11/04/2015
Thứ Bảy Trong Tuần Bát
Nhật Lễ Phục Sinh
Bài
Ðọc I: Cv 4, 13-21
"Chúng
tôi không thể nào không nói lên những điều mắt thấy tai nghe".
Trích
sách Tông đồ Công vụ.
Trong
những ngày ấy, các thủ lãnh, kỳ lão và luật sĩ nhận thấy Phêrô và Gioan kiên
quyết, và biết hai ngài là những kẻ thất học và dốt nát, nên lấy làm lạ; và còn
biết rằng hai ngài đã ở cùng Ðức Giêsu; họ thấy kẻ được chữa lành đứng ở đó với
hai ngài, nên họ không thể nói gì nghịch lại được. Họ mới truyền lệnh cho hai
ngài ra khỏi hội nghị, rồi thảo luận với nhau rằng: "Chúng ta phải làm gì
đối với những người này? Vì toàn dân cư ngụ ở Giêrusalem đều hay biết, phép lạ
hai ông đã làm rõ ràng quá chúng ta không thể chối được. Nhưng để sự việc không
còn loan truyền trong dân nữa, chúng ta hãy đe doạ, cấm hai ông không được lấy
danh ấy mà giảng cho ai nữa". Họ liền gọi hai ngài vào và cấm nhặt không
được nhân danh Ðức Giêsu mà nói và giảng dạy nữa. Nhưng Phêrô và Gioan trả lời
họ rằng: "Trước mặt Chúa, các ngài hãy xét coi: nghe các ngài hơn nghe
Chúa, có phải lẽ không? Vì chúng tôi không thể nào không nói lên những điều mắt
thấy tai nghe". Nhưng họ lại đe doạ hai ngài, rồi thả về, vì không tìm được
cách nào trừng phạt hai ngài, họ lại còn sợ dân chúng, vì mọi người đều ca tụng
Thiên Chúa về việc đã xảy ra.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 117, 1 và 14-15. 16ab-18. 19-21
Ðáp: Tôi cảm tạ
Chúa vì Chúa đã nhậm lời tôi (c. 21a).
Hoặc
đọc: Alleluia.
Xướng:
1) Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở. Chúa là
sức mạnh, là dũng lực của tôi, và Người trở nên Ðấng cứu độ tôi. Tiếng reo mừng
và chiến thắng vang lên trong cư xá những kẻ hiền nhân:Tay hữu Chúa đã hành động
mãnh liệt.- Ðáp.
2)
Tay hữu Chúa đã cất nhắc tôi lên, tay hữu Chúa đã hành động mãnh liệt. Tôi
không chết, nhưng tôi sẽ sống, và tôi sẽ loan truyền công cuộc của Chúa. Chúa sửa
trị, Chúa sửa trị tôi, nhưng Người đã không nạp tôi cho tử thần. - Ðáp.
3)
Xin mở cho tôi các cửa công minh, để tôi vào và cảm tạ ơn Chúa. Ðây là ngọ môn
của Chúa, những người hiền đức qua đó tiến vào. Tôi cảm tạ Chúa vì Chúa đã nhậm
lời tôi, và đã trở nên Ðấng cứu độ tôi. - Ðáp.
Alleluia:
Tv 117, 24
Alleluia,
alleluia! - Ðây là ngày Chúa đã thực hiện, chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về
ngày đó. - Alleluia.
Phúc
Âm: Mc 16, 9-15
"Các
con hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi
Chúa Giêsu sống lại, sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, thì trước hết Người hiện
ra với Maria Mađalêna, kẻ đã được Chúa đuổi bảy quỷ. Bà đi báo tin cho những kẻ
đã từng ở với Người và nay đang buồn thảm khóc lóc. Họ nghe bà nói Chúa sống lại
và bà đã thấy Người, nhưng họ không tin. Sau đó, Chúa lại hiện ra dưới hình thức
khác với hai môn đệ đang trên đường về miền quê. Hai ông trở về báo tin cho anh
em, nhưng họ cũng không tin các ông ấy. Sau hết, Chúa hiện ra với mười một tông
đồ lúc đang ngồi ăn. Chúa khiển trách các ông đã cứng lòng, vì các ông không
tin những kẻ đã thấy Người sống lại. Rồi Người phán: "Các con hãy đi khắp
thế gian rao giảng Tin Mừng cho muôn loài".
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm: Chúa Hiện Ra Nhiều Lần
Trong
cuộc triển lãm hội chợ về hoa tại thành phố Luân Ðôn, điều bất ngờ xảy ra trong
nhóm người say mê cây cảnh: giải nhất đã về tay một cô gái trẻ. Người ta lại
càng ngạc nhiên hơn khi biết rằng cô gái này lại cư ngụ trong một khu phố tồi
tàn chật chội nhất thành phố, được mệnh danh là "chỗ thiếu ánh sáng".
Nơi đó có thể nói được rằng thiếu cả ánh sáng văn minh lẫn ánh sáng mặt trời.
Chính những người lâu năm kinh nghiệm trong nghề trồng hoa kiểng cũng chẳng hiểu
làm sao mà cô gái trồng được một chậu hoa tuyệt đẹp tại một nơi thiếu ánh sáng
như thế.
Khi
được phỏng vấn, cô đã thổ lộ bí quyết của mình như sau: căn nhà của cô ở chỉ có
một vùng ánh sáng, nếu mặt trời di chuyển từ đông sang tây thì vùng ánh sáng
cũng chạy từ tây sang đông. Cứ thế, suốt ngày chậu hoa của cô phải di chuyển từ
góc này đến góc kia cho tới ngày nó được hưởng trọn phần ánh sáng như hôm nay.
Anh
chị em thân mến!
Nhìn
lại bài đọc Tin Mừng hôm nay và các tường thuật về những lần hiện ra của Chúa
Giêsu sau khi Ngài từ cõi chết sống lại sẽ cho chúng ta một điểm đáng lưu ý này
là: sau khi sống lại, Ngài không tức khắc đi tìm nhóm môn đệ đang tụ họp và cầu
nguyện, nhưng Ngài chỉ hiện ra với từng cá nhân hoặc nhóm nhỏ, rồi cho họ sứ mạng
truyền đạt tin vui đến với nhóm mười một tông đồ.
Khi
hiện ra với toàn thể các môn đệ, Ngài lại khiển trách họ: "Tại sao lại cứng
lòng tin?" Chúng ta có thể xem điều trên đây như một mô tả niềm tin của mỗi
người. Hơn nữa, ánh sáng của Chúa Kitô Phục Sinh đến với chúng ta tùy theo mỗi
thời điểm và mỗi khung cảnh của cuộc sống. Ánh sáng của Ngài buộc chúng ta phải
biết cố gắng tìm kiếm để được nhận lãnh.
Nói
như thánh Augustinô: "Chúa dựng nên con, không cần có con cộng tác. Nhưng
Chúa không thể cứu chuộc con, nếu không có con cộng tác". "Có
con" không có nghĩa là con hiện diện ở đó như một tảng đá quanh năm tiếp
thu ánh sáng, nhưng chẳng sử dụng ánh sáng để rồi chịu cảnh vỡ nát của thời
gian. Sự hiện diện của con phải là sự hiện diện của một bông hoa luôn hướng về
ánh sáng mặt trời. Vì ánh sáng mặt trời là nguồn sức sống cho cây, đồng thời
cũng là dịp cho hoa vươn mình khoe sắc.
Vì
thế, ánh sáng vui mừng của Ðức Kitô Phục Sinh trước hết là một đáp ứng cho một
tâm hồn tha thiết tìm kiếm Ngài. Maria Madalena và các phụ nữ đến mồ từ sáng sớm
ngày thứ nhất trong tuần, họ đã được Ngài hiện ra trước hết, dù rằng họ chẳng
chiếm giữ một vai trò quan trọng nào trong việc rao giảng Tin Mừng. Tuy nhiên,
bên cạnh đó, Ðức Kitô Phục Sinh cũng vẫn luôn quan tâm đến tất cả. Ngài chẳng
muốn cho một kẻ nào phải hư mất.
Hai
môn đệ tuyệt vọng trên đường Emmau được Ngài đồng hành nâng đỡ. Cả đến sự đòi hỏi
gần như thách thức của thánh Tôma cũng được Ngài sẵn sàng đáp ứng. Ngài hiện diện
để trao đổi niềm tin yếu kém: "Tại sao lại không tin?" "Hỡi những
kẻ yếu lòng tin". Ðó là những lời kêu mời giác ngộ chân lý: "Hãy nhận
biết Ngài và hãy tin tưởng vào Ngài".
Qua
bài Tin Mừng hôm nay, ước mong rằng mỗi người trong chúng ta sẽ biết khám phá
ra sự hiện diện của một Thiên Chúa mà phần đông chúng ta tưởng Ngài đã chết.
Ngài vẫn luôn hiện diện với ta dù rằng nhiều lúc con người như hoàn toàn chìm
trong bóng tối. Ánh sáng của Ngài vẫn dọi chiếu, nhưng theo một góc độ nào đó
buộc chúng ta phải nỗ lực tìm kiếm nhiều hơn.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Bảy Tuần I BNPS
Bài đọc: Acts 4:13-21; Mk
16:9-15.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Con người không thể
trốn tránh sự thật mãi.
Có
một người hay có tính “thêu dệt” và “thêm mắm thêm muối” mỗi khi nói chuyện với
người khác về quá khứ huy hoàng của mình. Các bạn anh muốn dạy anh một bài học,
nên mỗi lần anh nói, họ ghi chép cẩn thận những gì anh nói. Sau khi kể một hồi,
các bạn anh bắt đầu thắc mắc về thời gian và nơi chốn của những việc xảy ra, và
chỉ cho anh thấy sự không hợp lý của những gì anh kể. Từ đó, anh bắt đầu nói
năng cẩn thận hơn; vì chỉ có nói thật, anh mới có thể tránh được những mâu thuẫn
của các sự việc.
Các
Bài Đọc hôm nay xoay quanh việc con người không thể trốn tránh mãi sự thật.
Trong Bài Đọc I, những người trong Thượng Hội Đồng Do-thái nghĩ khi họ đóng
đinh Chúa Giêsu trên Thập Giá là từ nay dân chúng sẽ nghe theo họ; nhưng họ lại
phải đương đầu với các môn đệ của Ngài và hàng ngàn dân chúng đã tin vào Chúa
Giêsu. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đã hiện ra nhiều lần với các môn đệ sau khi chết.
Ngài khiển trách họ đã quá cứng lòng không chịu tin vào lời các nhân chứng thuật
lại trong trình thuật hôm nay.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Nghe lời các ông hay là nghe lời Thiên Chúa?
1.1/
Phản ứng của những người trong Thượng Hội Đồng: Trước tiên, họ ngạc nhiên khi
thấy ông Phêrô và ông Gioan mạnh dạn. Họ nghĩ không có một hay hai cá nhân nào
dám đứng ra đương đầu với quyền lực của Thượng Hội Đồng; vì nếu làm như vậy, chắc
chắn sẽ lãnh thiệt hại vào thân. Thứ đến, họ khám phá ra hai ông là những người
không có chữ nghĩa, lại thuộc giới bình dân. Họ nhận xét đúng, cả hai, Phêrô và
Gioan, đều làm nghề đánh cá; làm sao có cơ hội để học hỏi và biết chữ nghĩa và
Lề Luật như họ được. Cả hai nhận xét của họ đều đúng, và câu hỏi họ đặt ra cho
hai ông hôm qua rất chí lý: “Nhờ quyền lực nào và nhân danh ai mà các ông làm
chuyện đó.”
Câu
trả lời của Phêrô giúp họ tìm ra những gì họ muốn biết: chúng tôi chỉ lấy sức mạnh
và quyền lực của Đức Kitô, Đấng mà các ông đã đóng đinh vào Thập Giá. Họ cũng
nhận ra hai ông là những người đã từng theo Đức Giêsu; đồng thời họ lại thấy
người đã được chữa lành đứng đó với hai ông, nên họ không biết đối đáp thế nào.
Họ mới truyền cho hai ông ra khỏi Thượng Hội Đồng, để bàn tính với nhau. Họ chỉ
có hai con đường phải chọn:
(1)
Phục thiện và tin vào Chúa Giêsu: Đứng trước một phép lạ quá rõ ràng, đứng trước
3 nhân chứng, và đứng trước đông đảo dân chúng; họ phải tin vào Chúa Giêsu là
Người đến từ Thiên Chúa, đã chết và sống lại. Chính họ đã nói với nhau về hai
ông: “Họ đã làm một dấu lạ rành rành: điều đó hiển nhiên đối với mọi người cư
ngụ tại Jerusalem, và ta không thể chối được.”
(2)
Dùng bạo lực để bưng bít sự thật: Có nhiều lý do để họ từ chối không tin: sợ mất
thế giá, sợ mất lợi lộc vật chất, sợ phải thay đổi niềm tin …
Sau
khi bàn luận, họ quyết định bưng bít sự thật bằng bạo lực. Họ quyết định:
“Nhưng để cho việc đó khỏi lan rộng thêm trong dân, ta hãy ngăm đe, nghiêm cấm
họ từ nay không được nói đến danh ấy với ai nữa. Họ cho gọi hai ông vào và tuyệt
đối cấm hai ông không được lên tiếng hay giảng dạy về danh Đức Giêsu nữa."
1.2/
Phản ứng của Phêrô và Gioan: Hai ông Phêrô và Gioan đáp lại: "Nghe lời các ông hơn là
nghe lời Thiên Chúa, xin hỏi: trước mặt Thiên Chúa, điều ấy có phải lẽ không?
Các ông thử xét xem! Phần chúng tôi, những gì tai đã nghe, mắt đã thấy, chúng
tôi không thể không nói ra."
Thượng
Hội Đồng là những người có kiến thức và biết Lề Luật của Thiên Chúa. Họ phải
công nhận điều Phêrô nói là phải tuân hành những gì Thiên Chúa nói hơn con người;
nhưng vì quá ngoan cố trong việc tìm hiểu sự thật nên họ tiếp tục ở trong bóng
tối tội lỗi. Trình thuật kể thái độ cứng lòng của họ như sau: “Sau khi ngăm đe
lần nữa, họ thả hai ông về, vì không tìm được cách trừng trị hai ông. Lý do là
vì họ sợ dân: ai nấy đều tôn vinh Thiên Chúa vì việc đã xảy ra.”
2/
Phúc Âm:
Các lần hiện ra của Chúa Giêsu theo thánh-sử Marcô
Không
phải chỉ có những người trong Thượng Hội Đồng cứng lòng, các môn đệ của Chúa
Giêsu cũng mắc phải lỗi lầm đó. Hơn những người trong Thượng Hội Đồng, các tông
đồ đã từng được nghe Chúa Giêsu giảng dạy, biến hình, và báo trước cuộc tử nạn
và sống lại sẽ xảy ra. Chúa Giêsu không chỉ hiện ra một lần để có cớ cho các
tông đồ nói đó chỉ là ảo ảnh hay bóng ma; nhưng Ngài hiện ra nhiều lần với các
nhân chứng khác nhau. Chúa Giêsu phải trách thái độ cứng lòng của các ông vì đã
chối từ sự thật đến không phải từ hai như Lề Luật đòi, nhưng nhiều nhân chứng
khác nhau. Thánh Marcô liệt kê ba lần Chúa hiện ra:
(1)
Với một mình Mary Magdala: “Sau khi sống lại vào lúc tảng sáng ngày thứ nhất
trong tuần, Đức Giêsu hiện ra trước tiên với bà Mary Magdala, là kẻ đã được Người
trừ cho khỏi bảy quỷ. Bà đi báo tin cho những kẻ đã từng sống với Người mà nay
đang buồn bã khóc lóc. Nghe bà nói Người đang sống và bà đã thấy Người, các ông
vẫn không tin.”
(2)
Với hai môn đệ trên đường về quê, Emmaus: “Sau đó, Người tỏ mình ra dưới một
hình dạng khác cho hai người trong nhóm các ông, khi họ đang trên đường đi về
quê. Họ trở về báo tin cho các ông khác, nhưng các ông ấy cũng không tin hai
người này.”
(3)
Với Nhóm Mười Một: “Sau cùng, Người tỏ mình ra cho chính Nhóm Mười Một đang khi
các ông dùng bữa. Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các
ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người trỗi dậy. Người
nói với các ông: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng
cho mọi loài thọ tạo.””
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Chúng ta phải luôn học để biết sự thật, vì chỉ có sự thật mới giải thoát chúng
ta khỏi mọi gian trá.
-
Không chỉ học biết sự thật, chúng ta còn phải có can đảm để nói sự thật, sống
theo sự thật, và làm chứng cho sự thật.
-
Khi có sự xung đột giữa điều Thiên Chúa nói và điều người phàm nói; chúng ta phải
luôn luôn vâng lời Thiên Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
11/04/15 THỨ BẢY TUẦN
BÁT NHẬT PS
Mc 16,9-15
Mc 16,9-15
Suy niệm: Công
cuộc loan báo Tin Mừng thường đầy thử thách, gian nan trong mọi thời. Vào thời
kỳ đầu của Giáo Hội, nhiều người không tin và không đón nhận Tin Mừng Chúa sống
lại. Thời đại hôm nay cũng thế, có nhiều người khước từ Tin Mừng Đức Giê-su
Ki-tô, thậm chí có những người đã lãnh bí tích Rửa Tội mà vẫn không đón nhận
Tin Mừng Chúa sống lại và không sống đức tin, vì thế, họ được xem là “người đã
Rửa Tội mà không tin”. Dĩ nhiên, những ai không đón nhận Tin Mừng thì phải chịu
trách nhiệm về số phận của mình. Nhưng người tín hữu chúng ta vẫn phải chịu
phần nào trách nhiệm về sự cứng lòng tin của anh chị em mình. Vì sao ư? Đức
hồng y Martini nhận định rằng, vì chúng ta loan báo “chỉ một nửa”, nghĩa là
loan báo Tin Mừng với những chữ nghĩa mà lại thiếu trái tim, loan báo Tin Mừng
mà “chẳng hiểu gì cả” (Lc 24,25), loan báo Tin Mừng Chúa sống lại mà lòng lại
đầy cay đắng, thất vọng thì không thuyết phục được người nghe. Vì vậy, để Tin
Mừng được nhiều người đón nhận, thì tâm hồn chúng ta phải chứa đầy Tin Mừng rồi
mới thốt ra trên môi miệng chúng ta.
Mời Bạn: Phải
chăng vì chúng ta quên lãng bổn phận truyền giáo, thiếu hiểu biết hoặc thiếu
nhiệt thành truyền giáo nên nhiều người vẫn còn xa Chúa?
Sống Lời Chúa: Mỗi
ngày một việc lành với ý chỉ cho việc truyền giáo.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin làm cho con nên người môn đệ nhiệt thành của Chúa
trên cánh đồng truyền giáo.
Vẫn không tin
Tin Đức Giêsu phục sinh cũng không dễ đối với
chúng ta hôm nay. Nếu thực sự tin vào sự phục sinh ở đời sau, chắc chúng ta sẽ
sống khác.
Suy niệm:
Theo các nhà chú giải, sách
Tin Mừng Marcô kết thúc ở chương 16, câu 8,
với việc các phụ nữ sợ hãi,
chạy trốn, không dám nói gì với các môn đệ.
Sách này cũng không nói đến
việc Đức Giêsu phục sinh hiện ra gặp các ông.
Kết thúc khác thường này của
Marcô làm chúng ta ngày nay chưng hửng.
Cả các Kitô hữu thế kỷ thứ
hai cũng bị ngỡ ngàng,
vì vào thời đó họ đã có
trong tay các sách Tin Mừng khác.
Các sách này đều kể chuyện
các phụ nữ đã đi gặp các môn đệ,
chuyện Đức Giêsu phục sinh
hiện ra gặp các bà trước tiên;
rồi sau đó, Ngài đã hiện ra
với các môn đệ
và sai các ông đi loan báo
Tin Mừng (Mt 28,19-20; Lc 24, 46-48; Ga 20, 21).
Để giải quyết khó khăn do
phần kết của sách Tin Mừng Marcô đặt ra,
một tác giả được ơn linh
hứng đã viết thêm phần phụ lục (Mc 16, 9-20),
dựa trên các sách Tin Mừng
khác và sách Công vụ Tông đồ.
Năm 1546, phần này đã được
Công đồng Trentô nhìn nhận là Lời Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay nhấn mạnh
đến thái độ không tin của các môn đệ.
Đức Giêsu phục sinh hiện ra
trước tiên cho bà Maria Mácđala.
Bà đi báo tin Thầy sống lại
cho những môn đệ đang buồn bã khóc lóc,
nhưng họ không tin (cc.
9-11).
Lần thứ hai, Đức Giêsu tỏ
mình cho hai môn đệ khi họ trên đường về quê.
Khi hai ông này báo tin cho
những môn đệ khác, thì họ cũng không tin (cc. 12-13).
Lần thứ ba, Đức Giêsu đích
thân tỏ mình cho nhóm Mười Một.
Ngài khiển trách họ về tội
không tin những kẻ đã thấy Ngài phục sinh (c. 14).
Xem ra tin Thầy Giêsu phục
sinh không phải là chuyện dễ, ngay cả đối với các môn đệ,
dù họ đã được nghe Thầy báo
trước nhiều lần khi còn sống bên Thầy,
dù có những người trong nhóm
làm chứng mình đã thấy Thầy sống lại.
Ở lại trong nỗi thất vọng,
buồn phiền thì dễ hơn sống lạc quan vui tươi.
Các môn đệ không ra khỏi
được nỗi đau do cái chết của Thầy.
Có những nỗi đau làm con
người khép kín và khoanh tay bất động.
Nhưng Đức Giêsu phục sinh
vẫn không bỏ rơi các học trò cứng cỏi của mình.
Ngài kiên trì chinh phục họ
bằng cách đến với họ và dùng bữa.
Ngài đưa họ ra khỏi thế giới
nhỏ bé của họ và giao cho họ một sứ mạng lớn lao.
“Hãy đi khắp tứ phương thiên
hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (c. 15).
Tin Đức Giêsu phục sinh cũng
không dễ đối với chúng ta hôm nay.
Nếu thực sự tin vào sự phục
sinh ở đời sau, chắc chúng ta sẽ sống khác.
Thanh thoát hơn, nhẹ nhàng
hơn, quảng đại hơn, vui tươi hơn...
Nhiều khi chúng ta vẫn loan
báo Tin Mừng với vẻ mặt buồn bã,
vẫn nói về đời sau mà lòng
còn quá nặng với vinh hoa đời này.
Chỉ mong chúng ta được thực
sự phục sinh như Thầy Giêsu,
để làm tròn sứ mạng Thầy
trao phó.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa phục sinh,
vì Chúa đã phục sinh
nên con thấy mình chẳng còn
gì phải sợ.
Vì Chúa đã phục sinh
nên con được tự do bay cao,
không bị nỗi sợ hãi của phận
người chi phối,
sợ thất bại, sợ khổ đau,
sợ nhục nhã và cái chết lúc
tuổi đời dang dở.
Vì Chúa đã phục sinh
nên con hiểu cái liều của
người kitô hữu
là cái liều chín chắn và có
cơ sở.
Cái liều của những nữ tu
phục vụ ở trại phong.
Cái liều của cha Kolbê chết
thay cho người khác.
Cái liều của bậc cha ông đã
hiến mình vì Đạo.
Sự Phục Sinh của Chúa là một lời mời gọi
mang một sức thu hút mãnh
liệt
khiến con đổi cái nhìn về
cuộc đời:
nhìn tất cả từ trên cao
để nhận ra giá trị thực sự
của từng thụ tạo.
Sự Phục Sinh của Chúa
giúp con dám sống tận tình
hơn
với Chúa và với mọi người.
Và con hiểu mình chẳng mất gì,
nhưng lại được tất cả.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
11
THÁNG TƯ
Đức
Tin Của Chúng Ta Bật Ra
Từ
Chứng Từ Của Các Thị Chứng Nhân
Luca,
tác giả Sách Tin Mừng, kể tiếp: “Rồi Người mở trí cho họ hiểu Kinh Thánh” (Lc
24,45). Từ bài diễn từ của Phê-rô trong Sách Công Vụ Tông Đồ, chúng ta nhận ra
việc Đức Kitô mở trí cho các Tông Đồ nắm hiểu sự thật về Tin Mừng đã có hiệu quả
như thế nào.
Thật
vậy, sau khi trình bày những biến cố nối kết với cái chết và cuộc Phục Sinh của
Đức Kitô, Phê-rô tuyên bố với cư dân Giê-ru-sa-lem: “Như vậy là Thiên Chúa đã
thực hiện những điều Người dùng miệng tất cả các ngôn sứ mà báo trước, đó là: Đấng
Kitô của Người phải chịu khổ hình. Vậy anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên
Chúa, để Người xóa bỏ tội lỗi cho anh em” (Cv 3,18-20).
Trong
những lời ấy của vị Tông Đồ, chúng ta nhận ra một âm vọng rõ ràng những lời của
chính Đức Kitô. Chúng ta nhận ra Chúa Phục Sinh đã biến đổi tâm trí và cuộc sống
của các Tông Đồ như thế nào qua việc truyền đạt sự thật của Người.
Đây
là câu chuyện của đức tin chúng ta. Chúng ta nhận ra cách mà thế hệ chứng nhân
đầu tiên của Đức Kitô – tức các Tông Đồ và các môn đệ – truyền đạt sứ điệp Tin
Mừng căn bản. Nó bật ra trực tiếp từ chứng từ của những chứng nhân mắt thấy tai
nghe cái chết và sự sống lại của Đức Kitô.
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
NGÀY
11- 4
Thứ
BảyTrong Tuần Bát Nhật Phục Sinh
Cv
4, 13-21; Mc 16, 9-15.
LỜI
SUY NIỆM: “Sau cùng, Người tỏ mình ra cho chính Nhóm Mười Một đang
khi các ông dùng bữa. Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi các
ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người trỗi dậy.”
Biến
cố Chúa Giêsu Phục Sinh, đối với các Tông Đồ, các ông không dễ tin, mặc dù bà
Maria Mác-đa-la và hai môn đệ trên đường về quê đã kể lại việc họ đã nhìn thấy
Chúa và nói chuyện với Người sau khi Người từ cõi chết trỗi dậy. Trước sự cứng
lòng của các ông. Chúa Giêsu đã đến với với các ông đang khi các ông dùng bữa.
Lạy
Chúa Giêsu. Cử chỉ cùng dùng bữa với nhau là thể hiện tình yêu thương, đoàn kết,
đùm bọc lẫn nhau. Xin cho mọi thành phần trong Giáo xứ chúng con luôn sum họp
trong mọi Thánh Lễ, Đặc biệt trong Thánh Lễ ngày Chúa Nhật để cùng nhau vui hưởng
Lời Chúa và Thánh Thể của Chúa.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
11-04
Thánh
STANISLAÔ
Giám
Mục Tử Đạo (1030 - 1079)
Thánh
Stanislaô được kính nhớ như vị Thánh bảo trợ thành Krakow ở Balan, nơi Ngài làm
giám mục và hài cốt Ngài được lưu giữ ở nhà thờ chính tòa. Không có tường thuật
đương thời nào về Ngài được coi là đầy đủ và các chi tiết về đời Ngài cũng
không rõ rệt lắm. Người ta kể rằng: cha mẹ Ngài thuộc dòng dõi quí phái, nhưng
lại hiếm muộn về đàng con cái. Sau nhiều lời cầu nguyện khẩn thiết, ngày 26
tháng 07 năm 1030, họ sinh được một người con trai và đặt tên là Stanislaô. Họ
chú tâm đào luyện con mình theo những tập quán đạo hạnh khiến Stanislaô, từ nhỏ
đã tỏ ra có tinh thần bác ái và nhiệt hành phụng sự Chúa.
Trong
bầu khí đạo đức ấy, từ thuở nhỏ Stanislaô đã nghe rõ tiếng Chúa kêu gọi đi làm
tông đồ Chúa. Trước hết Ngài đã theo học đại học tại triết học tại Đại học
Gniezno. Sau đó Ngài sang Paris theo học Luật và thần học ở tu viện Lorranin
trong bảy năm trời. Khi cha mẹ qua đời, Ngài phải trở về Balan.
Được
thừa hưởng gia tài lớn cha mẹ để lại, nhưng thánh nhân đã quyết chí hiến thân
phụng sự Chúa vì vậy Ngài đã đem của cải phân phát cho người nghèo khó rồi tiếp
tục theo đưổi lý tưởng tu trì. Đức Giám mục Lampert đã phong chức Linh mục cho
Stanislaô, năm 1062 và đặt làm Kinh sĩ tại nhà thờ chánh tòa địa phận.
Giữ
chức vụ kinh sĩ, Stanislaô đã trở nên lừng danh về tài thuyết giảng và về chính
đời sống gương mẫu thánh thiện của Ngài. Đức cha Lambert, toàn thể giáo sĩ và
giáo dân đã bầu Stanislaô lên kế vị. Vì khiêm tốn, thánh nhân quyết không chịu
nhận. Nhưng năm 1072, vâng lời đức thánh cha Alexandre II, Stanislaô đã nhận
làm giám mục Krakow.
Đức
cha Stanislaô là một giám mục thánh thiện và nhân hậu nhất là đối với những ai
đau khổ và nghèo đói. Tuy nhiên, Ngài cũng tỏ ra là người can đảm đặc biệt. Vua
Balan lúc ấy là Bôleslas II. Ong ta đã dùng sức mạnh khí giới để đạt tới vinh
quang nhưng lại chịu bị khuất phục trước những tật xấu khủng khiếp. Hành vi độc
ác của ông đã khiến cho người ta gọi ông là "kẻ độc ác". Cả nước đều
phải run sợ nhưng không ai dám mở lời can ngăn. Chỉ có một người, một vị thánh
là Stanislaô đã dám đương đâu với sự giận dữ của nhà vua.
Sau
khi cầu nguyện với tất cả tâm hồn, thánh nhân đến gặp nhà vua. Khiêm tốn nhưng
đầy cương quyết, thánh nhân quyết định nói với ông ta tất cả những gì phải nói,
Ngài trình bày cho nhà vua thấy trước những tội ác tày trời, gương mù trong
vương quốc mà nhà vua gây nên, Ngài cũng nói cho nhà vua rõ những phán xét
Thiên Chúa đang chờ đón. Vừa nghe, Bôleslas đã tỏ ra hối hận. Nhưng thật đang
tiếc vì đây chỉ là một tình cảm chóng qua, Bôleslas lại trở nên man rợ như trước
và còn thêm một tội ghen ghét vào những ác độc của ông.
Sau
này, vua đã cướp vợ của một nhà quí phái để nhốt trong hoàng cung. Cơn giận lan
ra khắp tỉnh nhưng dân chúng run sợ không ai dám mở miệng, thánh Stanislaô một
lần nữa can đảm đến gặp Boleslas, cố gắng đưa ông trở về với những tình cảm
chân chính. Ngài đe dọa, nếu còn cố chấp, nhà vua sẽ bị tuyệt thông. Run lên vì
tức giận, nhà vua tìm kế sát hại thánh nhân.
Bôleslas
biết Đức cha có mua một thuở đất để xây cất nhà thờ mà chỉ trao tiền trứơc mặt
nhiều chứng nhân mà không làm chứng từ. Khi chủ nhân cũ qua đời, ông đe dọa các
chứng nhân để họ phản chứng rồi tố giác Đức giám mục ra tòa. Mưu độc của ông bị
thất bại. Vì sau ba ngày cầu nguyện thánh Stanislaô đã truyền đào mồ người chết
và kêu ông dậy làm chứng sự thật.
Dầu
vậy, Bôleslas vẫn không thay lòng đổi dạ đối với vị giám mục gan dạ Stanislaô.
Ngày 08 tháng 5 năm 1079, khi thánh Stanislaô đang dâng thánh lễ tại thánh đường
thánh Micae. Ông sai người đến sát hại thánh nhân. Cả ba nhóm binh sĩ lần lượt
đến mà không hoàn thành được lệnh truyền, khiến chính nhà vua phải ra tay. Ông
xông vào nhà thờ chém giết vị giám mục tại bàn thờ. Chưa đã thoả lòng giận dữ ,
ông còn chặt xác Ngài thánh ra làm nhiều khúc rồi vứt ra ngoài đồng cho chim trời
rúc rỉa. Nhưng bốn ngày sau, trên trời chỉ có bốn cánh phương hoàng bay lượn
ngăn cản tất cả không cho bất cứ con vật nào xâm phạm tới xác thánh.
Bấy
giờ Boleslas mới tỉnh ngộ và hối lỗi. Ông cho tổ chức lễ an táng thánh
Stanislaô rất trọng thể. Xác thánh liền lại như mới qua đời vì bệnh tật và được
chôn cát tại nhà thờ chánh tòa Krakow.
(daminhvn.net)
11
Tháng Tư
Ðám Cưới Vĩ Ðại Nhất
Một
trong những đám cưới được xem là vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại đó là đám
cưới của Alexandre Ðại đế với công chúa Roxane của Ba Tư vào thế kỷ thứ tư trước
công nguyên.
Khi
quyết định một người Á châu, dĩ nhiên, Alexandre theo tiếng gọi của con tim.
Nhưng qua cuộc hôn nhân này, ông muốn biểu tỏ ý muốn thống nhất tất cả lãnh thổ
đã được chinh phục từ Ðông sang Tây. Ông cũng hy vọng có một người con nối dõi
với hai dòng máu Ðông Tây để thống nhất hai phần đất của địa cầu.
Ðám
cưới được cử hành trong vòng bảy ngày, bảy đêm. Nơi nơi đều có yến tiệc. Và để
tăng thêm phần long trọng, Alexandre đã cho tổ chức những cuộc tranh tài thể
thao: thế vận hội đã được khai sinh từ đó. Chính Ðại đế là người đích thân trao
giải thưởng cho những người thắng cuộc. Thông thường hoàng đế trao tặng những
chiếc cúp bằng vàng. Nhưng, người được coi là đoạt được nhiều giải thưởng nhất
trong cuộc thi thế vận hội đầu tiên ấy chỉ nhận được có mỗi một cành lá.
Alexandre Ðại đế giải thích như sau: chỉ có vinh hiển mới có thể tưởng thưởng
được người xuất sắc nhất.
Có
một hôn lễ còn vĩ đại gấp bội so với hôn lễ của Alexandre Ðại đế với công chúa
Roxane: đó là hôn lễ của Trời với Ðất, của Thiên Chúa với Nhân Loại. Ðây là cuộc
hôn lễ mà loài người đã chờ đợi từ khi có mặt trên trái đất. Hôn lễ ấy diễn ra
qua việc Con Thiên Chúa xuống thế mặc lấy xác phàm. Ngài đến không kèn không trống,
không quân đội, không thế vận hội. Ngài không mang lại các cúp vàng, Ngài không
chỉ trao cành lá vinh thắng cho một người, nhưng cho tất cả mọi người. Ai cũng
có thể chiến thắng cho cuộc sống của mình và ai cũng có thể nhận lãnh cành lá
vinh hiển ấy.
Ai
trong chúng ta cũng có một phần thưởng vô giá, ai trong chúng ta cũng là người
đoạt giải nhất và ai trong chúng ta cũng nhận được cành lá vinh hiển của sự sống
đời đời.
Với
Chúa Giêsu là Ðấng đã thắng thế gian và đang tiếp tục chiến đấu bên cạnh chúng
ta, chúng ta tin chắc rằng chúng ta cũng sẽ chiến thắng.
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét