dọa chẳng có nghĩa lý gì đối với đức tin và lòng can đảm của thánh
nữ. Người thiếu nữ từ chối không thờ lạy thần Minerva. Một ý tưởng quỷ quái nảy
ra trong đầu óc quan tổng trấn. Ông truyền dẫn thiếu nữ đến xóm bất lương mặc
cho bọn say mê nàng xâm phạm. Ngài bị lột hết y phục. Nhưng tóc dài phủ kín người
Ngài. Hơn nữa nguồn sáng bởi trời bao quanh Ngài làm thành một chiếc áo trắng
diệu kỳ. Con của vị tổng trấn định cả gan xâm phạm tới Ngài nhưng bị ngã chết
như bị sét đánh. Anê đầy thương cảm đã xin thiên thần cứu sống anh và anh sẽ trở
lại đạo.
Điều kỳ diệu không có
giới hạn và mọi sự đều có thể cả. Bị đưa vào lò lửa, nhưng người thiếu nữ bất
khuất không bị thiêu sống. Thánh Ambrôsiô nói: – Ngài đi chịu khổ hình một cách
vui vẻ còn hơn một người đi vào loan phòng của mình, vì Ngài không đi đến cái
chết nhưng đi vào bất tử, Ngài được trang điểm không phải bằng những trân châu
ngọc báu, nhưng bằng ánh sáng siêu nhiên.
Các ngọn lửa vây kín
mà không thiêu đốt Anê. Vậy Ngài phải bị chém đầu mới được. Và người ta thấy một
thiếu nữ yếu ớt khuyến khích người lý hình tay chân run rẩy: – Chặt đi đừng sợ
gì, để tôi sớm đến được với Đấng lòng tôi yêu mến.
Tường thuật đã được tiểu
thuyết hoá và làm say mê lòng đạo đức của các tín hữu, nhưng sẽ không đủ để tên
Ngài được quí trọng như vậy, nếu không chắc chắn rằng Anê là thánh trẻ tử đạo
mà đức tin, đức mến và lòng ái mộ đức khiết trinh còn mạnh mẽ hơn cả sự chết.
Lịch sử thánh Anê còn
được phép thêm bằng qua lời truyền khẩu về Emêrentiana, người chị em cùng một
vú nuôi với Ngài. Vài ngày sau khi Anê tử đạo, dân ngoại bắt gặp Emêrentiana với
các tín hữu khác cầu nguyện bên mộ Ngài.
Các Kitô hữu chạy trốn
nhưng Emêrentina ở lại và bị ném đá. Cha mẹ Anê chôn cất nàng bên mộ con gái
mình. đêm sau họ thức cầu nguyện và thấy Anê ở giữa các thánh nữ đồng trinh, với
con chiên trắng hơn tuyết bên phải.
Thánh Anê nói với cha
mẹ: – Đùng khóc vì con phải chết, trái lại cha mẹ hãy vui mừng vì con được hiệp
nhất ở trên trời với Đấng con đã yêu mến hết lòng khi ở dưới đất.
Để nhớ đoạn lịch sử
này, ngày 21 tháng giêng, sau thánh lễ cử hành trên mộ xác thánh Anê, người ta
dẫn tới hai con chiên, lông kết sao vàng và đeo nải trắng một con, đỏ một con.
Hai con chiên được đặt trên bàn thờ trong một giỏ mây, được chúc lành và dâng
cho Đức Thánh Cha, sau đó được gởi về tu viện thánh Cêcilia.
Nơi đây các nữ tu nuôi
chúng lớn lên, lông chúng dùng để dệt các “Pallium”, phẩm phục dệt bằng len trắng,
có thêu thánh giá đen, mà Đức giáo hoàng gửi cho các Đức Tổng giám mục mặc trên
áo choàng ngoài, như dấu hiệu tỏ sự kính trọng.
(daminhvn.net)
21 Tháng Giêng
Chiếc Khăn Tay Vấy Mực
Ruskin là một nghệ
sĩ, phê bình nghệ thuật kiêm xã hội học người Anh sống vào cuối thế kỷ 19.
Một hôm, có một
người đàn bà quý phái mang đến cho ông xem một chiếc khăn tay đắt tiền đã bị vấy
mực. Bà ta xuýt xoa tiếc rẻ vì chiếc khăn tay đã hoàn toàn mất giá trị của
nó.
Ruskin không nói
gì, ông chỉ xin cho ông mượn chiếc khăn tay trong một ngày. Ngày hôm sau, ông
trao lại chiếc khăn tay cho người đàn bà mà cũng không nói một lời nào. Nhưng
khi trải chiếc khăn tay ra, người đàn bà hết sức ngạc nhiên, bởi vì từ một vết
mực trong góc của chiếc khăn, nhà nghệ sĩ đã biến thành một bức tranh tuyệt mỹ.
Chiếc khăn
tay có vấy mực tưởng đã bị vứt đi, nay đã trở thành một tác phẩm nghệ thuật để
đời.
Những người
có niềm tin vào cuộc sống không bao giờ bỏ cuộc trước những thất bại. Họ luôn
biết biến những thất bại ấy thành khởi đầu của một thành công vĩ đại hơn.
Người có niềm tin
vào Thiên Chúa cũng luôn nhìn vào thất bại, rủi ro, đau khổ trong cuộc sống như
cơ may của một ân phúc cao cả và dồi dào hơn.
Dạo tháng 6
năm 1990, mục sư Anh giáo Michael Lapsley, người Zimbabwe bên Phi Châu, vì là mục
sư Tuyên úy của tổ chức Quốc đại Châu Phi bao gồm các lực lượng tranh đấu cho
quyền lợi của người da đen Nam Phi, đã bị quân khủng bố đặt chất nổ khiến ông bị
cụt hai tay, mù một mắt và hỏng lỗ tai. Trong một tuyên ngôn công bố sau đó,
ông đã viết như sau: “Họ đã lấy mất đôi tay của tôi. Nhưng tôi không buồn, bởi
vì tôi không dùng đến võ khí để cần phải có đôi tay. Họ đã lấy mất một phần đôi
mắt của tôi và thính giác của tôi, nhưng tôi vẫn còn có thể dâng hiến lời nói để
tiếp tục rao giảng một cách xác tín và mạnh mẽ hơn”.
Người ta vẫn thường
nói: Yêu là chết trong lòng một ít. Tình yêu đích thực luôn luôn đòi hỏi hy
sinh, mất mát. Nhưng chỉ có đôi mắt tình yêu mới nhận ra giá trị của những mất
mát ấy.
Qua cái chết
trên thập giá như một tiêu hao hoàn toàn, Chúa Giêsu đã bày tỏ Tình Yêu của
Thiên Chúa cho nhân loại, ánh sáng của Tình Yêu đã chiếu sáng qua sự mất mát ấy.
Qua những hao mòn trong từng ngày của cuộc sống Mẹ Maria, Tình Yêu của Thiên
Chúa cũng được tiếp tục bày tỏ. Có cái chết độc ác, tức tưởi của Chúa Giêsu
trên thập giá, thì cũng có cái chết âm thầm từng ngày của Mẹ Maria. Ngày nay,
tình Yêu của Thiên Chúa cũng cần có những mất mát, hao mòn khác của người Kitô
để được tiếp tục bày tỏ cho con người, bởi vì sứ mệnh của người Kitô chính là bổ
túc cho những gì còn thiếu sót trong cuộc tử nạn của Ðức Kitô.
(Lẽ Sống)




Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét