Trang

Thứ Bảy, 2 tháng 2, 2019

03-02-2019 : (phần I) CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN năm C


03/02/2019
Chúa Nhật 4 Thường Niên năm C
(phần I)

BÀI ĐỌC I: Gr 1, 4-5, 17-19
“Ta sẽ đặt ngươi làm tiên tri trong các dân tộc”.
Trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Trong thời vua Giosia, lời Chúa phán cùng tôi rằng: “Trước khi Ta tạo thành ngươi trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi, và trước khi ngươi ra khỏi lòng mẹ, Ta đã hiến thánh ngươi. Ta đã đặt ngươi làm tiên tri trong các dân tộc.
Vậy phần ngươi, ngươi hãy thắt lưng, hãy chỗi dậy, và nói cho họ biết tất cả những điều Ta truyền dạy cho ngươi. Đừng run sợ trước mặt họ, vì Ta không làm cho ngươi kinh hãi trước mặt họ. Hôm nay Ta làm cho ngươi nên một thành trì vững chắc, một cậy cột bằng sắt, một vách thành bằng đồng trước mặt các vua Giuđa, các hoàng tử, các tư tế và dân chúng xứ này. Họ sẽ chiến đấu chống ngươi, nhưng họ không thắng được ngươi, vì Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi”. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 70, 1-2. 3-4a. 5-6ab. 15ab và 17
Đáp: Miệng con sẽ loan truyền sự Chúa công minh (c. 15a).
Xướng:
1) Lạy Chúa, con tìm đến nương nhờ Ngài, xin đừng để con tủi hổ muôn đời; theo đức công minh Chúa, xin cứu nguy và giải thoát con, xin ghé tai về bên con và giải cứu. – Đáp.
2) Xin trở nên thạch động để con dung thân, và chiến luỹ vững bền hầu cứu độ con: vì Chúa là Đá Tảng, là chiến luỹ của con. Lạy Chúa con, xin cứu con thoát khỏi tay đứa ác. – Đáp.
3) Bởi Ngài là Đấng con mong đợi, thân lạy Chúa. Lạy Chúa, Ngài là hy vọng của con tự hồi thanh xuân. Ngay từ trong bụng mẹ, con đã nép mình vào Chúa; từ trong thai mẫu, Chúa là Đấng bảo vệ con, con đã luôn luôn cậy trông vào Chúa. – Đáp.
4) Miệng con sẽ loan truyền sự Chúa công minh, và suốt ngày kể ra ơn Ngài giúp đỡ. Lạy Chúa, Chúa đã dạy con từ hồi niên thiếu, và tới bây giờ con còn kể (ra) những sự lạ của Ngài. – Đáp.

BÀI ĐỌC II: 1 Cr 12, 31 – 13, 13 (bài dài)
“Đức tin, đức cậy, đức mến vẫn tồn tại, nhưng đức mến là trọng hơn cả”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, anh em hãy cầu mong những ơn cao trọng hơn. Và tôi chỉ bảo cho anh em một con đường hoàn hảo nhất. Nếu tôi nói được các tiếng của loài người và thiên thần, mà tôi không có bác ái, thì tôi chỉ là tiếng đồng la vang dội hoặc não bạt vang động. Và nếu tôi được nói tiên tri, thông biết mọi mầu nhiệm và mọi khôn ngoan; nếu tôi có đầy lòng tin, đến nỗi chuyển dời được núi non, mà không có bác ái, thì tôi vẫn là không. Nếu tôi phân phát mọi của cải tôi có để nuôi kẻ nghèo khó, nếu tôi nộp mình để chịu thiêu đốt, mà tôi không có bác ái, thì không làm ích gì cho tôi.
Bác ái thì kiên tâm, nhân hậu. Bác ái không đố kỵ, không khoác lác, không kiêu hãnh, không ích kỷ, không nổi giận, không suy tưởng điều xấu, không vui mừng trước bất công, nhưng chia vui cùng chân lý, tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, trông cậy tất cả, chịu đựng tất cả.
Bác ái không khi nào qua đi. Ơn tiên tri sẽ bị huỷ diệt, ơn ngôn ngữ sẽ chấm dứt, ơn thông minh sẽ biến mất. Vì chưng chúng ta hiểu biết có giới hạn, chúng ta nói tiên tri có giới hạn, nhưng khi điều vẹn toàn đến, thì điều có giới hạn sẽ biến đi. Khi còn bé nhỏ, tôi nói như trẻ nhỏ, suy tưởng như trẻ nhỏ, lý luận như trẻ nhỏ; nhưng khi tôi đã trưởng thành, tôi loại bỏ những gì là trẻ nhỏ. Hiện giờ, chúng ta thấy mờ mịt như qua tấm gương, nhưng lúc bấy giờ, diện đối diện. Hiện giờ tôi biết có giới hạn, nhưng lúc bấy giờ, tôi sẽ biết như tôi được biết. Hiện giờ, đức tin, đức cậy, đức mến, tất cả ba đều tồn tại, nhưng trong ba nhân đức, đức mến là trọng hơn cả. Đó là lời Chúa.

Hoặc đọc bài vắn này: 1 Cr 13, 4-13
Bác ái thì kiên tâm, nhân hậu. Bác ái không đố kỵ, không khoác lác, không kiêu hãnh, không ích kỷ, không nổi giận, không suy tưởng điều xấu, không vui mừng trước bất công, nhưng chia vui cùng chân lý, tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, trông cậy tất cả, chịu đựng tất cả.
Bác ái không khi nào qua đi. Ơn tiên tri sẽ bị huỷ diệt, ơn ngôn ngữ sẽ chấm dứt, ơn thông minh sẽ biết mất. Vì chưng chúng ta hiểu biết có giới hạn, chúng ta nói tiên tri có giới hạn, nhưng khi điều vẹn toàn đến, thì điều có giới hạn sẽ biến đi. Khi còn bé nhỏ, tôi nói như trẻ nhỏ, suy tưởng như trẻ nhỏ, lý luận như trẻ nhỏ; nhưng khi tôi đã trưởng thành, tôi loại bỏ những gì là trẻ nhỏ. Hiện giờ, chúng ta thấy mờ mịt như qua tấm gương, nhưng lúc bấy giờ, diện đối diện. Hiện giờ tôi biết có giới hạn, nhưng lúc bấy giờ, tôi sẽ biết như tôi được biết. Hiện giờ, đức tin, đức cậy, đức mến, tất cả ba đều tồn tại, nhưng trong ba nhân đức, đức mến là trọng hơn cả. Đó là lời Chúa.

ALLELUIA: Ga 6, 64b và 69b
Alleluia, alleluia! – Lạy Chúa, lời Chúa là thần trí và là sự sống; Chúa có lời ban sự sống. – Alleluia.

PHÚC ÂM: Lc 4, 21-30
“Chúa Giêsu, như Êlia và Êlisê, không phải chỉ được sai đến với người Do-thái”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu bắt đầu nói trong hội đường rằng: “Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe”. Mọi người đều làm chứng cho Người và thán phục Người về những lời từ miệng Người thốt ra, và họ nói: “Người này không phải là con ông Giuse sao?”
Và Người nói với họ: “Hẳn các ngươi sắp nói cho Ta nghe câu ngạn ngữ này: ‘Hỡi thầy thuốc, hãy chữa lấy chính mình!’ Điều chúng tôi nghe xảy ra ở Capharnaum, ông hãy làm như vậy tại quê hương ông'”. Người nói tiếp: “Quả thật, Ta bảo các ngươi, không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình. Ta bảo thật với các ngươi, đã có nhiều bà goá trong Israel thời Elia, khi trời bị đóng lại trong ba năm sáu tháng, khi nạn đói lớn xảy ra khắp trong xứ; dầu vậy, Elia không được sai đến cùng một nguời nào trong các bà đó, nhưng được sai đến bà goá tại Sarepta thuộc xứ Siđon. Cũng có nhiều người phong cùi trong Israel thời tiên tri Elisêô, thế mà không người nào trong họ được lành sạch cả, ngoại trừ Naaman, người Syria”.
Khi nghe đến đó, mọi người trong hội đường đều đầy căm phẫn, họ chỗi dậy và trục xuất Người ra khỏi thành. Họ dẫn Người lên triền núi, nơi xây cất thành trì của họ, để xô Người xuống vực thẳm. Nhưng Người rẽ qua giữa họ mà đi. Đó là lời Chúa.


Suy Niệm: Phản ứng của hội đường Thành Nadarét
Chúa nhật trước, chúng ta thấy Ðức Giêsu khởi sự đi giảng đạo, Người đã vào hội đường Nadarét, xưng mình là vị tiên tri Thiên Chúa hứa sẽ gởi đến cho dân Người. Hơn nữa, khi áp dụng lời sách Isaia về người Tôi tớ Thiên Chúa vào cho mình, Ðức Giêsu đã khẳng định Người là Cứu thế đến công bố năm hồng ân của Thiên Chúa tức là khai mạc thời đại cứu độ mọi người. Hôm nay, thánh Luca cho chúng ta thấy phản ứng của người đồng hương với Ðức Giêsu trước những lời xác quyết của Người.
Ðó là thái độ cố hữu của người Do Thái, như Giêrêmia đã kinh nghiệm. Ðó cũng có thể là cách trả lời của chúng ta đối với mọi mạc khải của Thiên Chúa nơi các ngôn sứ của Người, nếu chúng ta không nghe lời thánh Phaolô mà đặt đức ái lên trên hết. Vậy chúng ta hãy suy nghĩ về cả ba bài Kinh Thánh hôm nay để hiểu mình và sửa mình cho xứng đáng với ơn Chúa muốn cứu độ chúng ta.

1. Thái Ðộ Cố Hữu Của Người Do Thái
Không dân tộc nào được Chúa yêu thương như cộng đồng con cái Israen. Không phải vì họ có những đức tính trổi vượt hơn hết mọi dân tộc; nhưng chỉ vì Thiên Chúa đã khấng chọn họ làm dân riêng của Người. Họ có luật pháp là mạc khải khôn ngoan cao cả của Thiên Chúa. Họ còn thường được các tiên tri đến dạy dỗ. Ðó là những ngôn sứ thay mặt Thiên Chúa đến soi sáng và hướng dẫn họ sống theo luật pháp, hầu được đẹp lòng Chúa và hưởng các ân huệ Người ban.
Nhưng Do Thái lại là dân cứng đầu cứng cổ. Họ vứt bỏ đường lối của Thiên Chúa để đi theo lòng dục của mình. Vị tiên tri nào Chúa gửi tới cũng gặp nhiều chống đối và khó khăn. Một phần nữa cũng vì có quá nhiều những tay bịp bợm, lạm dụng sự mê tín của quần chúng tự xưng là sứ giả của Thiên Chúa. Nên bên cạnh một số ít tiên tri thật, có nhan nhản những tiên tri giả và những kẻ "muốn làm nghề tiên tri". Vì sự hiện diện và hoạt động của những kẻ này, các ngôn sứ của Chúa phải tăng thêm nỗ lực để khẳng định Lời Chúa và ơn gọi của mình. Và thường khi các ngài phải "chết để nói lên lời". Giêrêmia là một trong những vị đại tiên tri. Ông là một trong 4 đại tiên tri còn để lại văn phẩm. Không vị tiên tri nào đã gặp nhiều đau khổ vì ơn gọi như ông.
Thế nên, xét về phương diện đau khổ, ông là vị tiên tri gần với Ðức Giêsu Kitô hơn hết. và Phụng Vụ hôm nay đã theo truyền thống coi ông là hình ảnh báo trước về nhà tiên tri thành Nadarét có định mệnh "phải chịu đau khổ". Chúng ta đọc lại những chương 36-45 trong sách Giêrêmia để xem nhà tiên tri này đã khổ sở thế nào. Người ta chống đối, muốn bịt miệng ông, bắt ông phải vào tù ra khám, và có lần đã muốn chấm dứt đời ông rồi. Nhưng trong mọi trường hợp, Giêrêmia vẫn cương quyết công bố Lời Chúa và khẳng định ơn gọi thiêng liêng của mình.
Bài đọc hôm nay không cố ý mô tả cuộc đời thơ ấu của Giêrêmia đâu. Nhưng đây là cái nhìn của một người rất đứng tuổi và chín chắn nghĩ lại ơn gọi của mình, để làm chứng cho mọi người thấy thiên mệnh đã đè xuống trên ông.
Ðồng bào của Giêrêmia, tức là cộng đồng con cái Israen vẫn tin rằng Thiên Chúa là nguồn gốc mọi sự và con người cũng do tay Người nặn lên. Nhưng điều ít ai để ý, là trước khi Thiên Chúa tạo dựng nên vũ trụ và muôn vật hữu hình này, Người đã có một kế hoạch rất rõ ràng. Ơn gọi của các tiên tri nằm trong kế hoạch ấy.
Thế nên "trước khi Ta nắn ngươi trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi; và trước khi lọt dạ mẹ, Ta đã tác thánh ngươi. Ta đã đặt ngươì làm tiên tri cho các dân tộc". Và để chứng minh điều này, Giêrêmia nói thêm rằng: khi được gọi, ông chưa biết nói, nhưng Chúa bảo chính Người sẽ ban Lời cho ông để ông chỉ có việc nói những lời của Người mà thôi.
Ðó là những lời thành thật. Chúng ta không có gì phải nói thêm. Chúng ta chỉ để ý đến lời Giêrêmia khẳng định mình đã được đặt làm tiên tri cho "các dân tộc". Ý ông muốn nói sấm ngôn của Chúa, mạc khải của Người, không dành riêng gì cho dân Do Thái, nhưng cho mọi dân nước và thời đại. Tính cách phổ cập này thêm vinh dự cho ơn gọi tiên tri tự nó đã cao quý vì phát xuất từ Thiên Chúa. Tuy nhiên ơn gọi này lại rất bi đát. Những lời sau của Giêrêmia tóm tắt định mệnh của ông.
Ông phải "nai lưng", tức là phải lấy thế để chiến đấu, vì người ta sẽ tuyên chiến với ông. Họ cưỡng lại mọi lời ông nói, vì lời của ông diễn tả ý Chúa chứ không chiều theo dục vọng của loài người.
Ðó là tiêu chuẩn để phân biệt các tiên tri giả và các tiên tri thật. Những người này dù bị chống đối và đau khổ vẫn như thành trì, trụ sắt và tường đồng, cự lại các vua và khanh tướng. Không phải vì họ có can đảm phi thường, nhưng chỉ vì Chúa đã giữ lời hứa với các tiên tri của Người "Ta sẽ ở với ngươi khiến chúng không làm gì được ngươi".
Thật ra không phải vị tiên tri nào cũng thoát khỏi bàn tay sát nhân của loài người độc dữ đến nỗi sau này có lần Ðức Giêsu phải kêu lên "Giêrusalem, Giêrusalem, kẻ giết hại các tiên tri" (Mt 23,37). Và có như thế, các tiên tri mới là những người báo trước vị tiên tri sẽ phải đến trong thời kỳ sau hết, Người cũng sẽ bị giết, nhưng sự sống lại của Người sẽ làm chỗi dậy mọi bậc tiên tri đến trước hầu cho thấy "thủ lãnh thế gian bị luận phạt".
Hôm nay bài Tin Mừng Luca cho chúng ta thấy vị tiên tri này. Không những Người đã gợi lại mà còn thực hiện bài sách Giêrêmia. Chúng ta hãy quan sát Người theo lời thuật của Luca.

2. Phản Ứng Của Hội Ðường Thành Nadarét
Ðức Giêsu bấy giờ vừa giảng xong. Người ta thán phục Người. Họ cảm thấy như có một nguồn ân sủng thoát ra từ môi miệng của Người. Nhưng Người không là con nhà ông Giuse sao? Suy nghĩ này làm chứng họ không muốn khiêm nhường đón nhận sứ điệp cứu độ đến với họ qua một con người bình thường ở giữa họ. Ðức Giêsu chua chát nghĩ đến câu: "Không tiên tri nào được tôn trọng ở quê nhà".
Và từ đó, Luca nghĩ rằng Ðức Giêsu đã nhìn xa hơn nữa, không những Người thấy những kẻ đồng hương với Người ở Nadarét không muốn chấp nhận Người; nhưng qua họ, Người còn thấy rõ cả dân tộc Do Thái nữa cũng sẽ không đón nhận. Họ cậy mình đã có luật pháp và không muốn bị xáo trọn bởi một luồng gió mới nào nếu người khởi xướng không làm được những dấu lạ điềm thiêng như Môsê ngày trước. Nghĩa là họ chỉ muốn mãi mãi là những người xác thịt, coi trọng những cái bề ngoài và không bao giờ muốn trở nên trưởng thành, biết ý thức về ý nghĩa của luật pháp như các tiên tri thường hướng dẫn. Tín ngưỡng của họ trở thành thứ tôn giáo của chữ viết, và của hình thức, chứ không muốn là sự sống tinh thần như Thiên Chúa kêu gọi. Do đó, họ rất ít nghe lời các tiên tri. Hơn nữa, họ còn bỏ rơi các ngài. Thường khi họ còn giết chết các ngài nữa. Mà các ngài đâu có thiếu gì các quyền năng? Êlya không có quyền đóng góp cửa trời và làm mưa sao? Thế mà có ai trong dân Do Thái được nhờ ông? Trái lại một góa phụ ở Sarepta thuộc dân ngoại đã được ông cứu đói. Êlisê cũng vậy. Ông là tiên tri rất mạnh thế.
Tuy nhiên cũng chẳng ai trong dân Do Thái được cho lành bệnh, đang khi Naaman, một bậc khanh tướng ngoại đạo đã được ông chữa khỏi bệnh cùi. Luca trích dẫn những câu chuyện này để phục vụ ý kiến của ông khi viết cuốn Tin Mừng thứ ba. Ông có ý diễn tả rằng dân Do Thái đã không biết đón nhận nhà tiên tri ở giữa họ là Ðức Giêsu thành Nadarét. Và vì vậy sự nghiệp ân sủng của Người đã được chuyển sang cho dân ngoại là Hội Thánh hiện nay.
Luca đã không muốn lợi dụng câu chuyện đã xảy ra trong Hội đường Nadarét để tổng quát hóa công cuộc cứu thế của Ðức Giêsu Kitô và để báo trước đau khổ vinh quang đang chờ đợi Người. Người đã đến giữa dân Người, rao truyền tin mừng cứu độ, nhưng thân nhân của Người và dân Người đã không đón nhận, nên ơn cứu độ của Người mang đến đã chuyển sang dân ngoại là Hội Thánh chúng ta ngày nay.
Lời khẳng định này, làm sao người Do Thái có thể chịu đựng được? Họ đã nhất tề đứng lên, hung hăng lôi Ðức Giêsu ra khỏi thành, đưa Người lên một sườn đồi và định tâm đẩy Người xuống cho chết đi. Nhưng Người đã nhẹ nhàng đi qua mặt họ để tiếp tục cuộc hành trình.
Bằng những lời đơn sơ này, Luca muốn báo trước cuộc tử nạn của Ðức Giêsu. Người sẽ bị người Do Thái kéo ra khỏi thành và đóng đinh trên sườn đồi... Nhưng Người sẽ nhẹ nhàng linh diệu thoát khỏi nơi họ đẩy Người tới để sống lại vinh quang, tiếp tục công việc cứu thế của Người.
Như vậy, có thể nói, bài Tin Mừng hôm nay không chỉ đơn sơ thuật lại những gì xảy ra trong hội đường ở Nadarét. Hoặc Luca đã dùng câu chuyện này để vẽ ra trước tất cả định mệnh của vị tiên tri đến rao giảng ơn cứu độ cho dân Người. Người cũng bị đối xử không hơn gì các tiên tri đi trước. Như bài sách Giêrêmia đã nói. Nhưng cũng như tiên tri này đã loan báo, Người thật là sứ giả của Thiên Chúa gửi đến báo cho các dân tộc. Hoặc đúng hơn, Luca đã dùng những biến cố trong cuộc đời của Ðức Giêsu Kitô, và đặc biệt những sự kiện tử nạn và phục sinh của Người, làm đèn chiếu sáng lên câu chuyện xảy ra tại hội đường ở Nadarét và thuật lại sự kiện theo ánh sáng mầu nhiệm chết và sống lại của Ðức Giêsu Kitô.
Dù sao, bài Tin Mừng hôm nay không những cho chúng ta thấy cuộc đời vất vả của Chúa Cứu Thế, nhưng còn muốn gợi lên phản ứng tự nhiên của loài người xác thịt đối với tin mừng cứu độ và hạnh phúc đang dành cho lương dân đón nhận tin mừng.
Chúng ta dĩ nhiên không muốn cư xử như người Do Thái. Nhưng để được như vậy, phải làm gì? Xin vị tông đồ các dân ngoại soi sáng giúp đỡ chúng ta.

3. Con Ðường Chúng Ta Phải Ði
Thánh Phaolô gởi thư cho giáo dân Côrintô. Ở đây người ta đang háo hức được các ơn lạ để phục vụ Chúa, họ thèm ơn nói tiếng lạ, ơn tiên tri, ơn chữa bệnh, ơn xưng đạo mạnh mẽ hơn. Nhưng thánh tông đồ thấy có nhiều khuynh hướng chuộng hào nhoáng trong những sự háo hức này. Ðó không phải là con đường nên đi vào. Nó sẽ biến những tín hữu trở thành những con người xác thịt như dân Do Thái ngày trước.
Và thánh nhân đã chỉ cho mọi người thấy con đường phải đi vào. Ðó là bác ái. Thiếu bác ái mọi đặc sủng kia sẽ rỗng tuyếch. Vì người ta muốn phục vụ ư? Ao ước làm được những sự ngoạn mục, thật là vô ích. Ðức Giêsu đến phục vụ không làm như vậy. Người đã yêu thương chúng ta và yêu thương cho đến chết. Thế nên đối với thánh Phaolô, ở đây, con đường bác ái yêu thương rất cụ thể.
Nó có hai hạng người làm đối tượng: kiên nhẫn với kẻ thiếu nhân đức và giúp đỡ những kẻ thiếu thốn. Ðối với cả hai hạng người, kẻ bác ái phải có những thái độ chứng tỏ lòng kiên nhẫn và bộc lộ lòng quảng đại. Tiêu cực, họ không được nóng nảy, bực tức, hoặc chán nản, tuyệt vọng; còn tích cực, họ phải duy trì niềm vui, tin tưởng và kiên trì. Ðược như vậy, đức bác ái sẽ toàn thắng sự dữ và giúp đỡ được hiệu năng.
Thế nên, so sánh với những đặc sủng mà người ta ao ước như các ơn nói tiếng lạ, ơn nói tiên tri, ơn chữa bệnh, ơn giảng đạo, đức bác ái rõ ràng trổi vượt. Tất cả các ơn kia có ngày sẽ hết. Chúng chỉ cần cho đời tạm này. Nhưng lòng bác ái sẽ tồn tại mãi mãi đi theo ta sang cả thế giới bên kia. Mà sánh với hai nhân đức khác là đức tin và đức cậy, nhân đức bác ái vẫn trổi hơn. Cả ba nhân đức này đều cần thiết cho đời sống đạo và cho mọi nhân đức khác. Cả ba cũng theo ta sang cả đời sau, theo nghĩa đức tin là trạng thái cởi mở tâm hồn nhận biết Chúa thì đời sau vẫn cần; và đức cậy cũng sẽ cần vì là trạng thái của linh hồn muốn được Chúa yêu thương. Nhưng đức mến sẽ tồn tại và cao quý hơn hết vì nó làm cho chúng ta kết hợp với Thiên Chúa là bản chất của đời sóng hạnh phúc sau này ở trên trời.
Thế nên chúng ta hãy đi vào con đường bác ái. Trươc đây, người Do Thái không đi con đường ấy nhưng bước theo hướng xác thịt hời hợt bề ngoài vì họ như là trẻ con đối với thời đại Thánh Thần yêu mến đã được đổ xuống trong Hội Thánh. Ngày nay được phúc ở trong thời đại sung mãn, chúng ta phải đi vào con đường trưởng thành là bác ái.
Và giờ đây hơn bao giờ hết khi cử hành thánh lễ, chúng ta được đưa vào con đường bác ái. Không những chúng ta được thấy Ðức Giêsu đến rao giảng tin mừng cứu độ như là vị tiên tri cao trọng hơn mọi tiên tri. Người còn thể hiện mầu nhiệm tử nạn phục sinh để hoàn thành sứ mệnh tiên tri của Người một cách siêu việt hẳn hơn Giêrêmia ngày trước... Và hơn cả hôm Người ở trong hội đường ở Nadarét.
Mầu nhiệm bàn thờ đây còn tuôn đổ Thánh Thần yêu mến cho những ai thành khẩn tham dự. Nhưng cử hành thánh lễ sốt sắng bao nhiêu, họ phải sống bác ái chân thật và cụ thể bấy nhiêu để lấy kiên nhẫn lướt thắng sự tội và lấy phục vụ xóa bỏ nghèo khó. Phấn đấu hết mình cả về phương diện tinh thần cả về phương diện vật chất là nhiệm vụ của những ai đi trong con đường bác ái. Ai đã dự lễ mà có thể từ chối đi vào con đường ấy?

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)




Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật IV Thường NiênNăm C
Bài đọcJer 1:4-5, 17-19; I Cor 12:31-13:13; Lk 4:21-30.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sứ vụ khó khăn của ngôn sứ
Con người nông nổi thích được khen tặng và những ai ca tụng họ; ngược lại, họ ghét những ai phê bình cho dù biết đó là sự thật. Ngôn sứ được kêu gọi để nói sự thật; vì thế, họ sẽ bị những con người nông nổi ghen ghét và truy tố.
Các Bài đọc hôm nay tập trung trong sứ vụ của ngôn sứ và những thách đố người ngôn sứ phải đương đầu với. Trong Bài đọc I, Thiên Chúa tuyển chọn ngôn sứ Jeremiah trước khi ông được tạo thành trong dạ mẹ, thánh hóa và trao sứ vụ trước khi ông lọt lòng mẹ. Ngài hứa sẽ bảo vệ và ban chiến thắng nếu ông trung thành với sứ vụ Ngài trao ban. Trong Bài đọc II, thánh Phaolô nêu bật một đức tính quan trọng ngôn sứ phải có là đức mến đối với Thiên Chúa và với tha nhân. Nếu không có đức mến, ngôn sứ không thể chu toàn sứ vụ của mình. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu trở về quê quán Nazareth để rao giảng Tin Mừng. Ngài thách đố những người đồng hương phải thay đổi lối suy nghĩ và cách biểu tỏ niềm tin nơi Thiên Chúa. Hậu quả họ đã không thay đổi, lại còn tức giận toan tính xô Ngài xuống vực thẳm; nhưng Ngài can đảm bước qua giữa họ mà đi.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hãy nói với chúng tất cả những gì Ta sẽ truyền cho ngươi.
1.1/ Mối liên hệ hai chiều giữa Thiên Chúa và ngôn sứ: Ngôn sứ là người “nói thay” hay là “miệng lưỡi” của Thiên Chúa; chứ không phải là người nói trước hay tiên báo những gì sẽ xảy ra, cho dù nhiều lần những gì ngôn sứ nói được ứng nghiệm trong tương lai. Trong trình thuật hôm nay, ngôn sứ Jeremiah nêu bật những gì liên quan đến ơn gọi làm ngôn sứ.
(1) Thiên Chúa tuyển chọn và trao sứ vụ cho ngôn sứ: Không ai có thể tình nguyện làm ngôn sứ, nhưng phải được Thiên Chúa tuyển chọn từ khi người đó chưa hình thành trong lòng mẹ: “Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hoá ngươi, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân.”
(2) Ngôn sứ phải can đảm nói những gì Thiên Chúa truyền: Ngôn sứ là phát ngôn viên chính thức của Thiên Chúa; vì thế, ông phải nói những gì Thiên Chúa truyền, chứ không phải những gì ông muốn nói hay thiên hạ thích nghe. Nếu vì bất cứ lý do gì ngôn sứ không nói những gì Thiên Chúa truyền, ông không còn là ngôn sứ của Thiên Chúa: “Hãy nói với chúng tất cả những gì Ta sẽ truyền cho ngươi. Trước mặt chúng, ngươi đừng run sợ; nếu không, trước mặt chúng, chính Ta sẽ làm cho ngươi run sợ luôn.”
1.2/ Thiên Chúa ban ơn và bảo vệ ngôn sứ của Ngài: Thiên Chúa biết rõ những khó khăn ngôn sứ phải đương đầu với, Ngài hứa với ngôn sứ hai điều: (1) Ngài luôn bảo vệ họ khỏi mọi người hãm hại: “Này, hôm nay, chính Ta làm cho ngươi nên thành trì kiên cố, nên cột sắt tường đồng chống lại cả xứ: từ các vua Judah đến các thủ lãnh, các tư tế, và toàn dân trong xứ.” (2) Lời hứa chiến thắng: “Chúng sẽ giao chiến với ngươi, nhưng sẽ không làm gì được, vì – sấm ngôn của Đức Chúa – có Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi.” Nhiều khi Thiên Chúa để các ngôn sứ bị thiệt thân để làm chứng cho Ngài; dẫu vậy, Ngài sẽ cho ngôn sứ được sống lại vinh quang với Ngài sau cái chết ở đời này.
2/ Bài đọc II: Tôi xin chỉ cho anh em con đường trổi vượt hơn cả: con đường đức mến.
2.1/ Đức mến là động lực thúc đẩy mọi việc tốt lành: Thánh Phaolô biết con người luôn khát khao được trở nên trọn lành; vì thế, Ngài khuyên các tín hữu Corintô: “Trong các ân huệ của Thiên Chúa, anh em cứ tha thiết tìm những ơn cao trọng nhất. Nhưng đây tôi xin chỉ cho anh em con đường trổi vượt hơn cả.” Con đường hoàn hảo nhất Ngài nói ở đây là con đường đức mến: mến Chúa và yêu người. Một người cần phải có nhân đức nền tảng này trước khi có tất cả những điều tốt lành khác. Theo Phaolô, đức mến là ân huệ của Thiên Chúa ban cho con người, chứ không phải nhờ luyện tập mà có. Giống như các nhân đức đối thần, con người phải luyện tập để cho đức mến ngày càng phát triển và đạt tới mức hoàn hảo. Nếu không có nhân đức này, tất cả các ân huệ và các việc tốt lành khác sẽ không phát triển được, và sẽ từ từ biến mất. Thánh Têrêsa Hài Đồng cùng một tư tưởng với Phaolô: nếu không có đức mến, nhiệt thành truyền giáo sẽ tắt ngúm và mong ước tử đạo cũng không còn.
2.2/ Ngôn sứ không thể thiếu đức mến: Thánh Phaolô quả quyết: “Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì.”
Điều này đúng trong phương diện kỹ thuật: Các chuyên gia không phải chỉ có kiến thức về phương diện chuyên môn; nhưng còn phải có lòng yêu thích lãnh vực đó; nếu không, họ dễ chán nản bỏ cuộc và không dám hy sinh mọi sự cho nghề nghiệp của mình.
Điều này càng đúng cho các ngôn sứ, họ phải có lòng yêu mến sự thật và mong muốn mang sự thật họ biết về Thiên Chúa cho tha nhân; để tha nhân cũng được giải thoát bởi sự thật. Đức mến là động lực thúc đẩy ngôn sứ thực thi sứ vụ rao giảng Tin Mừng: Mến Chúa là yêu thương tha nhân; nếu không có đức mến, ngôn sứ không thể chu toàn sứ vụ của mình. Ngôn sứ không thể nhìn thấy dân chúng lầm lạc xa Thiên Chúa. Họ không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Ngôn sứ phải kiên nhẫn trong việc đưa tội nhân về cùng Thiên Chúa. Họ rao giảng Tin Mừng không vì lợi lộc thấp hèn, nhưng để đem Tin Mừng cứu độ cho muôn dân. Vì lòng yêu mến Thiên Chúa và tha nhân, ngôn sứ có thể chịu đựng tất cả, miễn sao cho mọi người được hưởng ơn cứu độ.
2.3/ Đức mến tồn tại muôn đời: Theo Phaolô, đức mến cao trọng hơn cả, vì chỉ có đức mến vững bền mãi mãi. Phaolô lý luận: “Đức mến không bao giờ mất được. Ơn nói tiên tri ư? Cũng chỉ nhất thời. Nói các tiếng lạ chăng? Có ngày sẽ hết. Ơn hiểu biết ư? Rồi cũng chẳng còn. Vì chưng sự hiểu biết thì có ngần, ơn nói tiên tri cũng có hạn. Khi cái hoàn hảo tới, thì cái có ngần có hạn sẽ biến đi.”
Phaolô lý luận tương tự khi so sánh ba nhân đức đối thần: “Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến.” Khi con người được về chung hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa, họ không cần đức tin vì được diện kiến Thiên Chúa mặt đối mặt, họ cũng không cần đức cậy, vì họ đang được hưởng những gì bấy lâu nay họ trông cậy; nhưng họ cần đức mến để tiếp tục yêu Thiên Chúa cách nồng nàn.
3/ Phúc Âm: Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình.
3.1/ Người ngôn sứ dám thách thức khán giả đương đầu với sự thật: Trình thuật hôm nay tường trình biến cố Chúa Giêsu về quê Nazareth để rao giảng Tin Mừng cho những đồng hương. Sau khi đã đọc Sách của ngôn-sứ Isaiah, Ngài bắt đầu giảng dạy và nói về sứ vụ ngôn sứ của Ngài: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.” Ngài thách đố khán giả đồng hương trực diện với ba điều quan trọng:
(1) Niềm tin chỉ đặt căn bản trên phép lạ là niềm tin không chắc chắn: Chúa Giêsu biết người Do-thái thích phép lạ. Họ đã nghe biết những phép lạ Ngài làm; và họ đang mong Ngài làm phép lạ như Ngài đã từng làm ở Capernaum. Chúa Giêsu muốn nhắc nhở họ: tin Thiên Chúa thì quan trọng hơn tin những phép lạ Ngài làm. Phép lạ được làm là để khơi dậy niềm tin; nếu sau khi đã chứng kiến phép lạ mà vẫn không tin, phép lạ mất mục đích của nó. Hơn nữa, niềm tin chỉ dựa trên phép lạ sẽ không vững bền, và sẽ dễ dàng bị mất khi không thấy phép lạ nữa.
(2) Đừng có thái độ khinh thường những người mình đã quá quen thuộc: Chúa Giêsu nói với họ một sự thật: “Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình.” Tục ngữ Việt-nam cũng nói lên thói xấu này: “gần chùa gọi bụt bằng anh.” Người Do-thái đã quá quen thuộc với Thiên Chúa, nên họ đâm ra khinh thường và không biết nhận ra những hồng ân Ngài đổ xuống trên họ. Con người phải biết thân phận và giới hạn thụ tạo của mình khi đứng trước nhan Thiên Chúa.
(3) Nhiều Dân Ngoại biểu lộ đức tin vào Thiên Chúa mạnh mẽ hơn người Do-thái: Chúa Giêsu đưa ra hai trường hợp với mục đích nêu bật đức tin của Dân Ngoại: (1) “Vào thời ông Elijah, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà goá ở trong nước Israel; thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà goá thành Zareptha miền Sidon.” (2) “Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Elisha, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Israel, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Naaman, người xứ Syria thôi.” Bà góa thành Zareptha và ông Naaman được giúp đỡ vì họ đã tin và thi hành những gì các ngôn sứ truyền cho họ phải làm. Người Do-thái đã biết quá nhiều về Thiên Chúa và uy quyền làm phép lạ của Ngài, lẽ ra họ phải biểu lộ đức tin cách chắc chắn hơn Dân Ngoại; nhưng thực tế nhiều lần cho thấy Dân Ngoại biểu lộ niềm tin vào Thiên Chúa cách chắc chắn hơn họ.
3.2/ Phản ứng của dân chúng: Trình thuật cho chúng ta thấy thái độ nông nổi và dễ dàng thay đổi của dân chúng. Khi mới nghe những gì Chúa Giêsu giảng dạy, “họ thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người.” Nhưng sự thật chưa đủ để thuyết phục họ đặt niềm tin vào Chúa Giêsu, họ đang trông chờ Ngài làm phép lạ.
Sự thật mất lòng, họ tức giận khi bị Chúa Giêsu bắt phải đương đầu với sự thật: “Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ.” Họ không thể chịu đựng nổi sự xỉ nhục khi nghe Chúa Giêsu so sánh họ với Dân Ngoại; vì họ vẫn tự mãn cho họ là Dân Chúa, là con cháu tổ-phụ Abraham, và xứng đáng được hưởng mọi đặc quyền của Ngài. Dân Ngoại sinh ra để làm nô lệ và không xứng đáng được hưởng ơn cứu độ. Nhưng chỉ có sự thật mới giải thoát: con cái Thiên Chúa mà không tin Thiên Chúa hay ngôn sứ Ngài gởi tới, có xứng đáng làm con cái của Thiên Chúa không? Không những từ chối sự thật, họ còn muốn tiêu hủy Chúa Giêsu, nguồn gốc mọi sự thật và là Người đang nói sự thật cho họ. Giận quá mất khôn: “Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành – thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực.”
Không một chút sợ hãi, “Người băng qua giữa họ mà đi.” Khốn thay cho những con người từ chối và tiêu hủy sự thật.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Tất cả chúng ta đều đã nhận lãnh chức vụ ngôn sứ khi chịu Phép Rửa Tội để rao giảng, sống, và làm chứng cho Tin Mừng.
– Khi thi hành sứ vụ ngôn sứ, chắc chắn chúng ta sẽ bị thế gian từ khước, truy tố, và ngay cả đe dọa đến tính mạng. Thiên Chúa, Đấng trao ban sứ vụ và thánh hóa ngôn sứ, sẽ tiếp tục ban ơn, bảo vệ, và hứa sẽ giúp ngôn sứ chiến thắng mọi nguy hiểm của thế gian.
– Đức bác ái là quà tặng Thiên Chúa ban cho các ngôn sứ. Sứ vụ rao giảng sẽ có ngày chấm dứt; nhưng đức bác ái sẽ tồn tại muôn đời.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP


03/02/2019 – CHÚA NHẬT TUẦN 4 TN – C
Lc 4,21-30

LỜI CHÚA: KIM CHỈ NAM
“Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.” (Lc 4,21)

Suy niệm: Đức Giê-su nói với người đồng hương Na-da-rét những điều Người tâm đắc nhất: Người đến để lo cho người khốn khổ, nghèo hèn như lời ngôn sứ I-sai-a đã tiên báo. Dân chúng một mặt thì thán phục vì “những lời hay ý đẹp từ miệng Ngài nói ra”, mặt khác lại mang nặng thành kiến về Ngài là “con bác thợ mộc Giu-se” trong làng mà họ biết rõ. Trước những ý kiến trái chiều về Ngài, Chúa Giê-su cho biết không thể dựa vào cảm tính cá  nhân hay định kiến xã hội mà phải dựa vào Lời Chúa là kim chỉ nam để phân định và nhận biết Ngài là Đấng Mê-si-a mà các ngôn sứ đã tiên báo: “Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.”
Mời Bạn: Qua bao thế hệ, Lời Chúa vẫn luôn sống động, nhưng chúng ta có lắng nghe và đón nhận Lời đang ứng nghiệm ngay hôm nay trong cuộc sống của chúng ta? Hay chúng ta như dân làng Na-da-rét xưa, thờ ơ, lãnh đạm không nhận biết Lời Chúa đang nói với mình trong đời sống hằng ngày để làm cho Lời ấy sinh hoa kết trái và lan tỏa yêu thương cho những người chung quanh. Mỗi người hãy tự hỏi lòng mình: mỗi lần nghe Lời Chúa, tôi thấy nhàm chán hay sẵn sàng mở lòng lắng nghe và đón nhận để Lời Ngài “ứng nghiệm” trong cuộc đời của chúng ta?
Sống Lời Chúa: Mỗi lần nghe Lời Chúa, đọc Lời Chúa hãy tự nhủ rằng: đây là Lời Chúa đích thân nói cho riêng cho chính tôi.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Lời Chúa nối dài qua muôn ngàn thế hệ đến với con trong ngày hôm nay. Ước chi những khi chúng con lắng nghe Lời Chúa chúng con được tác động sâu xa và Lời trở thành kim chỉ nam cho đời sống của con. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)


Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
3 THÁNG HAI
Trong Lãnh Vực Y Tế …
Trong các chuyến viếng thăm mục vụ của tôi, nhất là tại những nước đang phát triển, tôi nhận thấy rằng lãnh vực y tế là một lãnh vực đang khẩn thiết đòi ta phải đấu tranh cho con người. Chẳng hạn, người ta ngày càng chú ý đến kỹ thuật, nhưng lại không phải bao giờ cũng quan tâm bảo vệ quyền của con người.
Đau khổ, bệnh tật và chết chóc là những thực tại rất căn bản của cuộc nhân sinh. Tất cả chúng ta phải cộng tác với nhau để giải quyết – một cách đầy nhân tính – những vấn đề hệ lụy của các thực tại ấy. Giúp đỡ các bệnh nhân vượt qua cơn bệnh của họ một cách bảo đảm phẩm giá – đó chắc chắn là điều mà nhân loại kỳ vọng từ khoa học, từ kỹ thuật và từ việc sử dụng thuốc men. Nhưng để được như thế, không thể không có một nhãn quan sáng tỏ về bổn phận phải tuyệt đối tôn trọng con người. Con người là tạo vật duy nhất siêu vượt trên thực tại vật chất – bởi vì con người không chỉ là vật chất mà còn là tinh thần. Đó phải là điểm qui chiếu thường xuyên của chúng ta trong lãnh vực y khoa, nếu chúng ta thực sự muốn tránh những hậu quả khôn lường gây ra cho xã hội. Tôn trọng phẩm giá của nhân vị – đó là bổn phận của tất cả chúng ta.
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 03/2
Chúa Nhật IV Thường Niên
Gr 1, 4-5. 17-19; 1Cr  13, 4-13; Lc 4, 21-30.

LỜI SUY NIÊM: “Thật vậy, tôi nói cho các ông hay, vào thời ông Êlia, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà góa ở trong nước Ítraen, thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà góa thành Sarépta miền Xiđon. Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Êlisa, thiếu gì người mang bệnh phong ở trong nước Ítraen, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Naaman, người xứ Xyri thôi.”
          Sau khi Chúa Giêsu đọc Sách Thánh và Người công bố: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.” Dân chúng thán phục và ca ngợi Người. Và họ bắt đầu tính toán, chờ đợi Người làm phép lạ để phục vụ quyền lợi của họ. Chúa Giêsu nhận thấy điều ấy. Nên Người đã đem câu chuyện hai ngôn sứ Êlia và Êlisa nói với họ, giúp họ nhận ra lòng mình và ơn ban của Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, Chúng con tin Chúa hoàn toàn tự do trong việc ban tặng các ân huệ cho mọi con người. Xin cho mỗi người trong chúng con có một đức tin khiêm nhường, chân thật và tín thác, để được lãnh nhận ân huệ Chua ban.
Mạnh Phương


Gương Thánh Nhân
Ngày 03-02
Thánh ANSGARIÔ
Giám mục tông đồ các xứ Bắc Âu
(801-865)

Ansgariô (hay là Anskar theo Anh ngữ) đã trở thành biệt danh Oscar ngày nay, có nghĩa là “cây lao của Thiên Chúa”. Ansgario gốc người Đức, sinh tại Picardia. Cha Ngài là một viên chức trong triều đình vua Charlemagne, đã gởi Ngài theo học tại tu viện thánh Phêrô ở Corbia. Cậu thiếu niên đã gặp được ở đó những bậc thầy có thế giá. Các môn học trần tục làm Ngài say mê đến độ nơi tâm trí Ngài ý nghĩa tôn giáo ngày một lạc phai. Nhưng một biến cố đã đánh động Ngài mạnh mẽ, nhà vua mà Ngài biết được là rất nổi danh nơi triều đình đã chết.
Cái chết đó cho Ngài thấy được tính cách hư không của mọi cái gọi là nhân bản và trần tục, Ngài cũng nhớ lại rằng: hồi nhỏ khi mất mẹ, trong một giấc mơ, Ngài thấy Đức Trinh Nữ Maria hứa sẻ bảo vệ Ngài luôn mãi, nếu biết giữ gìn đức tin và lòng mến. Sau cùng Ngài cảm thấy rằng: Chúa muốn mình làm tông đồ. Từ đó Ngài không ngừng tiến tới trong việc học hành cả về đạo lý lẫn việc đời, Ngài nhiệt thành làm tất cả những gì là tốt đẹp. Những tiến bộ và nhiệt tâm ấy lớn lao đến nỗi chẳng mấy chốc tới phiên Ngài phải dạy lại cho các tu sĩ trẻ và trẻ em. Vào tuổi hai mươi mốt, Ngài trở thành một trong những thủ lãnh tu viện Corvey. Ở Saxe hay là Corbia-Nova, được thiết lập ngay giữa trung tâm trí thức. Là giáo sư thần học, Ngài cũng đảm nhận việc giảng dậy cho dân chúng nữa.
Vào thời này, Harold là vua miền Nam Đan mạch, khi bọn phản loạn săn đuổi, đã xin trú ngụ tại triều đình vua Lu-y đặt tại Mayence. Ong đã trở lại đạo và lãnh nhận phép rửa. Khi trở về quê hương, ông đã xin các nhà truyền giáo tới rao giảng Phúc âm cho xứ sở mình. Ebbon, giám mục Reims đã dấn thân trước hết, rồi một khi gần trở lại nước Pháp, Ngài đã chỉ định Ansgario. Ansgario lên đường với một tu sĩ khác nữa. Họ làm liều đi vào miền còn hoàn toàn ngoại giáo. Những người trẻ bị bắt làm nô lệ đã trở thành các Kitô hữu đầu tiên của xứ sở. Công việc tông đồ thật vất vả nhọc mệt. Các Ngài bị trục xuất. Các tu sĩ trở lại lãnh trách nhiệm.
Một tòa đại sứ Thụy Điển xin các thừa sai. Lần này Ansgariora đi với một tu sĩ người Corbia. Vì người bạn đường cũ đã chết. Khi đi nagng qua biển Baltique, họ bị bọn cướp tấn công bóc lột hết và bị người Nang lấy trọn quà tặng họ mang dâng nhà vua ở Upsala. Các nhà truyền giáo tới biệt thự của Birca, hoàn toàn trơ trụi. Tại đây các Ngài đã thiết lập một cộng đoàn Kitô hữu. Sau một năm rưỡi mệt nhọc làm việc tông đồ, các Ngài trở về Pháp. Nhà vua đã đặt Ansgario làm tổng giám mục Hambourg bao gồm miền Scandinavia (Bắc Âu) Ansgario đi Roma để được Đức Thánh Cha bổ nhiệm và Đức Gregôriô IV đã đặt Ngài làm đại diện tại cả Na-uy và Thụy Điển. Ngài xây cất một nhà thờ chính tòa ở Hambourg, thiết lập một tu viện cho các tu sĩ Corbia.
Người ta thấy Ngài quỳ lạy dưới chân người nghèo và khiêm tốn phục vụ họ. Ngài cũng rao giảng trong các miền lân cận bất kể những thủ địch hung ác. Khi ấy như một đám mây người Normandie đặt Hambourg vào vòng máu lửa, Ansgario chỉ còn là một kẻ lang thang sống vất vưởng. Vharles de Chauve đã chiếm một tu viện miền Flandre là nơi Ngài đã thiết lập một trường truyền giáo. Giữa cao điểm của cuộc sống khốn cực âu lo, Ngài đã không hề đánh mất lòng trông cậy vào Chúa. Cuối cùng những kẻ bách hại bị xua đuổi. Xứ truyền giáo Thụy Điển lại vùng lên.
Một cộng đồng ở Constane đã đặt Ansgario làm giám mục Brême. Ngài trở lại truyền giáo ở Đan mạch, thiết lập một trung tâm tôn gíao mới, cải hóa nhà vua.
Ansgario muốn hiến trọn đời mình cho Thiên Chúa bằng việc tử đạo nhưng Ngài đã qua đời êm ái tại Brême năm 865. Cuộc tử đạo của Ngài chính là cuộc chiến kiên trì suốt đời với nhiều những thất bại, lại ít có những thành công rực rỡ. Nhưng sự nhẫn nại của vị anh hùng giám mục lang thang này đã chuẩn bị cho cuộc trở lại các xứ vùng Bắc Âu.
************************
Ngày 03-02: Thánh BLASIÔ
Giám mục Tử đạo (…. – 316)

Có nhiều câu chuyện vây quanh thánh Blasiô. Ngài là giám mục Sêbasta, miền Armênia; Ngài hiến cả xác hồn cho dân chúng… nhất là dân nghèo, Ngài đã học nghề thuốc, nhưng không bao giờ chữa bệnh cho ai mà không xin Chúa giúp trước đã, dường như vị y sĩ vĩ đại này muốn nói rằng: “Tôi băng bó cho họ nhưng Thiên Chúa chữa lành cho họ”. Ngài rao giảng, day dỗ, nhưng không có bài học nào hay hơn chính gương mẫu đời Ngài.
Năm 315, một cuộc bách hại bùng ra dưới triều đại vua Luciniô. Đức giám mục giúp đỡ các vị tử đạo. Rồi để trốn thoát các kẻ thù địch, Ngài ẩn mình ở hang núi Agêa, là nơi Ngài sống bằng rễ cây và nước lã. Thú rừng thân tình bao quanh Ngài và Ngài chữa lành cho những con bệnh tật. Mỗi ngày một đông dân chúng tuốn đến với với Ngài. Nếu thấy Ngài đang cầu nguyện chúng lặng lẽ không ngăn trở và đợi cho đến khi Ngài cầu nguyện xong. Khi đó Thánh nhân quay lại với đoàn vật và chúc lành cho chúng và đoàn vật mãn nguyện trở lại sa mạc.
Agricôla, quan cai trị Cappadecia tìm thú rừng sống trong các khu rừng gần Sêbasta, để xé các Kitô hữu. Đoàn người đi săn ngạc nhiên khi thấy cả bầy sói, gấu, sư tử trong một cái hang vây quanh một người, đang cầu nguyện. Họ vội về báo tin cho Agricôla và ông này đã truyền bắt vị tu rừng này.
Thấy binh sĩ của nhà vua. Blasiô bình thản nói:- Tôi đã sẵn sàng. Đêm qua Chúa hiện ra và nói với tôi, là Ngài ưng nhận lễ hy sinh của tôi.
Trên đường Ngài đi qua, dân chúng tuốn đến, trong số ấy có cả các lương dân. Họ khóc lóc xin người chúc lành. Một người mẹ đặt đứa trẻ đang hấp hối dưới chân Blasiô và nhìn trời bà la: – Lạy Chúa nhân từ, xin đừng bỏ qua lời cầu của tôi tớ Ngài. Xin hãy trả lại sức khỏe cho tạo vật bé bỏng của Ngài.
Blasiô cúi xuống đứa trẻ hấp hối, cầu nguyện. Trời cao đã nghe Ngài, và người mẹ hân hoan đón nhận lại đứa con tràn đầy sức sống.
Khi đức Giám mục xuất hiện, Agricôla đưa nhiều hứa hẹn lẫn lời đe dọa. Nhưng điều này đã luống công. Thánh nhân nói: – Tôi không sợ các cực hình Ngài đe dọa vì thân xác tôi nằm trong tay Ngài, nhưng linh hồn tôi thì không.
Ngài đã bị đánh đập tàn nhẫn và bị tống ngục. Các Kitô hữu tới thăm, Ngài an ủi khích lệ và chữa lành cho họ. Ngài đã giải cứu cho một đứa trẻ gần ngộp thở vì mắc xương cá. Vì kỷ niệm này và cũng vì lời cầu nguyện sau cùng khi đưa cổ cho lý hình, thánh Blasiô được kêu cầu cách đặc biệt để xin Ngài chữa lành các bệnh nhân đau cổ họng.
Những tường thuật về các phép lạ đi kèm với cái chết của Ngài thành gia sản truyền tụng rất được các giáo phụ ưa thích. Sau mỗi cuộc tra xét với một cực hình mới lại có một phép lạ đánh dấu cuộc trở lại ngay trong phòng giam của Ngài. Phép lạ lừng danh nhất là phép lạ về ngẫu tượng. Các Kitô hữu đến săn sóc những vết thương cho Ngài, đã ném xuống hồ các thần tượng của nhà cầm quyền. Họ bị tố giác và chịu tử dạo. Blasiô cũng bị kết án dìm vào hồ này, nhưng Ngài làm dấu thánh giá và đi trên mặt nước, rồi Ngài mời các quan tòa đi theo để minh chứng uy quyền các thần linh họ thờ. Những người nhận lời bị chết chìm ngay.
Vị tử đạo vừa mới cho thấy vinh quang Thiên Chúa, liền được một thiên thần mời trở lại bờ hồ để chịu cực hình, Ngài vâng lời ngay. Agricôla bối rối liền truyền chém đầu Ngài. Blasiô trước khi chết, đã nài xin Chúa tỏ lòng nhân từ với những ai nhờ lời Ngài bầu cử mà xin cứu giúp.
(daminhvn.net)


03 Tháng Hai
Ngôn Ngữ Của Tình Yêu
Có lẽ cái tên của Helen Keller, một cô gái câm điếc người Mỹ, đã trở thành bậc khoa bảng, không còn xa lạ với chúng ta nữa. Vừa được 19 tháng, sau một cơn đau màng óc, cô gái bất hạnh này trở thành mù lòa và câm điếc. Thế giới của âm thanh và màu sắc đã khép hẳn cánh cửa lại với cô. 
Làm thế nào để truyền thụ kiến thức cho một người đã câm điếc lại còn mù lòa? Cha mẹ của cô bé dường như muốn bó tay. Nhưng có một cô giáo tên là Anna Sullivan đã không muốn bỏ cuộc. Hy vọng duy nhất mà cô giáo này còn đó là còn có thể truyền thông và liên lạc với cô gái mù lòa và câm điếc này qua việc tiếp xúc với bàn tay của cô. Chỉ có thể tiếp xúc với thế giới bằng đôi tay, nhưng Helen Keller đã có thể học xong Ðại Học, tốt nghiệp Tiến sĩ và trở thành văn sĩ. 
Cho người mù lòa và câm điếc chạm vào một sự vật và viết lên tên gọi của sự vật ấy: đó là phương pháp của cô giáo Anna Sullivan. Dạy về những sự vật cụ thể như cái bàn, cuốn sách, cành cây, con chó xem ra không hẳn là điều khó. Nhưng làm thế nào để diễn tả cho Helen hiểu được những ý niệm trừu tượng như tình yêu chẳng hạn? 
Ngày kia, cô giáo Anna Sullivan đã viết lên tay của Helen Keller hai chữ “Tình Yêu” rồi ôm trầm lấy cô bé hôn lấy hôn để với tất cả sự thành thật và nhiệt tình của cô. Lần đầu tiên trong đời, cô gái câm điếc mù lòa bỗng cảm thấy tim mình đập mạnh và cô hiểu được thế nào là Yêu Thương
Ngôn ngữ của Tình Yêu là những hành động cụ thể. 
Ánh mắt trìu mến, những âu yếm vuốt ve của người mẹ đối với đứa con mới lọt lòng có giá trị hơn bất cứ một quyển sách biên khảo nào về tình yêu. Nhưng mồ hôi và nước mắt, những hy sinh hằng ngày của người cha giúp con cái hiểu được thế nào là Yêu thương hơn bất cứ lời dẫn giải nào về Tình Yêu. Và có lẽ cũng thừa thãi để bảo rằng khi hai người yêu nhau thì sự thinh lặng và những cử chỉ âu yếm có sức mạnh hùng hồn hơn những lời nói hoa mỹ, những trống rỗng. 
Thiên Chúa là Tình Yêu. Ngài tỏ tình, Ngài bộc lộ tình yêu với con người không chỉ bằng những lời nói suông, mà bằng cả lịch sử của những can thiệp, những thể hiện cụ thể. 
Một tình yêu không được chứng tỏ bằng những hành động cụ thể là một tình yêu giả dối, lừa bịp. 
Ðạo Kitô của chúng ta là Ðạo của Tình Yêu. Một người kitô không sống Tình Yêu, không viết lên hai chữ Tình Yêu bằng những hành động cụ thể đối với tha nhân, người đó chỉ là một người Kitô giả hiệu, một Ðức Tin không việc làm là một Ðức Tin chết. Một lòng Mến không được thể hiện bằng hoa trái của lòng Mến chỉ là lòng Mến giả tạo.
(Lẽ Sống)



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét