11/08/2025
Thứ
Hai tuần 19 thường niên.
Thánh Cơlara, trinh nữ.
Lễ
nhớ.
* Thánh nữ sinh năm 1193 tại Átxidi. Năm 18 tuổi, chị
xin thánh Phanxicô cho được theo nếp sống khó nghèo. Thánh Phanxicô đã cho chị ở
trong một căn nhà tồi tàn, gần nhà thờ thánh Đamianô ở cửa ngõ thành Átxidi. Em
của thánh nữ tên là Anê và một số thiếu nữ khác gia nhập nếp sống của chị: sống
thanh bần triệt để. Đó là những nữ tu Phanxicô tiên khởi. Chị
qua đời năm 1253.
Bài Ðọc I: (Năm
I) Ðnl 10, 12-22
“Các ngươi hãy cắt bì lòng dạ các ngươi. Hãy yêu thương
khách trọ, vì chính các ngươi cũng đã là khách trọ”.
Trích sách Ðệ Nhị Luật.
Môsê nói với dân chúng rằng: “Giờ đây, hỡi Israel, Chúa là
Thiên Chúa các ngươi, đòi hỏi các ngươi điều gì, nếu không phải là kính sợ Chúa
là Thiên Chúa các ngươi, đi theo mọi đường lối của Người, yêu mến Người, làm
tôi Chúa là Thiên Chúa các ngươi hết lòng và hết linh hồn các ngươi, tuân giữ
các giới răn và nghi lễ của Thiên Chúa mà hôm nay tôi truyền cho các ngươi để
các ngươi được hạnh phúc.
“Hãy xem trời và các tầng trời, trái đất và mọi sự trên mặt
đất đều thuộc về Chúa là Thiên Chúa các ngươi. Nhưng Chúa chỉ quyến luyến cha
ông các ngươi, đã yêu thương các ông ấy, và sau đó, trong mọi dân tộc, Người đã
chọn dòng dõi kế tiếp các ông ấy là chính các ngươi như ngày hôm nay.
“Vậy các ngươi hãy cắt bì lòng dạ các ngươi, và đừng cứng cổ
nữa, vì Chúa là Thiên Chúa các ngươi, là Thiên Chúa trên hết các chúa, là Chủ Tể
trên hết các chủ tể, là Chúa cao cả, quyền năng và đáng khiếp sợ, là Ðấng không
vị nể ai, và không để cho lễ vật hối lộ; Người giải oan cho cô nhi quả phụ, Người
yêu mến người khách trọ và cho họ cơm ăn áo mặc. Vậy các ngươi hãy yêu thương
khách trọ, vì các ngươi cũng đã là khách trọ trong đất Ai-cập.
“Các ngươi phải kính sợ Chúa là Thiên Chúa các ngươi, và phụng
sự một mình Người, phải trìu mến Người và lấy danh Người mà thề. Chính Người là
Ðấng các ngươi phải ca tụng và là Chúa các ngươi. Người đã thực hiện cho các
ngươi những điều trọng đại và khủng khiếp, mà mắt các ngươi đã xem thấy. Cha
ông các ngươi chỉ có bảy mươi khi xuống ở Ai-cập, và nay Chúa, là Thiên Chúa
các ngươi, đã làm cho các ngươi đông như sao trên trời”.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 147, 12-13. 14-15. 19-20
Ðáp: Giêrusalem hỡi,
hãy ngợi khen Chúa! (c. 12a)
Xướng: Giêrusalem
hỡi, hãy ngợi khen Chúa, hãy ngợi khen Thiên Chúa của ngươi, hỡi Sion, vì Người
giữ chặt các then cửa ngươi, Người chúc phúc cho con cái ngươi trong thành nội.
Xướng: Người giữ
cho bờ cõi ngươi được bình an, Người dưỡng nuôi ngươi bằng tinh hoa của lúa mì.
Người đã sai lời Người xuống cõi trần ai, và lời Người lanh chai chạy rảo.
Xướng: Người đã
loan truyền lời Người cho Giacóp, những thánh chỉ và huấn lệnh Người cho
Israel. Người đã không làm cho dân tộc nào như thế, Người đã không công bố cho
họ các huấn lệnh của Người.
Alleluia: Ga 14, 23
Alleluia, alleluia! – Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy,
và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. –
Alleluia.
Phúc Âm: Mt 17, 21-26
“Họ sẽ giết Người, nhưng Người sẽ sống lại. Con cái thì
được miễn thuế”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, các môn đệ và Chúa Giêsu còn đang ở Galilêa, thì
Chúa Giêsu bảo các ông rằng: “Con Người sắp bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết
người, nhưng ngày thứ ba, Người sẽ sống lại”. Các môn đệ rất đỗi buồn phiền.
Khi các ngài đến Capharnaum, thì những người thu thế đền thờ
đến gặp Phêrô và hỏi rằng: “Thầy các ông không nộp thuế “đền thờ’ sao?” Ông
nói: “Có chớ”.
Khi ông về đến nhà, Chúa Giêsu hỏi đón trước rằng: “Simon,
con nghĩ sao? Vua chúa trần gian thu thuế má hạng người nào? Ðòi con cái mình
hay người ngoài?” Ông thưa rằng: “Ðòi người ngoài”. Chúa Giêsu bảo ông rằng: “Vậy
thì con cái được miễn. Nhưng để chúng ta không làm cho họ vấp phạm, con hãy ra
biển thả câu: con cá nào câu lên trước hết thì bắt lấy, mở miệng nó ra, sẽ thấy
một đồng tiền, con hãy lấy tiền đó mà nộp cho họ, trả phần Thầy và phần con”.
Ðó là lời Chúa.
Chú giải về Đệ Nhị Luật 10,12-22
Bài đọc hôm nay của chúng ta lại được trích từ bài giảng thứ
hai trong ba bài giảng của Môsê, phần chính của Đệ Nhị Luật. Đoạn văn hôm nay
được trích từ phần cuối của bài giảng. Đây là một lời kêu gọi tuyệt vời dành
cho dân Ít-ra-en, hãy tràn đầy
tinh thần của Thiên Chúa.
Câu hỏi của Môsê dành cho dân chúng là:
...Đức Chúa, Thiên
Chúa của anh em, đòi hỏi anh em điều gì?
Chính ông đã đưa ra câu trả lời tuyệt vời:
Chỉ cần kính sợ Đức
Chúa, Thiên Chúa của anh em, bước đi trong mọi đường lối của Người, yêu mến Người,
phụng sự Người hết lòng, hết linh hồn, và tuân giữ các điều răn và luật lệ của
Người mà tôi truyền cho anh em hôm nay, để anh em được hạnh phúc.
Ông nói với họ rằng họ đang sống trong một thế giới mà mọi vật
trên, dưới và trên mặt đất đều thuộc về Đức Chúa và đến từ Ngài:
… trời và trời của các
tầng trời đều thuộc về Đức Chúa Đức Chúa Trời của các ngươi, đất
cùng mọi vật trong đó…
“Trời của các tầng trời” là một từ tiếng Do Thái có nghĩa là tầng trời cao nhất.
Tuy nhiên, trong tất cả những gì Ngài đã tạo nên theo cách
huyền nhiệm của Ngài, Đức Chúa Trời “chỉ yêu thương tổ tiên các ngươi mà thôi”.
Ngài đã chọn tổ tiên họ làm của riêng Ngài theo một cách đặc
biệt. Tình yêu này trải dài đến con cháu của họ cho đến ngày nay.
Dấu hiệu của việc họ thuộc về Đức Chúa Trời là phép cắt bì,
nhưng họ phải tiến xa hơn nữa, cắt bì tấm lòng mình và không còn chống đối lời
kêu gọi của Chúa nữa. Phép cắt bì là dấu hiệu bên ngoài của việc thuộc về dân
Chúa, nhưng điều đó là chưa đủ. Sự gắn kết phải chạm đến sâu thẳm trong trái
tim. Nó không thể dừng lại ở một biểu tượng vật chất đơn thuần bên ngoài; tư
cách thành viên mang theo những nghĩa vụ thuộc linh.
Vì vậy, Giê-rê-mi-a nói:
Hãy cắt bì chính mình
cho Đức Chúa;
Hãy cắt bỏ lớp da quy
đầu của lòng các ngươi… (Giê-rê-mi-a 4,4)
Tấm lòng “chưa cắt bì” đóng kín và không tiếp nhận ân sủng
và sự hướng dẫn của Chúa. Ở những chỗ khác, Kinh Thánh cũng nói về đôi tai
“chưa cắt bì” (Giê-rê-mi-a
6,10) bịt kín trước tiếng Chúa và đôi môi “chưa cắt bì”, không nói năng tốt.
Sau đó, Môi-se đã mô tả Đức Chúa Trời một cách tuyệt vời:
…Đức
Chúa Đức Chúa Trời các ngươi là Đức Chúa Trời của các thần, Chúa của các
chúa, là Đức Chúa Trời vĩ đại, quyền năng và đáng sợ, không thiên vị ai, không
nhận hối lộ, xét xử công minh cho trẻ mồ côi và người góa bụa, yêu thương khách
lạ, ban cho họ thức ăn và quần áo.
Vì vậy, dân Ít-ra-en
phải noi gương Đức Chúa Trời của họ trong việc yêu thương khách lạ, bởi vì
chính họ đã từng là khách lạ ở Ai Cập. Ở đây, Đức Chúa Trời yêu cầu họ mở rộng
mối quan tâm của mình ra ngoài dân tộc mình.
Lòng trung thành của họ phải dành trọn cho Đức Chúa Trời
này. Ngài là Đấng họ phải kính sợ và phục vụ; họ phải kiên định với Ngài; chỉ
nhân danh Ngài mà thề nguyện. Ngài là Đấng họ phải ngợi khen, Đấng đã làm những
điều vĩ đại và khủng khiếp mà chính họ đã chứng kiến. Điều này có thể ám chỉ đến
tất cả những điều kỳ diệu đã xảy ra trước khi họ rời khỏi Ai Cập, những sự kiện
xảy ra trên Núi Sinai và nhiều dấu hiệu khác về quyền năng của Chúa mà họ đã trải
nghiệm trong 40 năm lang thang.
Và mặc dù tổ tiên của họ - Gia-cóp và gia đình ông - chỉ có
70 người khi họ xuống Ai Cập (như được mô tả ở cuối Sáng thế), nhưng số lượng của
họ giờ đây đã nhiều như "sao trên trời", do đó đã hoàn thành lời hứa
đã được ban cho Áp-ra-ham từ rất lâu trước đây khi vợ ông vẫn còn hiếm muộn và
ông không có người thừa kế và cũng không có triển vọng nào về một người thừa kế.
Môi-se nhấn mạnh rằng việc họ là dân được Chúa chọn không chỉ là một đặc quyền
để khai thác, mà còn là một trách nhiệm đòi hỏi trách nhiệm giải trình lớn hơn
nữa.
Giờ đây, chúng ta đang chuyển sang tâm linh của các tiên
tri. Trong những thời kỳ khó khăn trước đây, người Ít-ra-en quan tâm nhiều hơn đến công lý cho
bản thân và mong muốn chấm dứt cuộc sống đau khổ. Giờ đây, với thời đại tốt đẹp
hơn, họ có thể bắt đầu nhìn xung quanh mình, bởi vì thời đại tốt đẹp hơn - như
thường xảy ra - đi kèm với bất bình đẳng xã hội.
Việc nhấn mạnh vào tình yêu Thiên Chúa cũng đang chuyển từ
việc chỉ tập trung vào Thiên Chúa và việc tuân giữ luật pháp sang sự nhạy cảm
hơn với nhu cầu của những người xung quanh, bao gồm cả những người hoàn toàn xa
lạ và những người ngoài lề. Phúc Âm sẽ làm rõ ràng rằng không thể có tình yêu
Thiên Chúa mà không bao gồm việc yêu thương tha nhân.
Chú giải Mát-thêu 17,22-27
Lần thứ hai Chúa Giê-su cảnh báo các môn đồ về những điều sắp
xảy đến: sự đau khổ, cái chết và sự phục sinh của Người. Một lần nữa, từ “trao
nộp” hay “trao nộp” (tiếng Hy Lạp: emiparadidomi)
được sử dụng. Đây là điệp khúc xuyên suốt Phúc Âm—áp dụng cho Gio-an Tẩy Giả,
cho Chúa Giê-su, cho các môn đồ, và cho việc trao Mình Thánh Chúa trong Bí tích
Thánh Thể.
Chúng ta được biết rằng các môn đồ vô cùng đau buồn trước những
lời Chúa Giê-su nói. Liệu đó chỉ đơn thuần là nỗi buồn dành cho Chúa Giê-su,
hay nó thể hiện sự vỡ mộng của họ, thật khó nói. Đây không phải là kết cục mà họ
mong đợi cho sự xuất hiện của Đấng Mê-si-a.
Phần thứ hai của bài đọc hôm nay là một cảnh tượng kỳ lạ, chỉ
có trong Phúc Âm Mát-thêu. Những
người thu thuế đền thờ muốn biết Chúa Giê-su có nộp thuế hay không. Phê-rô đảm bảo với họ rằng ông có.
Nhưng khi bước vào nhà (lại là “ngôi nhà” vô danh đó, dường
như tượng trưng cho Giáo hội hay cộng đồng Kitô giáo), Chúa Giêsu hỏi Phêrô (mặc
dù, điều thú vị là Người gọi ông bằng tên cũ “Simon”):
Simon, con nghĩ sao?
Các vua chúa trên đất thu thuế hay cống nạp từ ai? Từ con cái mình hay từ người
khác?
Nói cách khác, họ thu thuế từ ai, từ thần dân của mình, hay
từ người nước ngoài? Phêrô trả lời:
Từ người khác…
Và, thực tế, người La Mã đã thu thuế từ các dân tộc thuộc địa
của họ chứ không phải từ chính công dân của họ.
Trong trường hợp đó, Chúa Giêsu nói, những người con – tức
là Người và các môn đồ – nên được miễn thuế đền thờ. Suy cho cùng, Đền thờ là
nhà của Thiên Chúa, và Chúa Giêsu là Con của Người, và các môn đồ là anh em của
Người, con cái cùng một Cha.
Nhưng để tránh gây tai tiếng và hiểu lầm, Phêrô được bảo hãy
bắt một con cá, trong miệng nó ông sẽ tìm thấy một đồng shekel, đủ để nộp thuế
cho cả hai. Mỗi năm, tất cả nam giới Do Thái từ 20 tuổi trở lên đều phải nộp nửa
shekel. Khoản tiền này dùng để duy trì Đền thờ. Vào thời điểm đó, nửa shekel
tương đương với khoảng hai ngày lương.
Đoạn văn này dường như phản ánh một tình thế tiến thoái lưỡng
nan của Giáo hội sơ khai, thực tế là một tình thế tiến thoái lưỡng nan kép. Liệu
những Ki tô hữu gốc Do Thái
có nên tiếp tục đóng thuế đền thờ không? Và liệu những Ki tô hữu nói chung có nên đóng thuế cho một
chính quyền ngoại giáo, đặc biệt là một chính quyền mà hoàng đế tự xưng là thần
thánh?
Tình thế tiến thoái lưỡng nan đầu tiên đã tự giải quyết theo
thời gian, đặc biệt là với sự phá hủy Đền thờ (điều đã xảy ra khi Phúc âm Mát-thêuđược viết ra). Tình thế tiến
thoái lưỡng nan thứ hai mất nhiều thời gian hơn. Vấn đề dường như đã được giải
quyết bằng nguyên tắc mà Chúa Giêsu
đã đặt ra ở một nơi khác:
Vậy hãy trả cho Xê-da
những gì của Xê-da và trả cho Đức Chúa Trời những gì của
Đức Chúa Trời. (Mát-thêu
22,21)
Chúng ta cũng phải phân định những gì chính phủ đòi hỏi một
cách chính đáng và đóng góp cho nhu cầu của xã hội, đồng thời không thỏa hiệp về
những vấn đề liên quan đến các nguyên tắc phổ quát về chân lý và công lý. Đôi
khi, bất tuân dân sự không chỉ là một quyền mà còn là một trách nhiệm.
https://livingspace.sacredspace.ie/o1192g/
Suy Niệm: Nộp Thuế Cho Ðền Thờ
Vào thời Chúa Giêsu, người Do thái không những phải đóng
thuế cho nhà nước tức là thuế dân sự, mà còn phải đóng thuế cho Ðền thờ nữa:
ngoại trừ đàn bà, các thiếu niên và các nô lệ, tất cả những ai từ 20 tuổi trở
lên đều phải nộp thuế để bảo trì và tu sửa Ðền thờ Giêrusalem.
Câu chuyện trong Tin Mừng hôm nay xẩy ra vào khoảng tháng
10, năm thứ hai cuộc đời rao giảng của Chúa Giêsu, tức là ít lâu sau biến cố
Chúa Giêsu biến hình trên núi Thabor. Chúa Giêsu và các môn đệ trở lại
Capharnaum, và ở đó, những người thu thuế đến yêu cầu Phêrô nộp thuế. Dĩ nhiên
là Phêrô sẵn sàng nộp thuế.
Khi Phêrô về tới nhà, Chúa Giêsu hỏi đón ông: "Simon,
con nghĩ sao? Vua chúa trần gian lấy thuế của ai? Con cái mình hay người ngoài?
Phêrô đáp: "Thưa, người ngoài. Chúa Giêsu liền bảo thế thì con cái được miễn".
Ðây cũng là một mạc khải, bởi vì qua câu: "Thế thì con cái được miễn",
Chúa Giêsu muốn nói rằng xét về bản tính Thiên Chúa, Ngài không phải nộp thuế;
nhưng xét về bản tính loài người, Ngài cũng tuân giữ việc nộp thuế cho Ðền thờ
như bất cứ ai. Tuy nhiên, Ngài nộp thuế bằng một phép lạ: Chúa Giêsu bảo Phêrô
đi câu cá, bắt được con cá đầu tiên, trong miệng có một đồng bạc, đủ để nộp thuế
cho Ngài và cho Phêrô. Chúa không bảo Giuđa xuất quĩ mà nộp, cũng không bảo các
phụ nữ đạo đức dâng cúng, nhưng Ngài đã làm phép lạ để các môn đệ tin vào quyền
năng của Ngài.
Nếu ngày xưa, người Do thái có bổn phận nộp thuế cho Ðền thờ
để lo việc phụng sự Nhà Chúa, thì ngày nay trong Giáo Hội cũng có những cách
đóng góp hay dâng cúng, đó cũng là một việc thờ phượng và là một sự chia sẻ cho
những anh chị em nghèo khó. Chúng ta hãy nhận ra nét đặc biệt trong nhân cách của
Chúa, khi hòa nhập vào nếp sống cụ thể của những người đồng thời với Ngài. Mầu
nhiệm nhập thể đòi buộc Chúa phải chia sẻ trọn vẹn đời sống con người. Ước gì
chúng ta cũng biết noi gương Chúa, chấp nhận như hạt lúa mì rơi xuống đất và chết
đi để trổ sinh nhiều hoa trái tốt đẹp.
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

.webp)


Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét