Trang

Thứ Bảy, 4 tháng 5, 2019

05-05-2019 : (phần II) CHÚA NHẬT III PHỤC SINH năm C


05/05/2019
Chúa Nhật 3 PHỤC SINH năm C
(phần II)


Phụng Vụ Lời Chúa: Chúa Nhật 3 Phục Sinh năm C
(Cv 5,27b-32.40b-41; Kh 5,11-14; Ga 21, 1-19)
CHỨNG NHÂN TÌNH YÊU
“Các Tông Đồ ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng hân hoan 
bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu”
(Cv 5,41)
Biến cố Đức Giêsu Phục sinh đã làm thay đổi cuộc sống của các Tông Đồ. Nếu trước kia các vị sống hời hợt và run sợ thì nay lại nhiệt tình và mạnh dạn ra đi loan truyền những gì đã nghe và làm chứng những gì đã thấy từ Đức Giêsu. Ngay cả bắt bớ, tù đày, cái chết cũng không thể lay chuyển niềm tin và làm lung lạc sứ vụ của các Tông Đồ. Giờ đây họ là những chứng nhân cho tình yêu của Đức Giêsu và cho niềm hy vọng phục sinh.
I. LỜI CHÚA
1. BÀI ĐỌC I (Cv 5,27b-32.40b-41)
Cộng đoàn Kitô giáo tiên khởi đang bị bách hại. Tông Đồ cả Phêrô và các Tông Đồ bị bắt và bị điệu ra trước Thượng Hội Đồng, bởi vì các ông rao giảng và dấn thân làm chứng về Đức Giêsu, người Nadarét, là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, đã chết mà nay đã sống lại. Vì có nhiều người tin theo, nên các vị thượng tế ngăn cấm: “Chúng tôi đã nghiêm cấm các ông không được giảng dạy về danh ấy nữa, thế mà các ông đã làm cho Giêrusalem ngập đầy giáo lý của các ông, lại còn muốn máu người ấy đổ trên đầu chúng tôi”. Dù vậy, các Tông Đồ đã không tỏ chút sợ hãi gì trước những lời cấm đoán và bắt bớ. Ngược lại các ông càng mạnh dạn làm chứng về Đức Giêsu Kitô: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm. Đức Giêsu đã bị các ông treo lên cây gỗ mà giết đi; nhưng Thiên Chúa của chúng ta đã làm cho Người trỗi dậy... Về những sự kiện đó, chúng tôi xin làm chứng, cùng với Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng lời Người”.
Không ai có thể bắt các Tông Đồ im lặng trước biến cố phục sinh vinh hiển của Đức Giêsu, Đấng mà chính họ đã theo, ở với, cùng chia sẻ cuộc sống, và họ đã gặp lại Người sau phục sinh. Các Tông Đồ đã biểu lộ niềm tin và tình yêu dành cho Đức Giêsu bằng việc vui vẻ chấp nhận mọi đau khổ vì Người: “Các Tông Đồ ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu”.
2. BÀI ĐỌC II (Kh 5,11-14)
Bài đọc trích sách Khải Huyền hôm nay nói về Con Chiên Vô Tì Tích là chính Chúa Giêsu Kitô. Cần lưu ý: trong Kinh Thánh, danh từ “cừu/ πρόβατον” (sheep) được sử dụng để ám chỉ “các tín hữu” nói chung (vd: Tv 78,52; 79,13; Ga 10,11.15; 21,16.17); còn danh từ “chiên/ ἀρνίον” (lamb) chỉ một lần được áp dụng cho các Kitô hữu (Ga 21,15), còn tất cả 28 lần còn lại được tìm thấy trong sách Khải Huyền là tước hiệu ám chỉ về Đức Giêsu Kitô được tôn vinh (và thêm một lần ở Kh 13,11: Con Thú,…có hai sừng giống như một con chiên).
Đức Giêsu là Con Chiên đã chấp nhận trở nên của lễ dâng lên cho Thiên Chúa qua việc hiến dâng cả mạng sống để cứu chuộc nhân loại. Sau đó, Người đã sống lại hiển vinh và xứng đáng lãnh nhận mọi uy quyền, vinh quang trên toàn thể vũ trụ. “Con Chiên đã bị giết nay xứng đáng lãnh nhận phú quý và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh, danh dự với vinh quang, và muôn lời cung chúc”.
Việc đám đông thuộc mọi thành phần tung hô, cùng với bốn Sinh Vật thưa “Amen” và các Kỳ Mục phủ phục xuống thờ lạy Con Chiên là Đức Giêsu gợi lên sự liên tưởng đến việc tôn kính dành cho các hoàng đế Rôma thời đó. Lúc này, đám đông dâng những lời và thực hiện hành vi tôn kính này lên Thiên Chúa và Con Chiên thay cho các hoàng đế Rôma. Điều này phản ánh viễn tượng của Gioan về cuộc xung đột giữa quyền lực của Thiên Chúa với quyền lực của Xêda, là thế lực đang bách hại Kitô giáo. Cuối cùng, vương quyền của Thiên Chúa sẽ chiến thắng qua cuộc phục sinh và tôn vinh của Đức Giêsu. Tất cả vũ trụ đều ca ngợi Đức Giêsu, vì chính hiến tế của Đức Giêsu trên thập giá đã thay đổi tình trạng của con người và vũ trụ, khi Người giải thoát con người và thế giới khỏi quyền lực của ma quỷ, tội lỗi và thế lực sự dữ.
3. BÀI TIN MỪNG (Ga 21,1-19)
Bối cảnh của bài Tin Mừng hôm nay nói về việc Đức Giêsu Phục Sinh tỏ mình ra với các Tông Đồ trong hoàn cảnh sinh hoạt thường ngày của họ. Các ông đi đánh cá suốt đêm ở hồ Galilê, nhưng chẳng bắt được gì. Khi trời hừng sáng, Đức Giêsu đứng trên bờ biển, nhưng các Tông Đồ không nhận ra Người. Đức Giêsu ra lệnh cho các ông thả lưới và họ đã có một mẻ cá đầy. Đây là dấu lạ đầu tiên để tỏ lộ quyền năng và vinh quang của Đức Giêsu kể từ  khi Người sống lại. Thiên Chúa cũng tỏ lộ vinh quang của Người trong điều kiện và hoàn cảnh bình thường của đời sống thường ngày của chúng ta. Vấn đề quan trọng là chúng ta hãy biết mau mắn lắng nghe lệnh truyền của Thiên Chúa, có đọc được dấu lạ để nhận ra Đức Giêsu Kitô phục sinh đang hiện diện bên chúng ta trong cuộc sống hằng ngày hay không.
Có một điểm đặc biệt trong đoạn Tin Mừng hôm nay, đó là trong lúc Đức Giêsu đang dùng bữa với các Tông Đồ, Người đã hỏi Phêrô ba lần: “Này Simôn, con Gioan, anh có yêu mến Thầy không?” (các động từ diễn tả cắc sác thái khác nhau của tình yêu). Sau khi Phêrô đáp trả ba lần rằng ông thương mến Người, Đức Giêsu trao sứ vụ chăn dắt đàn chiên cho Phêrô, dù trước kia ông đã chối Chúa ba lần. Tình yêu hiện tại phủ lấp mọi lỗi lầm quá khứ. Điều mà Đức Giêsu mong đợi nơi các Tông Đồ đó là tình yêu dành cho Người. Nếu có tình yêu này thì các Tông Đồ mới xứng đáng lãnh nhận sứ vụ coi sóc đàn chiên, và chỉ nhờ tình yêu thì các ông mới vượt qua được các khó khăn thử thách mà chu toàn sứ vụ. Không thể nào chăn dắt đàn chiên bằng quyền lực, nhưng chỉ có tình yêu mới thúc đẩy các tông đồ dấn thân phục vụ đoàn chiên, mới mang được mùi chiên vào mình.
II. GỢI Ý MỤC VỤ
1. “Các Tông Đồ ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu”. Các Tông Đồ đã xem những đau khổ họ chịu vì danh Đức Giêsu là niềm vinh dự lớn lao, nên họ đã xác tín và dấn thân cho việc rao giảng về Đức Giêsu phục sinh. Tôi có can đảm và hăng say loan báo Đức Giêsu cho người khác? Đời sống của tôi có là lời chứng về Đức Giêsu Phục sinh? Trong cuộc sống thường nhật, giữa bao cám dỗ của tiền tài và danh vọng, giữa bao áp lực của xã hội và người đời, tôi có dám sống theo các đòi hỏi của Tin Mừng, tôi có dám vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm?
2. “Con Chiên đã bị giết nay xứng đáng lãnh nhận phú quý và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh, danh dự với vinh quang, và muôn lời cung chúc”. Đức Giêsu lãnh nhận tất cả mọi vinh quang và danh dự, do hiến tế của Người trên thập giá vì yêu chúng ta. Tôi có yêu mến và cảm nghiệm tình yêu của Đức Giêsu? Tôi có biết kết hiệp những vui buồn của đời sống tôi với những đau khổ của Đức Giêsu để được hưởng vinh quang với Người? Tôi có tôn kính Đức Giêsu, Con Chiên đã bị giết vì tôi, hơn mọi quyền lực của thế gian?
3. “Này Simôn, con Gioan, anh có yêu mến Thầy không?” Đây cũng là câu hỏi mà Đức Giêsu dành cho tôi: Con có yêu mến Thầy không? Tôi phải thể hiện lòng yêu mến Đức Giêsu như thế nào trong đời sống? Đức Giêsu luôn yêu thương tôi và trên thập giá, Người đã thốt lên: “Ta khát”. Tôi có nhận ra Người vẫn khát khao tình yêu của tôi đối với Người và đối với anh chị em xung quanh? Tôi có động lòng trắc ẩn trước những nổi khổ đau của người bất hạnh, trái tim tôi có rung cảm để thúc đẩy đôi tay hành động một điều gì đó cụ thể trước những khó khăn của người nghèo đang sống quanh tôi?
3. Trước nhiều đau khổ của thời đại chúng ta, xin Thiên Chúa của sự sống đừng để chúng ta thờ ơ và lạnh lùng. Xin Người làm cho chúng ta trở nên những người xây những cây cầu, chứ không phải những bức tường. Đó huấn dụ của Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong Sứ điệp Phục Sinh 2019. Lãnh nhận ơn Phục sinh, chúng ta có nỗ lực trở thành những cầu nối giữa Thiên Chúa và con người và giữa tha nhân với nhau? Hay vô tình trở thành những bức tường ngăn cản mọi tương quan?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Đức Kitô phục sinh luôn hiện diện và nâng đỡ con người trên hành trình đức tin. Không có Chúa chúng ta không thể làm được gì, ngay cả làm chứng cho Người. Tin tưởng vào tình thương và sự trợ giúp hữu hiệu của Chúa, cộng đoàn chúng ta cùng dâng lời cầu xin.
1. Chúa Giêsu nói với thánh Phêrô: “Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô, các Giám mục và các Linh mục là những người được Chúa trao trọng trách chăm sóc đoàn chiên Chúa; xin cho các ngài được hồn an xác mạnh, luôn vững tay lèo lái con thuyền Hội Thánh giữa những phong ba thử thách.
2. “Chúng tôi là nhân chứng các lời đó cùng với Thánh Thần.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo tại nhiều nơi trên thế giới đang gặp khó khăn và bách hại; xin Chúa luôn nâng đỡ các nhà truyền giáo để họ thêm tin tưởng và trung thành trong sứ vụ, không ngừng trở nên công cụ tích cực và hữu hiệu của Chúa Thánh Thần.
3. Các Tông Ðồ ngày xưa đã hân hoan vì thấy mình xứng đáng chịu sỉ nhục vì Danh Ðức Giêsu. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các Kitô hữu đang gặp khó khăn thử thách trong đời sống đức tin; xin cho họ tìm được nguồn an ủi nơi Chúa Kitô phục sinh, luôn giữ vững đức tin, và biết sẵn lòng đón nhận mọi khổ cực vì Danh Chúa.
4. Thánh Phêrô thưa với Chúa: “Thưa Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho mỗi người trong cộng đoàn chúng ta ngày càng thêm lòng yêu mến Chúa, biết tuyên xưng và sống niềm tin vào Đấng Phục Sinh qua thái độ khiêm tốn yêu thương và chân thành phục vụ đối với mọi người chung quanh.
Chủ tế: Lạy Chúa Kitô, Đấng Phục Sinh vinh hiển, Chúa biết rõ chúng con yếu đuối và tội lỗi. Xin Chúa thương nhận lời chúng con cầu nguyện và ban ơn nâng đỡ, giúp chúng con luôn hăng hái và can đảm làm chứng cho Chúa giữa thế giới hôm nay. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.


SCĐ CHÚA NHỰT III PHỤC SINH  C

“Khi trời đã sáng, Chúa Giêsu đứng trên bãi biển”
(Ga 21,7)
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện Chúa Giêsu phục sinh hiện ra với các môn đệ trên Biển Hồ. Chúa chỉ cho các môn đệ bắt được nhiều cá, Chúa còn nướng cá và bánh cho các ông ăn. Khung cảnh thật ấm cúng.
Khung cảnh Thánh lễ cũng ấm cúng như vậy : chúng ta đang ngồi quanh bàn tiệc của Chúa. Chính Chúa dọn tiệc cho chúng ta và đang ở giữa chúng ta.
Xin cho bữa tiệc thánh này giúp chúng ta tin Chúa vững vàng hơn và yêu mến Ngài nồng nàn hơn.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
– Rất nhiều lần chúng ta dự Thánh lễ mà không ý thức sự hiện diện thân mật gần gũi của Chúa.
– Rất nhiều lần chúng ta rước lễ mà không ý thức mình đang hưởng dùng lương thực do chính Chúa dọn cho chúng ta.
– Rất nhiều lần chúng ta họp nhau trong Thánh lễ mà không chút tâm tình liên kết với những anh chị em cùng dự tiệc thánh với mình.
III. LỜI CHÚA
  1. Bài đọc I(Cv 5,27b-32.40b-41)
Trích đoạn này từ sách Công vụ nhấn mạnh đến Danh Chúa Giêsu phục sinh :
– Vì rao giảng Danh Chúa Giêsu nên các tông đồ bị Thượng Hội Đồng do thái bắt.
– Dù vậy, ngay giữa Thượng Hội Đồng, các ông lại rao giảng Danh Chúa Giêsu.
– Sau khi được thả ra, các ông sung sướng vì đã có dịp chịu khổ vì Danh Chúa Giêsu, và tiếp tục rao giảng Danh Ngài.
2.                  Tin Mừng(Ga 21,1-9)
Phần cuối của Tin Mừng Gioan (có lẽ không do Gioan viết, mà do các đồ đệ của Gioan), tường thuật cuộc hiện ra cho các tông đồ trên biển hồ Tibêria :
– Theo gợi ý của Phêrô, người số tông đồ khác trở lại nghề cũ là đi đánh cá.
– Khi đó xảy ra lại một tình huống giống y lần đầu tiên Phêrô gặp Chúa Giêsu và được Ngài gọi : các ông không đánh được cá, nhưng nhờ Chúa Giêsu nên sau đó đánh được rất nhiều cá (x. Lc 5,4-11)
– Các tông đồ nhận ra Chúa Giêsu : đầu tiên là Gioan, kế đến là các ông khác.
– Bữa ăn thân mật bên bờ hồ sau khi Thầy trò nhận ra nhau.
3.                  Bài đọc II(Kh 5,11-14)
Trong một thị kiến, Thánh Gioan nhìn thấy Chúa Giêsu trong hình dáng của Con Chiên :
– Con Chiên đã bị giết, nhưng đã sống lại và xứng đáng được hưởng mọi quyền lực và vinh quang.
– Tất cả các thụ tạo trên trời, dưới đất, trong lòng đất và ngoài biển khơi đều tôn thờ và tung hô Con Chiên.
IV. GỢI Ý GIẢNG
  1. Sức khám phá của tình yêu
Một giọt nước nếu nhìn bằng mắt thường thì cũng chỉ là một giọt nước, nhưng nếu nhìn bằng kính hiển vi thì lại là cả một thế giới sống động. Một cái hồ nếu được nhìn bởi một người nông dân thì cũng chỉ là một cái hồ, nhưng dưới mắt của một nghệ sĩ thì lại là cả một cảnh đẹp thiên nhiên tuyệt vời không thể nào tả xiết.
Như thế nghĩa là gì ? Nghĩa là cùng một sự việc nhưng có thể mang nhiều ý nghĩa khác nhau tùy những cách nhìn khác nhau. Sự việc đã xảy ra trên hồ Tibêria cũng thế : lúc ấy trời còn tờ mờ tối, Chúa Giêsu phục sinh hiện đến với các tông đồ đang lúc các ông thả lưới đánh cá. Các ông tưởng là ma nên run sợ và định chạy trốn. Riêng có Gioan là nhận ngay ra ấy là Thầy. Do đâu mà Gioan đã nhận định sắc sảo được như thế ? Thưa vì Gioan là tông đồ yêu mến Chúa nhiều nhất. Chính Tình yêu đã mở mắt cho Gioan và giúp Gioan thấy được cái mà người khác không thấy. Người ta nói rằng Tình yêu là một năng lực diệu kỳ, làm cho người ta mạnh thêm, có thêm nhiều nghị lực để vượt qua những chướng ngại, chịu đựng những hy sinh và cuộc sống thêm lạc quan.
Điều này thật ra rất bình thường chẳng có gì khó hiểu. Chúng ta thử điểm lại một số kinh nghiệm trong cuộc sống của mình xem. Tại sao khi yêu, người ta thích tặng quà cho nhau ? thích chở nhau đi chơi ? thích lặn lội mưa nắng đến tìm nhau ? Nếu không yêu thì đem số tiền dành dụm để mua một món đồ đưa cho người khác thì quả là dại ! Nếu không yêu thì gò lưng đạp xe chở người ta đi chơi thì quả là ngu ! Nếu không yêu mà lặn lội mưa nắng đi tìm người ta thì quả là khờ ! Phải không ? Nhưng khi đã yêu thì tất cả đều đổi khác : Tặng quà là một niềm vui, được chở người ta là một sự sung sướng, lặn lội mưa nắng tìm đến nhau là bằng chứng của cả một tấm lòng thiết tha ! Cho nên Thánh Augustinô đã nói rất đúng : “Ubi amatur, non laboratur” : khi đã yêu thì không còn biết cực nhọc.
Đối với Chúa cũng thế. Nếu ta không yêu mến Chúa hay yêu mến quá ít thì cầu nguyện là việc chán ngán, đến nhà thờ là một gánh nặng, vác thánh giá là một cực hình. Còn nếu ta yêu Chúa nhiều thì đương nhiên ta thích cầu nguyện, thì đương nhiên ta ham đến nhà thờ, đương nhiên ta sẵn sàng vác những thánh giá hy sinh Chúa gởi đến hàng ngày. Cho nên muốn sống đạo tốt thì cần thiết phải có lòng yêu mến chúa. Yêu mến Chúa nhiều thì hăng say sống đạo tích cực, yêu mến Chúa ít thì ít hăng hái tích cực hơn, và nếu không yêu mến Chúa thì đạo trở thành gánh nặng, làm những bổn phận trong đạo không khác nào con trâu kéo cày.
2.                  Thủ lãnh giáo hội
Câu chuyện truyền kỳ về những ngày sau cùng của một con người đã hết lòng yêu mến Chúa, và đã cảm nghiệm sâu xa ơn thứ tha của Người, được kể lại như sau :
Ông đến Rôma giữa lúc Nêrông đang bắt bớ đạo thánh. Một số người đã chịu tử đạo. Tình thế nguy kịch, nên các tín hữu khuyên ông hãy chạy trốn ra khỏi thành, để còn người duy trì và giữ vững đạo thánh.
Khi ra khỏi cổng, ông gặp một người đang vác thập giá đi vào thành Rôma. Ông lên tiếng hỏi : “Quo vadis ?” nghĩa là “Người đi đâu đó ?” Người ấy trả lời : “Thầy đi vào Rôma để cho người ta đóng đinh một lần nữa”. Ông chợt hiểu, vội vàng quay lại Rôma. Ông nhập vào hàng ngũ các tín hữu sắp chịu cực hình để an ủi họ và giúp họ giữ vững niềm tin. Sau khi chứng kiến các tín hữu bị làm mồi cho thú dữ ăn thịt, bị hoả thiêu trên một rừng thập giá, thì chính ông cũng bị đóng đinh ngược, đầu quay xuống đất, theo lời ông xin, vì nghĩ mình không xứng đáng được đóng đinh như Thầy.
Con người ấy chính là Phêrô, và cái chết ấy đã được Chúa Giêsu tiên báo trong bài Tin Mừng hôm nay : “Thầy bảo thật cho anh biết : lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải giương tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn. Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa” (Ga 21,18-19).
Vâng, Phêrô một con người rất bộc trực, nóng nảy, hay sa ngã và sa ngã thậm tệ. Có lần Chúa đã gọi ông là Satan, và mới đây nhất, ông đã chối Chúa tới ba lần. Nhưng con người đầy khuyết điểm ấy Chúa đã chọn làm “Đá tảng”, thủ lãnh của Giáo Hội. Vai trò lãnh đạo của Phêrô được tỏ rõ trong bài Tin Mừng hôm nay :
Sau biến cố Phục Sinh, các tông đồ trở về đời sống thuyền chài. Phêrô vẫn là người quyết định : “Tôi đi đánh cá đây”. Các môn đệ khác cũng đồng tình : “Chúng tôi cùng đi với anh”. Đêm ấy, không bắt được con cá nào. Trời sáng, theo lời người khách lạ, thả lưới bên phải mạn thuyền, một mẻ cá bất ngờ. Khi vừa nghe Gioan nói : “Chúa đó !” Phêrô liền nhảy xuống biển, đến với Người. Ông rất nồng nhiệt, năng nổ, hăng hái.
Sau khi Thầy trò đã ăn điểm tâm xong, Người bắt đầu phỏng vấn thủ lãnh Phêrô để trao cho ông sứ vụ mới : “Này anh Simon, con ông Giona, anh có mến Thầy hơn các anh em nầy không ?”. Thật tình, ông rất ngượng ngùng vì ông mới chối Thầy tới ba lần, mà giờ đây Người lại hỏi ông có yêu mến Thầy không ? Mới phản bội mà giờ lại nói yêu thương, quả là rất khó khăn ; hơn nữa, Người lại hỏi tới ba lần ! Có lẽ Phêrô đang nhớ lại lời Chúa nói trước đây : “Kẻ nào được tha nhiều thì sẽ yêu nhiều hơn” (x. Lc 7,47). Vâng, Chúa đã tha thứ cho Phêrô ngay lúc Người quay xuống nhìn Ông từ trên dinh thượng tế, khiến nước mắt ông tuôn trào.
Ba lần chối Chúa thì ba lần Người cho ông cơ hội để nói lời yêu thương, để tuyên xưng lại niềm tin. Ông đã không bỏ lỡ cơ hội : “Thưa Thầy có, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Và cũng ba lần, Người trao cho ông sứ mạng cai quản Hội thánh của Người : “Hãy chăn dắt chiên của Thầy” (Ga 21,17).
Từ đấy, Phêrô đích thực trở nên thủ lãnh của Giáo hội, chăm sóc đoàn chiên của Thầy, và cuối cùng đã hiến mạng sống vì đoàn chiên. Phêrô đã chịu đóng đinh trên thập giá, để giữ vững niềm tin cho đoàn chiên, và để yêu thương đoàn chiên cho đến cùng, yêu “Như Thầy Đã Yêu”.
*
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã tha thứ cho thánh Phêrô thật nhiều, và thánh nhân cũng đã yêu mến Người thiết tha.
Xin cho chúng con luôn cảm nghiệm được ơn tha thứ của Chúa, cảm nghiệm được tình Chúa yêu thương, để như thánh Phêrô, chúng con sẽ đi bất cứ nơi nào Chúa muốn đưa chúng con đi, cho dù nơi đó là thập giá, là cái chết thương đau.
Như thánh Phêrô, xin cho chúng con xác tín rằng : Hiến thân vì Chúa là lãnh nhận, nô lệ cho Chúa là tự do, và chết với Chúa là sống mãi muôn đời Amen. (TP)
3.                  Tình yêu và lý luận
Bài Tin Mừng tuần trước thuật lại cách mà Tôma đã nhận ra Chúa Giêsu phục sinh : Tôma đã tuyên bố “nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở bàn tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin”. Đây là kiểu tin bằng lý luận, nghĩa là chỉ tin khi nào đã có đủ bằng cứng rõ ràng hiển nhiên. Còn bài Tin Mừng tuần này thuật lại cách mà Gioan đã nhận ra Chúa : một bóng người mờ mờ đi trên mặt biển, mọi người khác đều tưởng là ma, chỉ có Gioan là tức khắc nhận ra đó là Thầy mình. và Tin Mừng ghi chú “Gioan là người môn đệ Chúa yêu”. Chính Tình Yêu đã mở mắt cho Gioan nhận ra điều mà mọi người khác không nhận ra.
Như thế có hai con đường dẫn tới đức tin : Con đường thứ nhất là bằng lý luận để chỉ tin sau khi có đủ bằng chứng rõ ràng hiển nhiên ; và con đường thứ hai là bằng tình yêu, nghĩa là vì yêu thương nên tin ngay không cần thắc mắc lý luận.
Trong vở tuồng “Tiếng hò Sông Hậu” có hai anh em sinh đôi tên Chơn và Chất, giống hệt nhau từ nét mặt, tướng đi đến giọng nói. Trong một cuộc tranh đấu với địa chủ, Chơn bị bắt đày đi Côn Đảo. Nhưng một thời gian sau anh vượt ngục trở về thăm mẹ già khi ấy đã mù lòa cả hai mắt. Trong lúc Chơn đang ở nhà thì tên Hương Quản đến, Chơn nhanh trí giả làm Chất nên không bị lộ, nhưng ngay sau khi tên Hương Quản đi thì bà mẹ mù lòa ấy nói ngay : “Phải mày là thằng Chơn đó không ?” Chơn chưa muốn cho mẹ biết nên trả lời “Không, con là thằng Chất đây mà, anh Chơn con còn đang ngồi tù mà”. Nhưng bà mẹ nói “thôi mà, con gạt ai được chứ gạt mẹ làm sao được, con chính là thằng Chơn của mẹ mà”. Chính tình yêu đã giúp cho người mẹ mù lòa ấy nhận ra con mình trong khi mọi người đều không nhận ra. Trường hợp của Thánh Gioan cũng vậy : trong khi mọi người đều không nhận ra Chúa Giê-su thì chỉ mình Gioan đã nhận ra, vì Gioan yêu thương Chúa nhiều.
Có lẽ vì thường nghe những luận điệu bôi bác niềm tin tôn giáo cho nên chúng ta bị ảnh hưởng và cũng nghĩ rằng chỉ có con đường nhận thức bằng lý luận, với những bằng chứng rõ ràng hiển nhiên là con đường độc nhất đúng. Nhưng chúng ta hãy bình tĩnh suy nghĩ lại xem, trong cuộc sống có bao nhiêu điều chúng ta tin tưởng mà đủ bằng chứng rõ ràng hiển nhiên đâu ? Rất ít, hầu hết những điều ta tin tưởng là do người khác dạy lại, nói lại cho ta biết, và vì yêu thương những người đó mà ta tin. Chẳng hạn những gì cha mẹ dạy ta khi ta còn nhỏ, những gì thầy cô dạy ta khi ta còn học ở trường. Vốn liếng kiến thức của chúng ta hầu hết là từ hai nguồn đó. Nhưng xét xem những điều ấy ta có được thấy tận mắt, sờ tận tay hay không, hay là khi được dạy thì ta tin ngay, vì ta yêu thương cha mẹ, yêu thương thầy cô mà tin vào lời nói của các đấng ấy. Cho nên xét cho cùng, chỉ trích những người có đạo đã tin không có đủ bằng chứng mà chỉ vì yêu thương mà tin thì là lời chỉ trích không đứng vững. Tác giả vở tuồng “Tiếng hò Sông Hậu” nói trên cũng đâu phải là người có đạo, thế mà tác giả đã đề cao cách nhận thức rất cảm động của một người mẹ nhận ngay ra con mình nhờ vào tình mẫu tử thiêng liêng. Nghĩa là : ai cũng vậy, dù có đạo hay không có đạo, ai cũng có những nhận thức, những niềm tin không hẳn dựa vào những lý luận hiển nhiên mà chỉ dựa vào tình yêu.
Mà xem ra con đường tình yêu lại nhanh chóng hơn, nhẹ nhàng hơn, thoải mái hơn. Khi các Tông đồ nói cho Tôma hay là Chúa Giê-su đã sống lại, Tôma đã không tin ngay, ông đòi phải thấy tận mắt, sờ tận tay, thậm chí còn đòi thọc cả bàn tay vào vết thương cạnh sườn Chúa. và rồi đang khi các Tông đồ kia vui mừng vì Thầy đã sống lại thì Tôma vẫn còn hoài nghi, ray rứt. Đến 8 ngày sau khi Chúa Giê-su hiện đến một lần nữa thì Tôma mới tin và mới được vui mừng như các ông kia. Còn đối với Gioan, vì yêu Chúa nhiều, nên chỉ vừa thấy bóng dáng lờ mờ của Chúa là Gioan đã nhận ra ngay và đã tin, một niềm tin rất nhanh chóng, rất nhẹ nhàng mà cũng không kém phần vững chắc.
Các bạn trẻ còn ở lứa tuổi hay thắc mắc về đức tin và cũng dễ bị lung lạc bởi những luận điệu bài bác đức tin. Hôm nay, chúng ta đã thấy có hai con đường dẫn tới đức tin, một con đường bằng lý luận với những bằng chứng rõ ràng, và con đường thứ hai là dựa vào tình yêu thoạt xem có vẻ tầm thường nhưng thực ra lại nhanh chóng, nhẹ nhàng và cũng không kém phần vững chắc. Chúng ta hãy cũng cố đức tin của mình bằng cả hai con đường đó. Nghĩa là một mặt chúng ta phải có những suy nghĩ lý luận thật vững chắc về Chúa, mặt khác chúng ta cũng hãy cố gắng yêu mến Chúa ngày càng nhiều hơn, bởi vì nếu có thêm sức mạnh của tình yêu, chúng ta sẽ được mở mắt rộng thêm để nhận biết thêm được những gì mà người không yêu Chúa không nhận biết được, như thánh Gioan trong bài Tin Mừng hôm nay vậy !

4.                  Sự hiện diện của Đấng phục sinh
Các bài tường thuật về việc Chúa Giêsu phục sinh hiện ra muốn giúp cho chúng ta hiểu biết về cách thức hiện diện của Ngài :
– Chúa đã hiện ra lúc các môn đệ đang làm công việc thường ngày là chài lưới à Người không ở đâu xa nhưng vẫn hiện diện bên cạnh chúng ta và trong những công việc bình thường của chúng ta.
– Người đầu tiên nhận ra Chúa Giêsu là Gioan, vị tông đồ yêu mến Chúa đặc biệt à Tuy Chúa Giêsu luôn hiện diện bên cạnh chúng ta, nhưng thường thì chúng ta không nhận ra Ngài. Muốn nhận ra Ngài thì cần có lòng yêu mến, như Thánh Gioan tông đồ.
– Chúa Giêsu đã nướng cá và bánh cho các môn đệ và sau đó cùng ngồi với họ quanh bếp lửa hồng để ăn bánh và cá nướng à Chúa Giêsu phục sinh không chỉ hiện diện bên cạnh chúng ta, mà còn chăm sóc chúng ta.
– Mặc dù Thánh Phêrô đã 3 lần chối Chúa, nhưng Chúa tha thứ cho ông và vẫn trao cho ông nhiệm vụ chăm sóc đàn chiên của Ngài à Chúa hiện diện bên cạnh chúng ta không phải để bắt lỗi chúng ta, mà để trao cho chúng ta sứ mạng làm chứng về Ngài.
5.                  Đừng xóa sổ người ta
Một nhà độc tài kia không chấp nhận thuộc cấp của mình phạm sai lầm. Hễ lỡ phạm sai lầm, dù chỉ một lần, thì lập tức bị “xóa sổ”. Đôi khi chúng ta cũng cư xử như thế, nghĩa là xoá sổ người khác. Thế nhưng ai trong chúng ta lại muốn bị phán xét chỉ vì một lần lầm lỡ trong đời ?
Sau khi Phêrô chối Thầy, lẽ ra Chúa Giêsu có thể xóa sổ ông vì tội yếu đuối, hèn nhát. Nhưng Ngài đã không làm như vậy. Ngài không giáng cấp ông. Thậm chí Ngài còn không nhắc lại lỗi lầm của ông. Việc Giuđa phản Thầy là một việc có dự mưu và được thi hành một cách lạnh lùng theo đúng tính toán. Còn việc Phêrô chối Thầy không phải là có dự mưu. Nó là hậu quả của tính yếu đuối chứ không phải do tính xấu. Chúa Giêsu hiểu điều đó, bởi Ngài là kẻ thấu suốt lòng mọi người.
Sau bữa ăn sáng, Chúa Giêsu quay nhìn Phêrô và hỏi : “Phêrô, con có mến Thầy hơn những người khác không ?” Một câu hỏi lạ. Phải chăng Ngài còn chưa biết rằng ông rất yêu mến Ngài ? Dù vậy Chúa Giêsu vẫn hỏi. Và Phêrô thưa : “Thưa Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Phêrô đã nói thật, vì thực sự ông rất yêu mến Chúa Giêsu.
Mặc dù Phêrô có lỗi, nhưng Chúa Giêsu biết nơi ông cũng còn một phương diện khác, tốt hơn. Mạnh mẽ và yếu đuối cùng tồn tại trong cùng một con người. Chúa Giêsu khuyến khích Phêrô tiến lên. Ngài muốn ông bày tỏ công khai lòng yêu mến của ông đối với Ngài, bởi vì trước đó ông đã công khai chối Ngài.
Chúa Giêsu không ghi sổ tội của Phêrô, nhưng Ngài muốn ông làm một cái gì đó vì Ngài : chăm sóc đàn chiên của Ngài, nghĩa là yêu thương và phục vụ anh chị em trong cộng đoàn. Có thể coi đây là việc đền tội cũng được, vì đây là cách đền tội tốt nhất, như sau này Phêrô viết : “Tình yêu che phủ muôn vàn tội lỗi” (1 Pr 4,8).
Tôi dám chắc rằng Phêrô không bao giờ quên tội ông đã chối Thầy. Nhưng tôi không chắc rằng tội đó ám ảnh ông như cách nhiều người khác bị tội lỗi họ ám ảnh. Từ lần sa ngã ấy Phêrô đã học được một bài học lớn. Ông đã biết rằng ông không mạnh mẽ như ông nghĩ. Học được một điều gì từ kinh nghiệm thì tốt hơn rất nhiều so với học bằng lý thuyết. Điều chúng ta học được từ một lần sa ngã, mỗi khi nhớ lại sẽ khơi lên trong lòng chúng ta sự biết ơn hơn là sự dằn vật cắn rứt.
Phêrô còn học biết một sự thật tuyệt vời về Chúa Giêsu. Ông học được rằng mặc dù ông đã chối Ngài nhưng Ngài vẫn yêu thương ông. Chính tình thương của Ngài đã mang ông trở về cuộc sống. Cái cảm nghiệm được yêu thương trong chính sự yếu đuối và tội lỗi của mình đúng là một cảm nghiệm sửng sốt. Được yêu trong cái tốt của mình thì là chuyện bình thường. Được yêu ngay trong cái xấu của mình, đó mới là sửng sốt. Chính đó là ân sủng.
Phêrô có cơ sở để đứng dậy sau khi sa ngã. Chúng ta có thể hình dung rằng Phêrô trở thành một người lãnh đạo tốt. Người lãnh đạo tốt là người biết tự cảnh giác về sự yếu đuối của mình. Kinh nghiệm sa ngã đã giúp Phêrô thoát khỏi tính tự phụ và tin tưởng mù quáng vào khả năng của mình, đồng thời giúp ông thông cảm với yếu đuối của người khác. Đọc sách Công vụ Tông đồ, chúng ta thấy Phêrô đứng vững trước Thượng Hội Đồng để làm chứng cho Chúa Giêsu.
Chuyện của Phêrô là một an ủi lớn cho chúng ta. Xét cho cùng, chúng ta đều là những người tội lỗi, không kiên trì sống theo những điều chúng ta tin tưởng. Nhìn gương thánh Phêrô, chúng ta phải học biết tha thứ cho chính mình vì những yếu đuối và sa ngã nhất thời. Chúng ta không nên xét đoán bản thân mình hay xét đoán người khác dựa trên những sa ngã nhất thời ấy, mà phải xét đoán dựa trên cam kết sống suốt đời theo những điều mình tin tưởng. (FM)
6.                  Ơn gọi thứ hai
Ngày xưa có một người làm nghề đốt lửa. Một buổi chiều mùa đông khi anh đang trên đường về nhà thì trời đổ tuyết. Muốn tới nhà sớm, anh đi tắt qua một cánh đồng. Bỗng anh thấy một nhúm lửa, một nhúm lửa nhỏ thôi, chỉ cháy âm ỉ nhờ một vài que củi nhỏ. Quanh nhúm lửa ấy có một nhóm người vừa run lập cập vừa cố đứng sát nhúm lửa ấy để sưởi ấm. Nhưng nào có thấm tháp vào đâu. Anh dừng lại, nói vài lời ngắn ngủi với họ về giá trị của lửa, rồi vội vã đi tiếp.
Nhưng mới đi được một chút thì anh cảm thấy hối hận. Lẽ ra anh phải nán lại lâu hơn để giúp đám người ấy khơi to ngọn lửa. Nhưng mà nếu làm thế thì phải mất thêm giờ, có thể bị viêm phổi nữa. Vả lại chắc gì người ta sẽ biết ơn anh. Những suy nghĩ trái ngược nhau ấy khiến anh chần chừ. Nhưng sau cùng anh quay lại. Vừa thấy anh, mọi người đều vui mừng reo lên : “Tới đây, tới đây”. Không chờ mời lần thứ hai, người thợ đốt lửa ngồi xuống và khơi ngọn lửa to lên. Thế là mọi người đều được sưởi ấm. Ai nấy đều đồng thanh “Xin cám ơn anh đã dừng lại giúp chúng tôi”.
Về đến nhà, người thợ nhóm lửa lên giường ngủ ngay. Đêm đó anh mơ thấy Chúa hiện ra nói : “Ta đã chọn con làm người thợ nhóm lửa, nhưng con đã làm Ta thất vọng”. Anh giật mình thức dậy và không tài nào ngủ tiếp. Anh nhớ lại thời gian đầu làm nghề nhóm lửa anh đã coi việc đem lửa sưởi ấm cho mọi người là một nhiệm vụ cao đẹp thế nào ; khi đó anh đã nhiệt tình giúp đỡ mọi người thế nào. Vậy mà với năm tháng dần trôi, anh trở nên lười biếng, tính toán, sợ mất giờ, sợ người ta không biết ơn anh. Tình yêu của anh đối với lửa đã lạnh nhạt. Ơn gọi của anh đã đông cứng.
Nhưng đêm nay Chúa đã hiện ra với anh. Ngài đã gọi anh lần thứ hai. Từ đó trở đi người thợ nhóm lửa hăng say trong nhiệm vụ, không sợ mất giờ, không ngại cực khổ nữa.
Trong Tin Mừng, có hai lần Chúa gọi Phêrô. Lần thứ nhất là lúc Chúa Giêsu mới bắt đầu sứ vụ (Mc 1,16-18). Lần thứ hai là sau khi Ngài sống lại, và được ghi lại trong bài Tin Mừng hôm nay. Hai lần cách nhau 3 năm. Trong 3 năm ấy, nhiều sự việc đã xảy ra, Phêrô đã khám phá thêm nhiều điều về Đấng đã kêu gọi mình, về nhiệm vụ mà Ngài muốn ông làm, và nhất là về chính bản thân của ông. Khi Chúa gọi Phêrô lần thứ hai, ông đã khôn ngoan hơn và khiêm tốn hơn. Vì thế, tiếng “Vâng” thứ hai của ông chín chắn và sáng suốt hơn nhiều so với tiếng “vâng” lần thứ nhất.
Câu chuyện của Phêrô là chuyện kêu gọi – sa ngã – và kêu gọi lại. Ơn gọi không phải là một lần Chúa gọi, một lần con người đáp trả, rồi xong. Tiếng Chúa gọi phải được ta nghe nhiều lần và đáp trả nhiều lần. Mỗi ngày Chúa mở ra một đoạn đường mời ta tiến bước, ngày hôm sau Chúa mở thêm một đoạn khác nữa. Ta càng bước theo, tiếng gọi của Ngài càng rõ hơn và lời đáp trả của ta càng sâu xa hơn và xác tín hơn.
Mọi ơn gọi đều là ơn gọi yêu thương : yêu thương Chúa, và yêu thương những chiên con chiên mẹ của Ngài, tức là yêu thương các anh chị em trong cộng đoàn của ta. (FM)
7.                  Chịu khổ vì Chúa
Bài trích sách Công vụ kể chuyện các tông đồ gặp sự chống đối của các nhà cầm quyền do thái. Nhưng khi các ông được thả ra, thì uy tín của các ông tăng thêm, đặc biệt là Phêrô. Thật khó mà tin được rằng cùng một con người ấy chỉ trước đó không bao lâu đã từng chối Chúa 3 lần. Bây giờ ông đứng giữa quãng trường mạnh dạn lớn tiếng làm chứng cho Chúa. Hơn nữa ông còn chịu khổ vì đã làm chứng như thế. Phêrô cùng các bạn đã bị nhốt vào tù, bị đánh đòn. Nhưng các ông lại hãnh diện vì đã chịu khổ vì Chúa. Bởi đâu Phêrô có lại sự can đảm như thế ? Thưa bởi Chúa Thánh Thần, Đấng phù trợ các tông đồ.
Từ thời các tông đồ trở đi, vẫn luôn có nhiều kitô hữu, nhờ ơn Chúa giúp, đã vượt thắng sự sợ hãi để luôn can đảm làm chứng cho Chúa dù giữa muôn vàn khó khăn.
Rất dễ tin Chúa khi bạn quỳ gối nhắm mắt cầu nguyện trong nhà thờ. Rất dễ tin Chúa khi bạn sống an toàn xa cách những xáo trộn khó khăn. Nhưng tin Chúa như thế đó là một thứ tín ngưỡng quá nghèo nàn. Chúa mà bạn tin trong những lúc như thế đó là một Thiên Chúa bị giam hãm trong một cái khung chật hẹp.
Chúng ta là môn đệ Chúa Giêsu. Ngài cần chúng ta làm chứng cho Ngài trong thế giới hôm nay. Mặc dù chúng ta không phải chịu nhiều gian truân bắt bớ như các tông đồ xưa, nhưng chúng ta phải can đảm được đầu với những loại khó khăn khác, đó là đương đầu với sự xấu, đương đầu với khuynh hướng thờ ơ tôn giáo của nhiều người thời nay.
Chúng ta không thể biết trước ơn gọi làm kitô hữu sẽ dẫn chúng ta đi đến đâu và sẽ đòi hỏi chúng ta những gì. Nếu chúng ta mà biết trước những nơi đó và những khó khăn đó thì có lẽ chúng ta rất sợ hãi. Về điều này thì chúng ta giống như Phêrô. Lần đầu tiên Chúa gọi ông thì ông chưa biết rốt cuộc ông sẽ chịu tử đạo. Nhưng chúng ta hãy cố gắng sống như Phêrô. Chúa dẫn ta đi đâu thì ta đi đấy. Chúa muốn ta chịu gì thì chúng ta chịu nấy. Và chúng ta tin tưởng rằng những gian truân chúng ta phải chịu vì Chúa sẽ được thưởng gấp trăm. (FM)
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu đã chết và sống lại vinh quang, đem niềm vui cho toàn thế giới. Chúng ta hãy hân hoan ca tụng Người và dâng lời cầu xin :
  1. Đức Thánh Cha (Gioan Phaolô II) kế vị thánh Phêrô / để củng cố niềm tin của Dân Chúa trên khắp hoàn cầu / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa gìn giữ Người luôn được bình an / và ban choi Người được sức khỏe dồi dào.
  2. Vâng lệnh Chúa Giêsu / các tông đồ đã thu được một mẻ cá lạ lùng / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho hoạt động rao giảng Tin mừng của các nhà truyền giáo / cũng đạt được những kết quả như lòng ước mong.
  3. Không có Thầy / anh em không làm gì được / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi tín hữu hiểu rằng / với ơn Chúa trợ giúp / họ sẽ đạt được những kết quả bất ngờ.
  4. Hãy đi theo Thầy / Chúa Giêsu mời gọi thánh Phêrô / nhưng cũng mời gọi hết thảy những ai tin Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / luôn dấn thân theo Chúa / bất chấp mọi hiểm nguy gian khổ trong đời sống thường ngày.
Chủ tế : Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con cũng biết noi gương thánh Phêrô mà xác nhận lòng thương mến của chúng con đối với Chúa, không phải bằng những lời nói suông mà bằng những việc làm cụ thể trong đời sống đức tin thường ngày. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy Cha : Chúa Giêsu đã giao trách nhiệm cho Phêrô chăm sóc đàn chiên của Ngài là Giáo Hội. Giờ đây, chúng ta hãy hợp ý với Đức Giáo Hoàng và các Giám mục cầu nguyện cho Nước Cha trị đến.
– Sau kinh Lạy Cha : Lạy Cha, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin Cha ban thêm cho chúng con lòng can đảm và trung thành dù phải sống giữa những thử thách khó khăn, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an…
VII. Giải tán
Chúa đã tha thứ cho Phêrô và trao cho ông sứ mạng phục vụ anh chị em mình. Chúa cũng đã tha thứ tội lỗi chúng ta và khuyến khích chúng ta phục vụ anh chị em chúng ta.
Anh chị em hãy ghi nhớ và thực hiện Lời Chúa. Chúc anh chị em ra về bình an.
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI

Lectio: Chúa Nhật III Phục Sinh (C)
Chủ Nhật 5 Tháng Năm, 2019
Tình yêu mặc khải sự hiện hữu của Chúa
Lời mời đến bàn tiệc Thánh Thể của Chúa Phục Sinh 
Ga 21: 1-19


1. Lời nguyện mở đầu
Lạy Cha, xin hãy ban Thánh Thần Chúa xuống để cuộc sống vô ích tăm tối của chúng con có thể được biến đổi thành bình minh rạng rỡ, để cho chúng con có thể nhận biết được Chúa Giêsu, con Cha, đang hiện diện ở giữa chúng con.  Xin Thần Khí Chúa hãy thổi hơi vào những vùng biển của chúng con, như Người đã làm lúc tạo dựng trời đất, để mở lòng trí chúng con hầu chúng con có thể đáp lại lời mời gọi tình yêu của Chúa và để chúng con có thể chung phần trong bữa tiệc Thánh Thể và Lời Chúa.  Lạy Cha, nguyện xin Chúa Thánh Thần hãy đốt cháy lửa yêu mến trong lòng chúng con, để chúng con có thể trở thành những nhân chứng cho Chúa Giêsu, như các ông Phêrô, Gioan, và các môn đệ khác, và để chúng con cũng có thể ra đi mỗi ngày mà trở thành những người chài lưới cho vương quốc của Chúa.  Amen.

8.                  Lời của Chúa

a)  Bài trích Tin Mừng của Chúa:
Khi ấy, lúc các môn đệ đang ở bờ biển Tibêria, Chúa Giêsu lại hiện đến, và công việc đã xảy ra như sau: Simon Phêrô, Tôma cũng gọi là Điđymô, Nátha-na-en quê tại Cana xứ Galilêa, các con ông Giêbêđê và hai môn đệ nữa đang ở với nhau. 3Simon Phêrô bảo:  “
Tôi đi đánh cá đây”.  Các ông khác nói rằng:  “Chúng tôi cùng đi với ông”.  Mọi người ra đi xuống thuyền.  Nhưng đêm ấy, các ông không bắt được con cá nào. Lúc rạng đông, Chúa Giêsu hiện đến trên bờ, nhưng các môn đệ không biết là Chúa Giêsu. Người liền hỏi: “Này các con, có gì ăn không?” Và họ đồng thanh đáp:  “Thưa không”. Chúa Giêsu bảo:  “Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được”.  Các ông liền thả lưới và hầu không kéo nổi lưới lên, vì đầy cá. 7Người môn đệ Chúa Giêsu yêu liền nói với Phêrô:  ‘Chính Chúa đó”.  Simon Phêrô nghe nói là Chúa, liền khoác áo vào, vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. Các môn đệ khác chèo thuyền vào và kéo đầy cá theo, vì không còn xa đất bao nhiêu; chỉ độ chừng một trăm thước.
Ngay khi các ông lên bờ, thấy có sẵn lửa than, trên để cá và bánh. 10 Chúa Giêsu bảo:  “Các con hãy mang cá mới bắt được lại đây”. 11 Simon Phêrô xuống thuyền kéo lưới lên bờ.  Lưới đầy toàn cá lớn; tất cả được một trăm năm mươi ba con.  Dầu cá nhiều đến thế, nhưng lưới không rách. 12 Chúa Giêsu bảo rằng:  “Các con hãy lại ăn”.  Không ai trong đám ngồi ăn dám hỏi:  “Ông là ai?” Vì mọi người đã biết là Chúa. 13 Chúa Giêsu lại gần, lấy bánh trao cho các môn đệ, và Người cũng cho cá như thế. 14 Đây là lần thứ ba, Chúa Giêsu đã hiện ra với các môn đệ khi Người từ cõi chết sống lại.
15 Vậy khi các ông đã điểm tâm xong, Chúa Giêsu hỏi Simon Phêrô rằng:  “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những người này không?”  Ông đáp:  “Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy.”  Chúa Giêsu bảo ông:  “Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy.” 16 Người lại hỏi ông lần thứ hai:  “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?”  Ông đáp:  “Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy.”  Người bảo ông:  “Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy.” 17 Rồi Người hỏi ông lần thứ ba:  “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?”  Phêrô buồn phiền, vì thấy Thầy hỏi lần thứ ba:  “Con có yêu mến Thầy không?”  Ông đáp:  “Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự:  Thầy biết con yêu mến Thầy.”  Người bảo ông:  “Con hãy chăn dắt các chiên mẹ của Thầy. 18 Thật, Thầy bảo thật cho con biết:  khi con còn trẻ, con tự thắt lưng lấy và đi đâu mặc ý, nhưng khi con già, con sẽ giang tay ra, người khác sẽ thắt lưng cho con và dẫn con đến nơi con không muốn đến.” 19 Chúa nói thế có ý ám chỉ Phêrô sẽ chết cách nào để làm sáng danh Thiên Chúa.  Phán những lời ấy, đoạn Người bảo ông:  “Hãy theo Thầy.”

b)  Bối cảnh của bài Tin Mừng
Sau khi đọc qua bài Tin Mừng này lần đầu, bấy giờ tôi cảm thấy phải cần hiểu rõ hơn về bối cảnh của nó.  Tôi cầm quyển Kinh Thánh lên và không để cho các cảm tưởng nông cạn đầu tiên chi phối tôi.  Tôi cố gắng tra cứu và lắng nghe.  Tôi mở sách Phúc Âm của thánh Gioan, chương 21, ngay vào phần cuối của quyển Tin Mừng.  Sự kết thúc của bất cứ điều gì thường có chứa tất cả những gì đã xảy ra trước đó, tất cả mọi thứ đã được xây lên từng chút một.  Câu chuyện đánh cá ở trên biển Tibêria nhắc nhở tôi một cách mạnh mẽ và rõ ràng về đoạn đầu của quyển Phúc Âm nơi Chúa Giêsu thu nhận các môn đệ đầu tiên, cũng là những người đang hiện diện với Người bây giờ:  Phêrô, Giacôbê, Gioan, và Nát-tha-na-en!  Bữa điểm tâm với Chúa Giêsu, có bánh và cá, nhắc nhớ tôi chương 6 nơi việc hóa bánh và cá ra nhiều đã xảy ra, sự mặc khải của Bánh Hằng Sống.  Cuộc truyện trò thân mật và gần gũi giữa Chúa Giêsu và Phêrô, với câu hỏi của Người được lặp lại ba lần:  “Con có yêu mến Thầy không?” nhắc nhớ lần nữa đến việc trong đêm trước ngày Chúa bị hành hình Phêrô đã chối Chúa ba lần.
Tiếp theo, nếu tôi lật trở lại chỉ ít trang của quyển Phúc Âm, tôi sẽ tìm thấy đoạn Tin Mừng tuyệt vời nói về việc Phục Sinh:  khi trời chưa sáng, bà Mađalêna và những phụ nữ khác hấp tấp chạy ra mộ, để khám phá ra việc ngôi mộ trống, rồi việc ông Phêrô và Gioan chạy vội vã ra mộ, việc các ông nhìn vào trong mộ, việc suy niệm và đức tin của các ông; tôi vẫn có thể trông thấy mười một người môn đệ trốn ở đằng sau các cánh cửa đóng kín trong Nhà Tiệc Ly và rồi Chúa Giêsu Phục Sinh hiện đến, món quà của Chúa Thánh Thần; việc vắng mặt và sự thiếu lòng tin của ông Tôma, một đức tin đã được khôi phục lại với sự hiện ra lần thứ hai của Chúa Giêsu; tôi nghe thấy lời công bố tuyệt vời của các mối phúc thật mà còn ứng dụng cho tất cả chúng ta đến ngày hôm nay, đó là phúc cho những ai không thấy mà tin.
Sau đó, tôi cũng đi đến vùng biển đó, vào một đêm mà không bắt được một con cá nào, tay không.  Nhưng đây này, giờ đây tôi được viếng thăm, được chấp nhận với sự biểu hiện, sự mặc khải của Chúa Giêsu.  Tôi cũng đang ở đó, lúc ấy, nhận ra Người, nhảy ùm xuống biển và bơi về phía Người để chung phần tham dự bữa tiệc.  Tôi để Chúa nhìn sâu thẳm vào tâm hồn tôi với những câu hỏi của Người, Lời của Chúa, để rồi một lần nữa Người có thể sẽ lặp lại với tôi câu nói:  “Hãy theo Ta!”, và tôi, cuối cùng cũng sẽ nói:  “Này con đây!” một cách trọn vẹn hơn, chân thật hơn, mạnh dạn hơn và vĩnh viễn.

c)  Phân đoạnbài Tin Mừng: 
Câu 1:  Với động từ “hiện đến”, ngay lập tức thánh Gioan thu hút sự chú ý của chúng ta đến một sự việc lớn sắp diễn ra.  Sức mạnh sự Phục Sinh của Chúa Giêsu vẫn chưa ngừng xâm chiếm đời sống của các môn đệ và do đó của cả Giáo Hội.  Đây chỉ là vấn đề của công việc chuẩn bị chấp nhận ánh sáng, ơn cứu độ được ban cho bởi Đức Kitô.  Khi Người tự mặc khải như đã ghi trong văn bản này bây giờ, Người cũng sẽ tiếp tục mặc khải mình trong cuộc sống của những kẻ tin vào Người, cũng như trong cuộc sống của chúng ta.
Câu 2-3:  Phêrô và sáu môn đệ khác rời Nhà Tiệc Ly khóa kín và ra biển đánh cá, nhưng sau một đêm làm việc cực nhọc, các ông chẳng bắt được gì.  Đó là cảnh tối tăm, cô đơn, sự bất lực của các cố gắng loài người.
Các câu 4-8:  Cuối cùng bình minh cũng đến, ánh sáng trở lại và Chúa Giêsu xuất hiện đứng trên bờ biển.  Nhưng các môn đệ không nhận ra Người; các ông cần phải tham dự vào một hành trình đi sâu thẳm vào tâm hồn.  Sự khởi xướng bắt đầu từ Chúa Giêsu, Đấng mà qua lời Người, giúp các ông nhận ra được nhu cầu và tình cảnh của các ông:  các ông không có gì để ăn.  Rồi Người bảo các ông hãy thả lưới lần nữa.  Việc vâng Lời Người đã tạo ra phép lạ và các ông đã bắt được đầy cá.  Gioan, người môn đệ Chúa yêu, đã nhận ra được Chúa và hét lớn lên đức tin của ông cho các môn đệ khác.  Phêrô đã tin và lập tức nhảy xuống nước để bơi thật nhanh về hướng của Chúa và Thầy mình.  Trong khi đó, các môn đệ khác kéo thuyền và lưới cá theo sau.
Các câu 9-14:  Quang cảnh trên đất liền bây giờ đã thay đổi, nơi Chúa Giêsu đang đứng chờ các môn đệ.  Ở đây một bữa ăn đã xảy ra:  Bánh của Chúa Giêsu hợp cùng với cá lưới được của các môn đệ, sự sống của Người và quà tặng của Người trở nên một với sự sống và quà tặng của các ông.  Đó là quyền năng của Lời Chúa đã tạo nên xương thịt và sự hiện hữu.
Các câu 15-18:  Giờ đây Chúa Giêsu tâm tình trực tiếp với Phêrô; đó là giờ khắc của tình yêu mãnh liệt mà tự tôi không thể nào tự tách rời được, bởi vì cùng những Lời đó của Chúa cũng đã được viết và lặp lại với tôi, hôm nay.  Đó là lời tuyên bố chung về tình yêu đã được lặp lại ba lần, có khả năng khắc phục được tất cả những lúc bất trung và yếu đuối.  Kể từ bây giờ, một đời sống mới bắt đầu cho Phêrô và cả cho tôi, nếu tôi muốn.
Câu 19:  Câu cuối của bài Phúc Âm quả là khá bất thường bởi vì nó là một lời dẫn giải của Thánh Sử được tiếp ngay theo sau lời phán bảo mạnh mẽ và dứt khoát của Chúa Giêsu với Phêrô:  “”Hãy theo Thầy!” Câu nói mà không có một câu trả lời nào khác hơn là chính bản thân cuộc sống.

3.  Giây phút cầu nguyện trong thinh lặng
Tại đây, tôi xin tạm dừng một chút để gom lại trong tâm hồn tôi những Lời Chúa tôi đã đọc và nghe.  Tôi cố gắng làm như Mẹ Maria đã làm, người đã lắng nghe Lời Chúa và suy gẫm những lời ấy, cân nhắc chúng và để cho Lời Chúa tự nói lên ý nghĩa mà không cần diễn giải, thay đổi hay thêm thắt điều gì.  Trong thinh lặng, tôi tạm dừng một chút ở đoạn Phúc Âm này và ôn lại ở trong lòng.

4.  Một vài câu hỏi gợi ý:
 a)  Mọi người ra đi xuống thuyền” (câu 3).  Tôi đã sẵn sàng xuống thuyền để đi vào cuộc hành trình của hoán cải chưa?  Tôi có sẽ để cho mình được đánh thức bởi lời mời gọi của Chúa Giêsu không?  Hay là tôi sẽ ưa trốn mình sau các cánh cửa khóa kín của tôi vì sợ hãi như các môn đệ trong phòng Tiệc Ly xưa kia?  Tôi có muốn ra đi, để đi theo Chúa Giêsu, và để cho Người hướng dẫn tôi không?  Có một chiếc thuyền đã sẵn sàng chờ tôi, có một ơn gọi tình yêu được Chúa Giêsu trao cho tôi; đến bao giờ thì tôi sẽ có một quyết định dứt khoát cho câu trả lời thật sự?
b)  “Nhưng đêm ấy, các ông không bắt được con cá nào” (cùng câu 3).  Tôi có đủ can đảm để nghe Chúa nói với tôi rằng có sự trống vắng trong lòng tôi, rằng đó là đêm tối, rằng tôi chỉ có hai bàn tay trắng không?  Tôi có đủ can đảm để thừa nhận rằng tôi cần đến Người, đến sự hiện diện của Người không?  Tôi có muốn mở lòng mình ra với Người, từ tận thâm tâm tôi, rằng tôi không ngừng cố gắng từ chối, để trốn chạy không?  Người biết tất cả mọi sự, Người biết cả những sâu kín trong lòng tôi; Người biết rằng tôi không có gì để ăn, nhưng phải chính tôi là người nhận biết được điều này, để sau cùng tôi phải chạy đến cùng Người với hai bàn tay không, thậm chí phải thổn thức, với một tâm hồn tràn ngập buồn rầu và đau khổ.  Nếu tôi không dùng phương cách này, sự sáng đích thực, bình minh của đời tôi sẽ không bao giờ ló dạng.
c)  “Hãy thả lưới bên hữu thuyền” (câu 6).  Chúa cũng nói với tôi một cách rõ ràng trong nhiều lúc, nhờ một người nào đó hoặc một lời cầu nguyện chung hoặc lúc lời Chúa được đọc lên, là khi tôi hiểu một cách cặn kẽ tôi phải làm những gì.  Lời Chúa dạy rất rõ ràng; tôi chỉ cần phải lắng nghe và tuân phục.  “Hãy thả lưới bên hữu thuyền”, Chúa bảo tôi như vậy.  Rồi cuối cùng liệu tôi có đủ can đảm để tin tưởng vào Người, hay là tôi chỉ muốn tiếp tục đi trên con đường tôi đang đi, theo ý mình không?  Tôi có muốn đi thả lưới cho Chúa không?
d)  “Simon Phêrô  … nhảy xuống biển” (câu 7).  Tôi không chắc rằng có một câu nào đẹp hơn câu Tin Mừng này.  Phêrô nhảy ùm xuống biển, giống như bà góa ở đền thờ đã bỏ vào giỏ tiền tất cả những gì bà có, giống như người bị quỷ ám được chữa lành (Mc 5:6), giống như ông Giairô, giống như người đàn bà bị bệnh hoại huyết, giống như người bị phong cùi, tất cả đều đã thủ phục dưới chân Chúa Giêsu, trao gửi cuộc đời họ nơi Người.  Hoặc giống như Chúa Giêsu, chính Người cũng đã thủ phục dưới đất mà cầu nguyện cùng Đức Chúa Cha (Mc 14:35).  Bây giờ thì đến lượt tôi.  Liệu tôi có muốn dâng đời mình vào trong biển thương xót, của tình yêu Chúa Cha không?  Tôi có muốn quy phục cả cuộc đời tôi cho Chúa, tất cả thân xác tôi, những đau khổ của tôi, những hy vọng, những ước mơ, những lỗi phạm, những khao khát của tôi để bắt đầu lại không?  Cánh tay của Chúa đã sẵn sàng để chào đón tôi, thay vào đó, tôi biết chắc rằng chính Chúa sẽ dang tay ôm choàng lấy tôi, như có lời đã chép rằng … “Trong khi người con còn ở đàng xa, cha nó chợt trông thấy, liền động lòng thương; ông chạy ra ôm choàng lấy cổ nó và hôn nó hồi lâu”.
e)  “Các con hãy mang cá mới bắt được lại đây” (câu 10).  Chúa kêu gọi tôi đóng góp phần thực thẩm của mình với Người, cuộc sống của tôi với Người.  Trong khi Thánh Sử đang nói về cá, nhưng dường như ông lại đang nói về người ta, những người mà Chúa muốn cứu rỗi qua các nỗ lực thả lưới của tôi.  Đó là lý do tại sao Người sai tôi đi.  Tại bàn tiệc của Người, Người kỳ vọng vào tôi, và tất cả các anh chị em là những người vì tình yêu của Chúa, Người đã đặt để trong đời tôi.  Tôi không thể nào đến với Chúa Giêsu một mình.  Sau đó, Ngôi Lời hỏi tôi rằng tôi đã chuẩn bị sẵn sàng để đến cùng Chúa chưa, để ngồi cùng bàn với Người, để cử hành mầu nhiệm Thánh Thể với Người và hỏi tôi đã sẵn sàng để tận hiến cuộc đời mình và năng lực của mình để tôi có thể đem đến cho Người cùng với tôi thật nhiều những anh chị em khác.  Tôi phải xét lại lòng mình một cách chân thành và để thấy sự chối từ, sự lãnh đạm của tôi đối với Người và đối với những người chung quanh.
f)  “Con có yêu mến Thầy không?”  (câu 15) Làm thế nào mà tôi có thể trả lời được câu hỏi này?  Làm thế nào mà tôi có thể xưng tụng được tình yêu của tôi dành cho Thiên Chúa khi mà tất cả những bất trung, những chối từ của tôi đang hiển hiện?  Những gì đã xảy ra với ông Phêrô cũng là một phần câu chuyện của tôi.  Nhưng tôi không muốn nỗi lo sợ này ngăn cản tôi và làm cho tôi thoái lui; không!  Tôi đến với Chúa Giêsu, tôi muốn ở lại cùng Người, tôi muốn lại gần Người và nói với Người rằng tôi yêu Người.  Tôi muốn mượn lời của Phêrô và biến thành lời của tôi, tôi ghi khắc chúng vào trong tâm khảm, tôi lặp đi lặp lại những lời ấy, tôi thổi hơi vào chúng và sự sống trong đời tôi, rồi tôi thu hết mọi can đảm và nói với Chúa Giêsu:  “Lạy Chúa, Chúa biết mọi sự; Chúa biết con yêu mến Chúa”.  Giống như con người tôi, tôi yêu mến Người.  Lạy Chúa, con xin cảm tạ Chúa, vì Chúa đã gọi con để yêu thương và kỳ vọng nơi con, Chúa cần con; xin cảm tạ Chúa vì Chúa vui với tình yêu đơn sơ của con.
g)  Hãy chăn dắt các con chiên của Thầy… Hãy theo Thầy” (các câu 15, 19).  Bài Tin Mừng đã được kết thúc như vậy.  Nó là một kết thúc mở và vẫn còn tiếp tục nói với tôi.  Đây là những Lời mà Chúa giao phó cho tôi để tôi có thể thực hành nó trong cuộc đời tôi kể từ ngày hôm nay.  Tôi muốn nhận lãnh sứ vụ mà Chúa giao phó cho tôi; tôi muốn đáp trả lời mời gọi của Người và theo Người đến bất cứ nơi nào Người dẫn dắt tôi, mỗi ngày và trong mọi việc dù nhỏ bé đến đâu.

5.  Ý chính của bài đọc
 Phêrô là người đầu tiên đưa ra ý kiến và nói với các anh em về quyết định đi đánh cá của mình.  Phêrô ra biển, có nghĩa là, đến với thế gian, ông đã đến với các anh chị em mình vì ông biết rằng ông là ngư phủ đi lưới cá người (Lc 5:10); cũng giống như Chúa Giêsu, Người đã rời khỏi nhà Chúa Cha để đến và dựng lều của Người sống ở giữa chúng ta.  Phêrô cũng là người đầu tiên phản ứng với những lời của ông Gioan là người đã nhận ra Chúa Giêsu trên bờ biển.  Ông liền khoác áo vào và nhảy xuống biển.  Những hành động này với tôi có những sự ám chỉ mạnh mẽ về bí tích rửa tội.  Nó có vẻ giống như ông Phêrô muốn chôn vùi hoàn toàn quá khứ của mình ở trong nước, giống như một người dự tòng bước vào giếng rửa tội.  Phêrô tự dấn thân vào dòng nước thanh tẩy này, ông đã để cho mình được chữa lành: ông tự nhảy xuống nước, mang theo mình những tự cao tự đại, những lỗi lầm, nặng nề của những lần chối Chúa, những giọt nước mắt, để khi trồi lên từ mặt nước thì trở thành một con người mới để gặp gỡ Chúa của ông.  Trước khi nhảy xuống nước, Phêrô đã cột áo ngang lưng, giống như Chúa Giêsu đã làm trước đó, khi Chúa thắt lưng để rửa chân cho các môn đệ của Người tại bữa tiệc ly. Đó là thứ y phục của người tôi tớ, của người quên chính bản thân vì anh chị em mình.  Và đây cũng là thứ y phục để che sự trần truồng của ông.  Đó là loại y phục của Chúa, Đấng đã che chở ông trong tình yêu và sự tha thứ của Người.  Nhờ vào tình yêu này, Phêrô sẽ có thể trổi lên từ mặt nước và bắt đầu lại lần nữa.  Trong một đoạn Tin Mừng khác cũng viết rằng Chúa Giêsu đã bước ra khỏi nước sau khi chịu phép rửa; Thầy và môn đệ cùng chia sẻ một việc làm, cùng trải qua một kinh nghiệm giống nhau.  Phêrô bây giờ là một con người mới!  Đó là lý do tại sao ông có thể khẳng định ba lần rằng ông yêu mến Chúa.  Mặc dù việc chối Chúa ba lần của ông vẫn còn là vết thương chưa lành, đó không phải là lời nói cuối cùng của ông.  Điều mà Phêrô cảm nghiệm được ở đây là sự tha thứ của Chúa và nhận ra rằng sự yếu đuối của ông đã mặc khải cho ông đến nơi có một tình yêu to lớn hơn.  Phêrô nhận lãnh tình yêu, một tình yêu mà vượt xa hẳn sự phản bội và vấp ngã của ông, một tình yêu dư tràn đã giúp ông có thể phục vụ anh chị em mình, để chăn dắt họ đến những đồng cỏ xanh tươi của Chúa Giêsu.  Không chỉ riêng điều này, mà còn trong sự phục vụ của yêu thương, Phêrô sẽ trở thành một người Mục Tử nhân lành, giống như Chúa Giêsu.  Thật vậy, Phêrô cũng sẽ dâng hiến cuộc đời của ông cho đoàn chiên mình, ông sẽ bị căng tay đóng đinh trên thập giá, như chúng ta biết qua lịch sử. Ông đã bị đóng đinh ngược đầu xuống đất, ông sẽ bị lộn ngược.  Nhưng trong sự mầu nhiệm của tình yêu, ông sẽ từ đó thật sự đứng thẳng lên và hoàn thành việc phép thanh tẩy đã bắt đầu từ lúc ông nhảy xuống biển với chiếc áo buộc ngang người.  Phêrô lúc đó trở thành con chiên đã đi theo gót Đấng Chăn Chiên để nhận lãnh sự tử đạo.

6.  Giây phút cầu nguyện
 Thánh Vịnh 23 (22)
 Linh hồn con khát khao Chúa.
Chúa là mục tử chăn dắt con,
Con chẳng thiếu thốn chi.
Trong đồng cỏ xanh rì, Người cho con nằm nghỉ.
Người dẫn con tới dòng nước trong lành
Để bổ sức cho con.
Người dẫn con trên đường ngay nẻo chính như theo danh dự của Người.
Lạy Chúa, dù qua thung lũng âm u
Con không lo sợ chi,
Vì có Chúa ở cùng.
Côn trượng Chúa bảo vệ con, con vững dạ yên tâm.
Chúa dọn sẵn bữa tiệc cho con ngay trước mặt quân thù;
Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm,
Ly rượu con đầy tràn chan chứa.
Lòng nhân hậu và tình yêu bền vững của Chúa ấp ủ con suốt cả cuộc đời.
Và con được ở trong đền thánh Người hết trọn cả những năm tháng dài sắp tới.
6.  Lời nguyện kết
Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa vì Lời Chúa đã giúp chúng con có thể hiểu cặn kẽ hơn về thánh ý của Chúa Cha.  Nguyện xin Chúa Thánh Thần soi sáng chúng con trong các công việc chúng con làm và ban cho chúng con sức mạnh để thực thi những điều Lời Chúa đã mặc khải cho chúng con.  Xin cho chúng con, nên giống như Đức Mẹ Maria, mẹ Chúa, không những chỉ biết lắng nghe mà còn thực hành Lời Chúa. Chúng con cầu xin điều này vì Chúa là đấng hằng sống, hằng trị với Đức Chúa Cha trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.  Amen.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét