07/02/2019
Thứ Năm đầu tháng, tuần 4 thường niên.
MỒNG BA TẾT KỶ HỢI.
THÁNH HÓA CÔNG ĂN VIỆC LÀM.
BÀI ĐỌC I: Dt 12,
18-19. 21-24
“Anh em tiến đến núi Sion và
thành trì của Thiên Chúa hằng sống”.
Trích thơ gửi tín hữu
Do-thái.
Anh em thân mến, Không
phải anh em tiến tới một ngọn núi có thể sờ được, hay là lửa cháy, gió lốc, mây
mù, bão táp, hoặc tiếng kèn và tiếng gầm thét, khiến cho người nghe xin tha đừng
nói với họ lời nào nữa. Cảnh tượng thật hãi hùng, đến nỗi Môsê thốt lên: “Tôi
đã kinh khiếp và run sợ”. Trái lại, anh em tiến đến núi Sion và thành trì của
Thiên Chúa hằng sống, là Giêrusalem trên trời, tiến đến muôn ngàn thiên thần,
và cộng đoàn các trưởng tử đã được ghi sổ trên trời, và đến cùng Thiên Chúa, Đấng
phán xét mọi người, đến cùng các linh hồn những người công chính hoàn hảo, đến
cùng Đấng trung gian của giao ước mới là Đức Giêsu, và đến cùng máu đã rảy khi
giao ước lên tiếng còn mạnh thế hơn máu Abel. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 47, 2-3a.
3b-4. 9. 10-11.
Đáp: Ôi Thiên Chúa,
chúng con tưởng nhớ lại lòng thương xót của Chúa, ngay trong nơi đền thánh của
Ngài (c. 10).
Xướng:
1) Chúa vĩ đại và rất
đáng ngợi khen trong thành trì của Thiên Chúa chúng ta. Núi thánh của Ngài là
ngọn đồi duyên dáng, niềm hoan lạc của khắp cả địa cầu. – Đáp.
2) Núi Sion là cùng kiệt
phương bắc, là thành trì của Đức Đại Đế. Thiên Chúa ngự trong thành quách của
Ngài, tự chứng tỏ Ngài là an toàn chiến luỹ. – Đáp.
3) Chúng tôi đã nhìn
thấy, như đã nghe kể lại, trong thành trì của Chúa thiên binh, trong thành trì
của Thiên Chúa chúng tôi: Thiên Chúa kiên thủ thành đó tới muôn đời. – Đáp.
4) Ôi Thiên Chúa,
chúng con tưởng nhớ lại lòng thương xót của Chúa, ngay trong nơi đền thánh của
Ngài. Ôi Thiên Chúa, cũng như thánh danh Ngài, lời khen ngợi Ngài sẽ vang cùng
cõi đất. Tay hữu Ngài đầy đức công minh. – Đáp.
ALLELUIA: Ga 6, 64b và
69b
Alleluia, alleluia!
– Lạy Chúa, lời của Chúa là thần trí và là sự sống: Chúa có những lời ban sự sống
đời đời. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mc 6, 7-13
“Người bắt đầu sai các ông đi”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy,
Chúa Giêsu gọi mười hai tông đồ và sai từng hai người đi, Người ban cho các ông
có quyền trên các thần ô uế. Và Người truyền các ông đi đường đừng mang gì,
ngoài cây gậy, không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, nhưng chân
đi dép, và đừng mặc hai áo. Người lại bảo: “Đến đâu, các con vào nhà nào, thì ở
lại đó cho đến khi ra đi. Ai không đón tiếp các con, cũng không nghe lời các
con, thì hãy ra khỏi đó, phủi bụi chân để làm chứng tố cáo họ”. Các ông ra đi
rao giảng sự thống hối. Các ông trừ nhiều quỷ, xức dầu chữa lành nhiều bệnh
nhân. Đó là lời Chúa.
Không được mang gì (7.2.2019 – Thứ Năm Tuần 4 TN)
Suy
niệm:
Đức
Giêsu đã chọn nhóm Mười Hai
để họ
ở với Ngài và để được Ngài sai đi rao giảng và trừ quỷ (Mc 3, 14-15).
Bây
giờ, sau một thời gian sống gần gũi bên Thầy,
đã đến
lúc họ được sai đi để làm những điều họ thấy Thầy làm:
kêu
gọi người ta hoán cải, trừ quỷ, xức dầu chữa bệnh nhân (cc. 12-13).
Các
môn đệ trở nên cánh tay nối dài của Thầy.
Họ
được Thầy Giêsu tin tưởng cho chia sẻ cùng một sứ mạng.
Các
môn đệ mang gì khi lên đường?
Một
lệnh sai đi, một người bạn đồng hành, một quyền lực trên thần ô uế.
Đức
Giêsu cho phép họ mang một cái gậy và đôi dép để đi đường xa.
Tất
cả hành trang chỉ có thế!
Những
thứ bị cấm mang khi đi đường
là
những thứ vốn tạo ra sự bảo đảm hay dư thừa không cần thiết:
lương
thực, bao bị, tiền giắt lưng, hai áo trong.
Như
thế người được sai đi phải hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa lo liệu,
và
phải hoàn toàn cậy dựa vào lòng tốt mỗi ngày của tha nhân.
Nhẹ
nhàng, đơn sơ là thái độ của người luôn sẵn sàng ra đi.
Siêu
thoát, vô vị lợi là thái độ của người không dính bén với vật chất.
Người
tông đồ cũng không dính bén đến cơ sở hay tiện nghi.
Họ
không tìm cách đổi chỗ ở để có chỗ tốt hơn (c. 10).
Hơn
nữa họ chấp nhận sự thất bại, sự từ chối không muốn đón tiếp (c.11),
vì
chính Thầy của họ cũng đã chịu cảnh ngộ tương tự ở quê nhà.
Nhóm
Mười Hai đã ra đi theo lệnh Thầy Giêsu
và
đã làm được những điều họ không dám mơ (cc. 12-13).
Họ
đã học được kinh nghiệm về tin tưởng, khó nghèo, siêu thoát.
Họ
đã thấy sức mạnh của Nước Trời đang thu hẹp lại mảnh đất của Satan.
Họ
đã đem lại niềm vui cho bệnh nhân và người khao khát Tin Mừng.
Giáo
Hội mọi thời vẫn được nhắc nhở từ đoạn Lời Chúa trên đây.
Chẳng
ai giữ từng chữ của bản văn, nhưng tinh thần thì không được bỏ.
Sự
nhẹ nhàng, cơ động của một Giáo hội đến phục vụ con người,
luôn
kéo chúng ta ra khỏi những nặng nề, trì trệ dễ vướng phải.
Hôm
nay Chúa cho phép tôi được mang gì
và cấm
tôi mang gì?
Cầu
nguyện:
Lạy
Chúa Giêsu,
xin
sai chúng con lên đuờng
nhẹ
nhàng và thanh thoát,
không
chút cậy dựa vào khả năng bản thân
hay
vào những phương tiện trần thế.
Xin
cho chúng con làm đuợc những gì Chúa đã làm:
rao
giảng Tin Mừng, trừ quỷ,
chữa
lành những người ốm đau.
Xin
cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng
với
niềm vui của người tìm đuợc viên ngọc quý,
biết
nói về Ngài như nói về một người bạn thân.
Xin
ban cho chúng con khả năng
đẩy
lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa.
Xin
giúp chúng con lau khô những giọt lệ
của
bao người đau khổ thể xác tinh thần.
Lạy
Chúa Giêsu,
thế
giới thật bao la
mà
vòng tay chúng con quá nhỏ.
Xin
dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau
mà
tin tưởng lên đuờng,
nhẹ
nhàng và thanh thoát.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu,
S.J.
Mùng ba Tết - Thánh hóa công việc
Bài Ðọc I: St 2, 4b-9.
15
"Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn địa đàng, để họ trồng tỉa".
Bài trích sách Sáng Thế.
Trong ngày Thiên Chúa tạo dựng trời đất, thì chưa có bụi cây nào mọc
ngoài đồng, không có một cây rau cỏ nào nẩy mầm ngoài đồng ruộng, vì Chúa là
Thiên Chúa chưa cho mưa rơi xuống đất, và chưa có người để trồng trọt, nhưng
lúc đó mạch nước từ đất vọt lên, tưới khắp mặt đất.
Vậy Thiên Chúa lấy bùn đất nắn thành con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi
và con người trở thành một vật sống. Thiên Chúa lập một vườn tại E-đen về phía
đông và đặt vào đó con người mà Ngài đã dựng nên. Thiên Chúa cho từ đất mọc lên
mọi thứ cây trông đẹp, ăn ngon, với cây sự sống ở giữa vườn, và cây biết lành
biết dữ. Vậy Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn địa đàng, để họ trồng tỉa và
coi sóc vườn.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp ca: Tv 103, 1-2a,
14-15, 24, 27-28
Ðáp: Lạy Chúa, địa cầu đầy dẫy loài thụ tạo của Ngài
Xướng: Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, lạy Chúa là Thiên Chúa của
tôi, Ngài rất ư vĩ đại! Ngài mặc lấy oai nghiêm huy hoàng, ánh sáng choàng thân
như mang áo khoác.
Xướng: Ngài khiến cỏ xanh mọc ra cho súc vật, và cây cối để con người xử
dụng, để từ trong đất con người tạo ra cơm bánh, và rượu làm hoan hỉ lòng người;
khiến cho mặt người lấp lánh dầu thơm, và bánh cơm tâm can người được bỗ dưỡng.
Xướng: Lạy Chúa, thực nhiều thay công cuộc của Ngài! Ngài đã tạo thành vạn
vật cách khôn ngoan, địa cầu đầy dẫy loài thụ tạo của Ngài.
Xướng: Hết thảy mọi vật đều mong chờ ở Chúa, để Ngài ban lương thực cho
chúng đúng thời giờ. Khi Ngài ban cho thì chúng lãnh, Ngài mở tay ra thì chúng
no đầy thiện hảo.
Alleluia và Câu Xướng
Trước Phúc Âm: Tv 67, 20
(Mùa Chay: bỏ Alleluia)
Alleluia, alleluia! - Chúc tụng Chúa ngày nọ qua ngày kia; Thiên Chúa là
Ðấng cứu độ, Người vác đỡ gánh nặng chúng tôi. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 5, 16-20
"Chúa Cha yêu Chúa Con, và bày tỏ cho Chúa Con biết mọi việc mình
làm".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, các người Do thái gây sự với Chúa Giêsu, vì Người đã chữa bệnh
trong ngày sabbat. Chúa Giêsu trả lời họ rằng: "Cha Ta làm việc liên lỉ,
Ta cũng làm việc như vậy". Bởi thế, các người Do thái càng tìm cách giết
Người, vì không những Người đã phạm luật nghỉ ngày sabbat, lại còn gọi Thiên
Chúa là Cha mình, coi mình ngang hàng với Thiên Chúa.
Vì thế, Chúa Giêsu trả lời họ rằng: "Thật, Ta bảo thật cho các ngươi
biết: Chúa Con không thể tự mình làm gì, nếu không thấy Chúa Cha làm. Ðiều gì
Chúa Cha làm, thì Chúa Con cũng làm y như vậy. Vì chưng, Chúa Cha yêu thương
Chúa Con, và bày tỏ cho Chúa Con biết mọi việc mình làm, và sẽ còn bày tỏ những
việc lớn lao hơn thế nữa, đến nỗi các ngươi sẽ phải thán thục".
Ðó là lời Chúa.
- - - - - - - - - - - -
Hoặc: Mt
6, 31-34
"Các con chớ áy náy lo lắng về ngày mai".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con chớ áy náy lo
lắng mà nói rằng: "Chúng ta sẽ ăn gì, uống gì, hoặc sẽ lấy gì mà mặc?"
Vì chưng, dân ngoại tìm kiếm những điều đó. Nhưng cha các con biết rõ các con cần
đến những điều đó. Tiên vàn các con hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công
chính của Người, còn các điều đó Người sẽ ban thêm cho các con. Vậy các con chớ
áy náy lo lắng về ngày mai, vì ngày mai sẽ lo cho ngày mai. Ngày nào có sự khốn
khổ của ngày ấy".
Ðó là lời Chúa.
- - - - - - - - - - - - -
Hoặc: Mc
4,26-29
"Người kia đã gieo hạt xuống đất, rồi đi ngủ, hạt giống mọc lên thế
nào người đó cũng không hay biết".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: "Nước Thiên Chúa giống
như người kia đã gieo hạt xuống đất, người đó ngủ hay thức, đêm hay ngày, hạt
giống cứ đâm mầm và mọc lên thế nào người đó cũng không hay biết nữa. Ðất tự nó
làm cây lúa mọc lên: trước hết thành cây, rồi đâm bông, rồi kết hạt. Và khi lúa
chín, người ấy liền gặt vì đã đến mùa".
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm : “Ơn Trời Mưa
Nắng Phải Thì” (Lm Jos Tạ Duy Tuyền)
Có một câu chuyện huyền thoại về con trâu như sau:
Thuở xưa, Ngọc Hoàng sai một vị thần xuống trần gian mang theo 1 bao hạt
giống lúa và 1 bao cỏ để gieo xuống trần gian. Trước khi xuống trần, Ngọc Hoàng
đã tỉ mỉ căn dặn, đến trần gian phải gieo rắc bao hạt giống lúa trước để dân có
dư giả mà ăn, còn bao cỏ thì gieo sau để nuôi thú vật. Nhưng khi vị thần này đến
trần gian, thấy phong cảnh khác lạ, nên mãi mê xem mà quên lời căn dặn của Ngọc
Hoàng, để rồi gieo bao cỏ trước và bao hạt giống lúa sau. Từ đó, cỏ không cần
trồng cũng mọc tràn lan khắp mọi nơi, các thú vật ăn không bao giờ hết vì quá
dư thừa và không làm sao diệt cỏ hết được. Còn lúa phải gieo trồng rất cực khổ
và khó khăn mới có ăn, bởi vì bị cỏ mọc lấn áp làm lúa phát triển chậm hơn cỏ.
Bởi lỗi ấy của vị thần, làm cho người trần gian trồng lúa rất khó nhọc mới có
ăn và cỏ thì mọc tự nhiên quá nhiều, cho nên Ngọc Hoàng mới đày vị thần này xuống
trần gian hóa thành con Trâu để giúp người trần gian cày bừa trồng lúa và ăn cỏ,
chừng nào hết cỏ sẽ được tha thứ cùng phục hồi địa vị cũ, nhưng ăn hoài vẫn
không bao giờ hết cỏ được, nên Trâu chưa thoát kiếp trở về thiên đường.
Câu chuyện này phải chăng muốn dạy chúng ta: “Có làm thì mới có ăn –
Không dưng ai dễ mang phần cho ta”. Vì ở trần gian, cỏ thì nhiều, lúa thì ít.
Cây ăn được thì ít, cây không ăn được thì nhiều. Xem ra con người vất vả hơn
con vật. Vì người làm lụng vất vả mới có mà ăn, còn vật thì không cần làm mà trời
vẫn cho ăn.
Hôm nay ngày Mồng Ba Tết, Giáo hội mời gọi chúng ta trao phó công việc
làm ăn cho Thiên Chúa. Chúng ta xin Chúa ban cho một năm “thuận buồm xuôi gió”.
Chúng ta xin Chúa chúc lành cho công việc chúng ta được mọi sự như ý, ân phước
dư đầy. Chúng ta tự ý thức sự nhỏ bé, giới hạn của con người trước biết bao
công việc mưu sinh hằng ngày. Chúng ta cần ơn ban của trời cao. Chúng ta xác
tín như người xưa đã xác tín vào trời: “Mưu sự tại nhân – Thành sự tại Thiên”.
Đó là thái độ khiêm tốn cần có của con người trước vũ trụ bao la. Con người nhỏ
bé giới hạn nên cần phó dâng trong tay Thiên Chúa. Tổ tiên chúng ta xưa cũng từng
làm như thế. Không phải vì lạc hậu. Không phải vì thiếu ý thức khoa học mới tin
vào Trời, nhưng vì cảm nghiệm sự nhỏ bé của con người trước sự lớn lao của Trời:
“Đèn Trời đèn sáng bốn phương
Đèn tôi sáng tỏ đầu giường nhà tôi”.
Hơn nữa niềm tin của tổ tiên còn xác tín về lòng nhân ái của Trời. Trời
không phụ lòng người. Trời không bao giờ bỏ quên con người:
“Trời nào có phụ ai đâu
Hay làm thì giầu, có chí thì nên”.
Biết được lòng trời rộng rãi bao la. Tổ tiên xưa còn biết lợi dụng mưa nắng
phải thì của Trời mà trồng cấy:
Trời nắng tốt dưa
Trời mưa tốt lúa.
Nhất là biết cầu khẩn cùng Trời cho một năm:
“Nhờ trời mưa gió thuận hoà
Nào cầy nào cấy trẻ gia đua nhau”
Thực vậy, cuộc sống mưu sinh thật khó khăn. Nếu không có ơn trời thì công
việc chúng ta cũng tựa như “dã tràng xe cát biển đông”. Nhìn lại một năm qua,
chúng ta thấy thật rõ điều đó. Việc làm ăn mỗi ngày một khó. Không chì là do
suy thoái kinh tế toàn cầu, mà quan yếu còn do thiên tai lũ lụt hoành hành. Ở
Việt Nam ngay từ đầu năm Mậu Tý đã xảy ra rét đậm, rét hại khiến hàng ngàn trâu
bò bị chết, hàng ngàn hecta hoa màu không thể đơm bông kết trái. Rồi thiên tai
lũ lụt trong năm đã phá huỷ biết bao ruộng lúa, vườn rau. Nhiều người nói rằng:
năm nay làm ăn không chỉ trắng tay mà con nợ nần chồng chất. Cuộc sống vốn dĩ
đã khổ lại khổ thêm do không gặp thời vận của Trời ban.
Đó là lý do mà hôm nay chúng ta cùng nhau dâng lên Thiên Chúa công việc
và dự định của chúng ta trong năm nay. Chúng ta trao gởi công việc chúng ta cho
Thiên Chúa. Xin Chúa chúc phúc và thánh hoa công việc chúng ta được mọi sự như
ý. Chúng ta xác tín rằng: “Nếu Chúa không xây nhà, thợ nề vất vả cũng bằng uổng
công”. Xin Chúa thương đón nhận những ước nguyện đầu năm chân thành của chúng
ta. Amen
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Năm Tuần 4 TN, Năm lẻ
Bài đọc: Heb 12:18-19, 21-24; Mk 6:7-13.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hy sinh cho sứ
vụ rao giảng Tin Mừng.
Để một người có thể hy sinh chấp nhận gian khổ, anh cần có một lý tưởng để
theo đuổi. Chẳng hạn, người nhà nông sẵn sàng chấp nhận gian khổ nắng mưa, vì
biết mùa gặt sẽ đến; hay người học sinh chấp nhận hy sinh các thú vui để rèn
luyện sách đèn, vì biết sẽ có ngày ra trường thành tài.
Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh đích điểm cuộc đời của người Kitô hữu.
Trong Bài Đọc I, tác-giả Thư Do-Thái nhắc nhở các tín hữu ngày được dự hội vui
với Thiên Chúa, Đức Kitô, các thiên thần, các Tổ-phụ, và các Kitô hữu khác
trong Thành Jerusalem trên trời. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu sai Nhóm Mười Hai đi
rao giảng Tin Mừng. Ngài dặn các ông đừng chú trọng quá nhiều đến của cải vật chất
và lợi lộc trần gian, để có nhiều thời giờ cho việc rao giảng Tin Mừng và chữa
lành con người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Sự khác biệt giữa 2 Giao Ước Cũ
và Mới
1.1/
Giao Ước Cũ trên Núi Sinai: Tác-giả nhắc lại sự kiện Thiên Chúa gặp gỡ dân trên Núi Sinai (Exo
19:16-23) “Anh em đã chẳng tới một quả núi sờ thấy được, có lửa đang cháy, mây
mù, bóng tối và giông tố, có tiếng kèn vang dậy, và tiếng nói thét gầm, khiến
những kẻ nghe phải van xin đừng để lời ấy thốt ra với họ nữa. Cảnh tượng hãi
hùng đến mức ông Moses phải nói: Tôi kinh hoàng và run rẩy!”
(1) Thiên Chúa tỏ uy quyền trên con người: Một sự khác biệt vô cùng lớn
lao giữa Thiên Chúa và con người: Ngài qúa uy quyền và thánh thiện trong khi
con người quá nhỏ bé, yếu đuối, và tội lỗi.
(2) Thiên Chúa cách biệt với con người: Ai nhìn thấy hay tới gần Thiên
Chúa, kẻ đó sẽ phải chết. Ngài chỉ nói với con người qua người trung gian là
Moses. Ngài đã trao cho con người Thập Giới và truyền phải thi hành.
(3) Thiên Chúa làm con người phải kinh hòang và sợ hãi: Họ không thể nhìn
uy quyền của Thiên Chúa và nghe tiếng của Ngài.
1.2/
Giao Ước Mới trên Núi Sion: “Nhưng anh em đã tới Núi Sion, tới thành đô Thiên Chúa hằng sống, là
Jerusalem trên trời, với con số muôn vàn thiên sứ. Anh em đã tới dự hội vui, dự
đại hội giữa các con đầu lòng của Thiên Chúa, là những kẻ đã được ghi tên trên
trời. Anh em đã tới cùng Thiên Chúa, Đấng xét xử mọi người, đến với linh hồn những
người công chính đã được nên hoàn thiện. Anh em đã tới cùng Vị Trung Gian giao
ước mới là Đức Giêsu và được máu của Người rảy xuống, máu đó kêu thấu trời còn
mạnh thế hơn cả máu Abel.”
(1) Gia đình của Thiên Chúa là Thành Jerusalem trên trời: Núi Sion là
kinh thành của Đức Đại Vương. Tác giả liệt kê các thành phần của gia đình Thiên
Chúa:
– Các thiên thần: là những sứ giả của Thiên Chúa, đêm ngày họ không ngừng
ca tụng vinh quang của Ngài.
– Các con đầu lòng của Thiên Chúa: là những kẻ đã được ghi tên trên trời.
Con đầu lòng là người được thừa hưởng gia tài của người cha. Thường thường,
danh hiệu này dùng ở số ít để chỉ tước hiệu đặc biệt của Chúa Giêsu: Người là
Trưởng Tử sinh ra trước mọi lòai thọ tạo (Col 1:15). Người là Trưởng Tử trong số
những người từ cõi chết sống lại, để trong mọi sự, Người đứng hàng đầu (Col
1:18). Tác giả dùng danh hiệu ở số nhiều, có thể để ám chỉ những người công
chính của Cựu Ước mà tác giả đã đề cập đến trong chương 11, những người mà đã
được thừa hưởng những lời hứa chúc lành (Heb 6:12).
– Các linh hồn những người công chính đã được nên hoàn thiện: tất cả những
người Kitô hữu khác.
(2) Thiên Chúa ở với con người: Chúa Giêsu là trung gian giữa Thiên Chúa
và con người. Ngài bắt đầu Giao Ước Mới và làm cho con người được hòa giải với
Thiên Chúa. Ngài vừa là Thượng Tế, vừa là Lễ Hy Sinh tòan hảo. Chính vì thế,
Ngài làm cho mối liên hệ hai bên được tiến lại gần nhờ máu của Người đổ ra trên
Thập Giá.
(3) Thiên Chúa yêu thương: Ngài sẵn sàng hy sinh Người Con đổ máu để chuộc
tội cho con người. Tác giả so sánh máu của Abel và máu của Chúa Giêsu. Máu của
Abel kêu gọi sự báo thù (Gen 4:10); máu của Chúa Giêsu mang tha thứ mọi tội và
mang con người tới Thiên Chúa (Heb 10:19). Sự hy sinh của Ngài là lý do tại sao
con người được chung hưởng vinh quang với Thiên Chúa.
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu sai Nhóm Mười Hai đi với
2 lời truyền:
2.1/
Hành trang mang theo trên đường rao giảng: “Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường,
chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền đồng để giắt lưng; được
đi dép, nhưng không được mặc hai áo.”
Có nhiều cách giải nghĩa lệnh truyền này của Chúa; nhưng trọng tâm của lệnh
truyền là các Tông-đồ phải dành mọi thời gian và nỗ lực cho việc rao giảng Tin
Mừng, chứ không quá quan tâm và lệ thuộc vào đời sống vật chất. Chúa Giêsu mời
gọi các ông sống tin tưởng trong sự quan phòng của Thiên Chúa, vì “thợ làm việc
xứng đáng được thưởng công.” Ngài sẽ lo liệu đời sống vật chất của các ông qua
tình thương của những người được thấm nhuần Tin Mừng. Hơn nữa, nếu các ông
không mang hành lý nặng, các ông sẽ dễ dàng lên đường đi đến mọi nơi cần được
sai tới; và lời rao giảng không lệ thuộc vào vật chất sẽ hiệu quả hơn.
2.2/
Thái độ của người rao giảng: “Người bảo các ông: Bất cứ ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào, thì cứ ở lại
đó cho đến lúc ra đi. Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em,
thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ.”
Cùng một lối giải thích như trên, người Tông-đồ được sai đi là cho sứ vụ
rao giảng Tin Mừng, chứ không để tìm hư danh, uy quyền, hay các lợi lộc vật chất.
Nếu người Tông-đồ nhắm đến những điều sau này, anh sẽ dễ nản chí và di chuyển đến
những nơi có lợi lộc hơn. Về phía người được nghe Tin Mừng, họ phải mở lòng đón
nhận và tiếp đãi những người làm việc cho Chúa, để cả người gieo và người gặt đều
được vui mừng trong mùa gặt.
Những việc làm chính của các Tông-đồ: (1) Rao giảng Tin Mừng và kêu gọi
người ta ăn năn sám hối. (2) Trừ quỷ: Giúp con người thóat khỏi ảnh hưởng hay
làm nô lệ cho ma quỉ, để sống đời sống thánh thiện theo tinh thần Phúc Âm đòi hỏi.
(3) Xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh tật phần hồn cũng như
phần xác.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta có một lý tưởng cao cả để theo đuổi là được đòan tụ với Thiên
Chúa và các Kitô hữu khác trên trời trong Ngày Cánh Chung. Để đạt được lý tưởng
này, chúng ta cần hy sinh chấp nhận mọi gian khổ trong việc loan báo và sống
Tin Mừng.
– Chúng ta không thể bắt cá hai tay: vừa muốn được chung hưởng hạnh phúc
với Thiên Chúa đời sau, vừa muốn tất cả các hưởng thụ đời này. Người muốn bắt
cá hai tay có nguy hiểm mất tất cả.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
07/02/2019 – THỨ NĂM ĐẦU THÁNG TUẦN 4 TN
Mồng Ba Tết, thánh hoá công ăn việc làm
Mt 25,14-30
BIẾT LÀM LỢI
“Ông cho người này năm yến, người kia hai yến, người khác nữa
một yến, tùy khả năng riêng mỗi người.” (Mt 25,15)
Suy niệm: Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và là chủ tể muôn loài
muôn vật, còn chúng ta là tạo vật và tôi tớ của Ngài. Ngài là toàn năng và
nhưng cũng đầy yêu thương. Ngài biết rõ khả năng của từng tôi tớ, và trao ban
cho họ tùy theo năng lực. Ngài không bao giờ buộc con người phải vượt quá khả
năng của mình. Ngài trao cho họ số vốn liếng đó là: đức tin, sức khỏe, tài
năng, nghị lực, tiền của, công việc, và cả thời giờ và cơ hội… Dù sự trao ban
có khác nhau, nhưng Chúa muốn mỗi người phải cố gắng hết mình để sinh lời tùy
theo bậc sống và hoàn cảnh của riêng mình. Sự hiện hữu của mỗi người và tất cả
những gì mình đang có: sức khoẻ, tiền của, tài năng, thời giờ và cả cuộc sống của
mỗi người đều là những “yến bạc” Chúa ban mà chúng ta phải sử dụng để làm vinh
danh Chúa và nhờ đó đạt tới sự sống đời đời.
Mời Bạn: Mọi sự đều là hồng ân Chúa ban. Một khi đã nhận lãnh
tất cả từ nơi Chúa thì phải biết cho đi cách quảng đại chứ đừng bo bo ích kỷ mà
không dám dân thân phục vụ. Chỉ khi sẵn sàng đem những “yến bạc” Chúa trao cho
để đem ra chia sẻ cho anh em thì những “yến bạc” đó mới sinh lợi được.
Sống Lời Chúa: Luôn có thái độ ôn hoà nhã nhặn, vui lòng chịu “làm
phiền” khi phục vụ những người mà mình có bổn phận chăm sóc.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Chúa
vì đã ban cho chúng con người năm nén, kẻ hai nén, người một nén. Tất cả đều do
ân ban và sự quan phòng đầy yêu thương của Ngài. Xin giúp chúng con biết làm lợi
cho Chúa, cho bản thân, cho gia đình, cho xã hội, cho mọi người và cho vũ trụ.
Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
Tôi tớ tốt lành và trung tín (7.2.2019
– Thứ Năm Tuần 4 TN - Mồng Ba Tết Nguyên đán)
Suy niệm:
Lao động đúng là vinh quang của con người,
Thiên Chúa vẫn cần con người cộng tác cho công cuộc sáng tạo còn dang dở…
Ngài vẫn muốn nhờ con người mà làm cho thế giới này đẹp hơn, dễ sống hơn,
làm cho trái đất này trở thành một ngôi làng ấm áp, xinh xắn, gần gũi
cho hơn sáu tỷ người sống như anh chị em.
Từng ngày bao người vẫn cộng tác với Thánh Thần để biến đổi bộ mặt trái đất.
Có một lời nguyện rất hay của Phụng vụ Giờ Kinh tóm kết về giá trị của
lao động:
“Ước gì những công việc chúng con phải làm, vừa nuôi dưỡng chúng con,
vừa mưu ích cho những người chúng con chịu trách nhiệm,
lại vừa làm cho triều đại Chúa mau đến.”
Như thế lao động là một bổn phận của người Kitô hữu.
Lao động không phải là một hình phạt của tội nguyên tổ.
Thống trị mặt đất và làm bá chủ mọi loài (St 1, 28).
là sứ mạng Thiên Chúa trao cho con người ngay sau khi nó được tạo dựng.
Trước khi phạm tội, con người đã được Đức Chúa “đặt vào vườn Êđen,
để cày cấy và canh giữ đất đai” (St 2, 15).
Làm việc với đất, với vườn, với đủ thứ cây trái là một vinh hạnh lớn.
Thánh Phaolô cũng thấy cái thú trong việc “làm lụng vất vả”
để nuôi thân và để “giúp đỡ những người đau yếu” (Cv 20, 35).
Có pha một chút tự hào, vị tông đồ lừng danh này khoe:
“Những gì cần thiết cho tôi, và cho những người sống với tôi,
đôi tay này đã tự cung cấp” (Cv 20, 34).
Chẳng biết từ đâu Phaolô nghe được câu này mà ông bảo là của chính Chúa
Giêsu:
“Cho thì có phúc hơn là nhận”
Làm việc chính là “cho”, và “cho” thật là một hồng phúc.
Đầu tư là vấn đề nóng bỏng của mọi nền kinh tế.
Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu dám ví đời sống Kitô hữu với chuyện làm ăn.
Ông chủ Giêsu đi vắng thời gian lâu (c.19), giao của cải cho tôi tớ đầu
tư sinh lợi.
Chẳng phải ai cũng được số nén bạc như nhau,
nhưng mỗi người phải cố gắng tối đa với những gì mình đã lãnh nhận.
Hai người đầu tiên đã đi làm ăn và sinh lợi tương xứng,
được ông chủ coi là “tôi tớ tốt lành và trung tín.” (cc. 21.23).
Người thứ ba lại đào lỗ đưới đất và chôn dấu nén bạc duy nhất của mình.
Nén bạc của anh thứ ba còn nguyên, không sinh lợi,
vì thế anh bị coi là “tôi tớ xấu xa, biếng nhác và vô dụng” (cc. 26.30).
Trong khi chờ Chúa trở lại, chúng ta nỗ lực sử dụng tài năng Chúa ban.
Làm sao sinh lợi được nhiều nhất và hiệu quả nhất từ số vốn mình nhận?
Làm sao để Thiên Chúa được vinh danh hơn trên mặt đất này?
Đầu tư đòi sáng tạo của khối óc và đam mê của trái tim.
Đầu tư đòi chấp nhận liều lĩnh, nỗ lực và căng thẳng.
Nhưng chúng ta dám chấp nhận sự dấn thân này chỉ vì yêu Giêsu.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
nếu ngày mai Chúa quang lâm,
chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng.
Thế giới này còn bao điều khiếm khuyết, dở dang,
còn bao điều nằm ngoài vòng tay của Chúa.
Chúa đâu muốn đến để hủy diệt,
Chúa đâu muốn mất một người nào...
Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa
xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng,
vui tươi và hạnh phúc,
để ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn
cho mọi người và cho cả vũ trụ.
Xin nuôi dưỡng nơi chúng con
niềm tin vững vàng
và niềm hy vọng nồng cháy,
để tất cả những gì chúng con làm
đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
7 THÁNG HAI
Tài Năng Của Người
Nghệ Sĩ
Sau khi dẫn con cái It-ra-en ra khỏi cảnh nô lệ ở Ai Cập, Mô-sê hoạch định
chuyện dựng lều thánh – tức đền thờ lưu động đầu tiên của dân It-ra-en trong sa
mạc. Ông ủy nhiệm công việc đó cho những người đầy “thần khí”. Và, sau khi đã gọi
đích danh các nghệ nhân, Đức Chúa ban cho họ ơn khôn ngoan. Ngài ban cho họ những
ơn mà họ cần để họ có khả năng vạch dự án và triển khai công việc dựng lều
thánh (Xh 35, 30 – 35; 36, 1).
Như chúng ta có thể thấy trong chương trích dẫn trên của Sách Xuất Hành,
cái mà ngày nay chúng ta gọi là nghệ thuật thánh vốn đã có những nguồn gốc rất
rạng rỡ thuở xưa. Tận đáy lòng tôi, tôi muốn nói với các bạn là những nghệ sĩ rằng
các bạn phải ý thức rằng tài năng nghệ thuật của mình là một món quà do Thiên Chúa
ban tặng. Người nghệ sĩ phải tri ân Thiên Chúa và phải dấn thân trung thành
theo tiếng gọi mà mình đã nhận lãnh. Người nghệ sĩ Kitô giáo có thể tin tưởng rằng
Thiên Chúa sẽ ban cho mình “thần khí” để chuyển hóa các tài năng tự nhiên thành
hoa trái thiêng liêng, nhất là khi họ đảm nhận những công trình nghệ thuật tôn
giáo và phụng vụ.
Trong ánh sáng này, chúng ta có thể hiểu những đường nét trác tuyệt của
các thánh đường thời Trung Cổ. Nếu đứng ngoài lãnh giới đức tin, chúng ta không
thể cảm nhận đầy đủ cái tuyệt vời ấy. Có thể kể một số ví dụ, như các công
trình của Giotto, Fra Angelico, Michelangelo, những vần thơ của Dante, những
áng văn của Manzoni, những khúc nhạc của Pierluigi da Palestrina, vv…
Đành rằng tài năng của một nghệ sĩ có thể sáng tạo ra những tác phẩm kiệt
xuất không dính dáng gì đến niềm tín ngưỡng của mình; nhưng, nếu bên cạnh tài
năng tự nhiên, người nghệ sĩ có thao thức muốn bộc lộ đức tin, cậy, mến của
mình, thì với tác phẩm của mình, họ sẽ trở thành một sức khích lệ lớn lao cho
người ta. Tác phẩm của họ sẽ chuyển tải các mầu nhiệm của niềm tin Kitô giáo.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 07/2
Thánh Giêrônimô
Êmilianô; Thánh Jôsêphina Bakhita, trinh nữ
Dt 12, 18-19.
21-24; Mc 6, 7-13.
LỜI SUY NIÊM: “Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. Các ông trừ được
nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa lành họ khỏi bệnh.”
Nhóm Mười hai là
những người ưu tuyển, đã được Chúa Giêsu tuyển chọn giữa đông đảo các môn dệ của
Người, sau khi Người đã cầu nguyện cùng với Chúa Cha. Các ông được ở với Người,
được Người huấn luyện, đào tạo để rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Giờ đay Người
sai họ đi với những lời căn dặn cần thiết, cùng với quyền trừ quỷ. Các ông đã
thực hiện đúng theo lệnh truyền của Người, và đã thâu lượm được kết quả tốt đẹp:
“Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa lành họ khỏi
bệnh.”
Lạy Chúa Giêsu,
ngày hôm nay Giáo Hội Chúa cũng đang tiếp tục các công việc của Chúa qua các
Giám mục và các thừa tác viên linh mục, các tu sĩ nam nữ, cũng như những người
tận hiện trong công việc cứu giúp các linh hồn. Xin cho tất cả được ơn sống
theo những lời Chúa căn dặn, giúp cho công việc truyền giáo đem lại nhiều thành
quả tốt đẹp hơn. Và sự trưởng thành đời sống đức tin vủa chúng con.
Mạnh Phương
07 Tháng Hai
Một Lý Tưởng Ðể Ðeo Ðuổi
Một buổi sáng năm 1888, Alfred Nobel, người phát minh ra chất nổ và từ
đó, hái ra tiền như nước, đã thức giấc trong bàng hoàng sửng sốt: tất cả báo
chí trong ngày đều nói đến cái chết của Alfred Nobel, vua chất nổ. Thật ra, đây
chỉ là một lầm lẫn của một ký giả nào đó. Người anh của Alfred qua đời và ký giả
đó tưởng lầm là chính Alfred. Nhưng dù sao, đây cũng là dịp để Alfred đọc được
cảm nghĩ mà người
khác đang có về ông. Trên môi miệng của mọi người, ông chỉ là ông vua của chất
nổ, nghĩa là người làm giàu trên cái chết của không biết bao nhiêu sinh mạng do
chất nổ gây ra. Người ta không hề nhắc đến những nỗ lực của ông nhằm phá vỡ những
hàng rào ngăn cách giữa các dân tộc và các ý thức hệ. Không ai nhắc đến những cố
gắng kiến tạo hòa bình của ông. Alfred Nobel buồn vô cùng về hình ảnh của một
nhà “kinh doanh trên sự chết chóc” mà thiên hạ đang có về mình.
Ông quyết định làm cho thế giới hiểu được lẽ sống đích thực của ông. Với
quyết tâm ấy, ông ngồi xuống bàn làm việc viết ngay tức khắc chúc thư trong đó
ông để lại tất cả tài sản của ông để thiết lập một trong những giải thưởng lớn
nhất thế giới: đó là giải thưởng Nobel Hòa Bình, nhằm tưởng thưởng tất cả những
ai góp phần vào việc xây dựng Hòa Bình thế giới.
Ngày nay, biệt hiệu của Alfred Nobel không còn là vua của chất nổ nữa, mà
là Hòa Bình.
Có một lý tưởng để đeo đuổi, có một lẽ sống cho cuộc đời: đó là niềm hạnh
phúc lớn lao nhất của con người trên trần gian. Những ngưeời bất hạnh nhất phải
chăng không là những người sống mà không biết tại sao mình sống, sống để làm gì
và sẽ đi về đâu sau cái chết. Bất hạnh hơn nữa đó là những con người chỉ xây dựng
cuộc sống của mình trên những sự chết chóc của người khác. thế giới sẽ không
bao giờ quên những Tần Thủy Hoàng, những Nero, những Hitler, những Stalin, những
Ceaucescu và không biết bao nhiêu những con người ngày nay có kẻ đang thờ trong
lăng tẩm để rồi mai ngày kẻ khác lại khai quật lên.
Người Kitô hữu là người có lý tưởng để xây dựng, có lẽ sống để đeo đuổi.
Họ luôn luôn sẵn sàng để bày tỏ cho người khác những lý lẽ của niềm tin và hy vọng
của họ. Sự bày tỏ ấy, họ không viết trong một chúc thư bằng giấy mực, mà bằng cả
cuộc sống chứng tá của họ.
Khi nói về sự rao giảng Tin Mừng, Ðức cố Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói như
sau: “Tin Mừng trước tiên phải được công bố bằng một chứng từ. Có chứng từ khi
một người Kitôhay một nhóm người Kitô sống giữa nhân loại, bày tỏ được khả năng
có thể cảm thông, đón tiếp, chia sẻ cuộc sống với người khác hoặc tỏ tình liên
đới với người khác trong mọi cố gắng đối với những gì là cao quí và thiện hảo.
Có chứng từ khi những người Kitô chiếu rọi một cách đơn sơ và bộc phát niềm tin
của họ vào những giá trị vượt lên trên những giá trị thông thường và bày tỏ niềm
hy vọng của họ vào một cái gì mà người ta không thấy hoặc không dám mơ ước. Với
chứng từ không lời ấy, người Kitô làm dấy lên trong tâm hồn của những ai đang
thấy họ sống, những câu hỏi mà con người không thể né tránh được. Ðó là: Tại
sao họ sống như thế? Ðiều gì hoặc ai là người thúc đẩy họ sống như thế? Tại sao
họ sống như thế giữa chúng ta?”.
Ðâu là chúc thư chúng ta muốn để lại cho hậu thế? Ðâu là lời biện minh của
chúng ta trước mặt người đời nếu không phải là một cuộc sống chứng từ cho Nước
Trời.
(Lẽ Sống)








Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét