Trang

Thứ Bảy, 11 tháng 4, 2015

12-04-2015 : (phần II) CHÚA NHẬT II PHỤC SINH năm B - KÍNH LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA

12/04/2015
Chúa Nhật II Phục Sinh Năm B
(phần II)


Phụng vụ Lời Chúa: Chúa Nhật II Phục Sinh - năm B
CHÚA NHẬT II PHỤC SINH - B
CHÚA NHẬT
VỀ LÒNG THƯƠNG XÓT
CỦA THIÊN CHÚA
Cv 4,32-35; 1Ga 5,1-6; Ga 20,19-31
Ông Tôma thưa Người:
‘Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!’
Đức Giêsu bảo: ‘Vì đã thấy Thầy, nên anh tin.
Phúc thay những người không thấy mà tin!
’”

(Ga 20,28-29)
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài đọc 1: Cv 4,32-35
Trong khoảng 30 năm sau biến cố Phục Sinh của Đức Giêsu Kitô, Giáo Hội thời Sơ Khai đã tiến triển mạnh mẽ trong Đế Quốc Roma. Sách Tông Đồ Công Vụ minh định: Kitô giáo không phải là một mối đe dọa chính trị đối với Roma, nhưng là công trình của Chúa Thánh Thần, Đấng đang kiến tạo một “vương quốc” thiêng liêng, vốn bao gồm tất cả những ai tin vào danh Đức Giêsu Kitô.
Cv 4,32-35 thuộc phần thứ nhất trong Sách Tông Đồ Công Vụ (1,1 – 6,7), vốn được thánh Luca viết ra để trình bày cho chúng ta biết về sự tiến triển của Hội Thánh tại Giêrusalem và tại Giuđêa sau biến cố Phục Sinh của Đức Giêsu Kitô.
Sự tiến triển của Hội Thánh thời sơ khai được tô đậm bởi những nét đẹp sau đây:
1. Các tín hữu đông đảo nhưng có sự hiệp nhất (đồng tâm nhất trí).
2. Các tông đồ là những vị lãnh đạo hữu hình: Thiên Chúa ban ơn dồi dào cho các ngài, và các ngài dám can đảm làm chứng cho Đức Kitô.
3. Các tín hữu xem mọi sự là của chung: cộng đoàn có nhiều người quảng đại và trung thực (vd. Ông Barnabas), vì thế không ai trong cộng đoàn gặp cảnh túng thiếu.
Những nét đẹp này tái khẳng định những điều tốt đẹp nơi đời sống cộng đoàn tiên khởi vốn đã được thánh Luca trình bày trước đó ở Cv 2,42-47. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần lưu ý là cũng có một số thành viên trong cộng đoàn không sống được những nét đẹp này. Câu chuyện có liên hệ đến hai nhân vật Ananias và Sapphira (x. Cv 5,1-11) là một dẫn chứng cụ thể. Thật vậy, sự hiệp nhất trong cộng đoàn ít nhiều đã bị sứt mẻ bởi hai kẻ này, vốn đã giữ lấy một phần tiền cho riêng mình sau khi đã bán một thửa đất. Khi làm như vậy, họ đã không sống được tinh thần quảng đại và trung thực như đã được thể hiện nơi ông Barnabas và nơi nhiều tín hữu khác.
2. Bài đọc 2: 1Ga 5,1-6
Theo truyền thống, thánh Gioan Tông Đồ đã viết thư này, có lẽ để gửi cho Giáo Đoàn tại Êphêsô. 1Ga 2,19 cho chúng ta biết một số kẻ “phản Kitô” đã tách khỏi Giáo Đoàn. Họ đang tìm cách lôi kéo nhiều người theo lạc thuyết của họ. Thánh Gioan đã viết thư này để giúp Giáo Đoàn phân định sự thật khỏi sự dối trá, lầm lạc cả trong giáo thuyết lẫn trong cung cách sống.
Những kẻ phản Kitô này không tin nhận Đức Giêsu là Đấng Kitô (x. 2,2). Họ cũng không tin Đức Giêsu Kitô là Đấng đã đến và trở nên người phàm (x. 4,2-3). Thánh Gioan, trái lại, khẳng định: “Ai tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, thì người ấy đã được Thiên Chúa sinh ra” (5,1). Như thế, việc chúng ta nhận lãnh ơn làm nghĩa tử của Thiên Chúa hệ tại ở niềm tin của chúng ta vào Đức Giêsu là Đấng được Thiên Chúa xức dầu (x. 5,1), là Đấng Cứu Độ (x. 4,9-10.14), và là Con Thiên Chúa (x. 4,15; 5,5). Niềm tin này giúp chúng ta thắng được thế gian (x. 5,4).
Như kẻ làm con phải biết kính yêu cha mẹ mình, thì người được tái sinh trong Đức Kitô cũng phải biết yêu mến và thảo kính đối với Thiên Chúa. Thái độ này được thể hiện cụ thể qua việc chúng ta tuân giữ các lệnh truyền của Thiên Chúa (x. 5,4), vốn giúp chúng ta ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở lại trong chúng ta (x. 3,24).
Người yêu mến Thiên Chúa đích thực thì cũng yêu mến anh em mình (x. 5,1b). Không có sự tách biệt giữa việc yêu mến Thiên Chúa và yêu mến con người. Kẻ biết yêu thương thì có sự sống nơi mình. Kẻ không yêu thương, thì ở lại trong sự chết (x. 3,14). Nhưng chúng ta không thể yêu thương qua lời nói mà thôi, mà phải qua việc làm cụ thể, như thánh Gioan đã dạy chúng ta: “Chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm” (3,18).
Tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa và với tha nhân, thực ra, chẳng phải tiên thiên đến từ phía chúng ta. Đúng ra, phải nói rằngThiên Chúa đã yêu chúng ta trước, đã sai Con Một của Người đến để cứu độ chúng ta (x. 4,10). Nơi cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giêsu Kitô, chúng ta nghiệm thấy tình yêu của Thiên Chúa dành cho những tội nhân như chúng ta đã lên đến tột đỉnh, đã đạt mức thập toàn. Từ cảm nghiệm Thiên Chúa yêu thương mình hết mức, mà chúng ta thấy cần phải lấy tình yêu đáp đền tình yêu. Tình yêu thương đồng loại cũng phát xuất và được củng cố từ tình yêu thảo kính chúng ta dành cho Thiên Chúa, khi chúng ta nhận biết Thiên Chúa muốn yêu thương hết mọi người.
3. Bài Tin Mừng: Ga 20,19-31
Đoạn Tin Mừng Chúa Nhật II Mùa Phục Sinh Năm B nằm trong loạt trình thuật liên hệ đến Ngày Phục Sinh của Đức Giêsu (x. Ga 20,1.19): Ngôi Mộ Trống (Ga 20,1-10); Đức Giêsu hiện ra với bà Maria Magdalena (Ga 20,11-19); Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ (Ga 20,19-31).
Trình thuật Ngôi Mộ Trống ghi lại bằng chứng về biến cố Phục Sinh của Đức Giêsu, với điểm nhấn nơi  “niềm tin” của người môn đệ được Đức Giêsu thương mến. Trình thuật Đức Giêsu hiện ra với các phụ nữ như được thánh Mátthêu trình bày ở 28,9-10 cũng có phiên bản tương ứng ở Ga 20,11-18, với Maria Magdalena là hiện thân của nỗi buồn nơi các môn đệ cũng như niềm vui của họ khi được gặp Đức Giêsu Phục Sinh. Cuối cùng, trong Ngày Phục Sinh, Đức Giêsu đã hiện ra với các môn đệ, và trong cuộc gặp gỡ này, Ngài đã ban cho các ông Thần Khí của Ngài.
Đọc kỹ hơn Ga 20,19-31, chúng ta có thể rút ra những điểm chính sau đây:
1. Đức Giêsu đã hiện ra với các môn đệ và Ngài đã cho các ông xem tay và cạnh sườn mình, củng cố bằng chứng về việc Ngài đã thực sự phục sinh (x. c20). Việc hiện ra này cũng để thực hiện lời Ngài đã nói trước đó với các môn đệ: “Ít lâu nữa, anh em sẽ không còn trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy” (16,16).
2. Hai lần Đức Giêsu nói “bình an cho anh em” (x. cc19.21), kiện toàn lời Ngài đã hứa trong lúc nói lời chia tay các môn đệ: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến, cũng đừng sợ hãi” (14,27; đ/c 16,33).
3. Việc gặp gỡ Đức Giêsu Phục Sinh đã đem lại niềm vui cho các môn đệ, ứng nghiệm lời Ngài đã tiên báo: “Thật, Thầy bảo thật anh em: Anh em sẽ khóc lóc và than van, còn thế gian sẽ vui mừng. Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui” (16,20).
4. Đấng Phục Sinh thổi Thánh Thần vào các môn đệ. Sự kiện này nhắc nhớ đến St 2,7 khi Thiên Chúa thổi sinh khí vào Adam. Qua quà tặng là Chúa Thánh Thần, Đấng Phục Sinh mang lại sức sống mới cho các môn đệ, và qua các ngài, cho toàn nhân loại. Cùng với quà tặng đặc biệt là Chúa Thánh Thần, các môn đệ được ban năng quyền tha tội cho con người. 
5. Đấng Phục Sinh đã trao sứ mạng của riêng mình cho các môn đệ: “Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” (c.21). Đấng Phục Sinh sẽ sai họ đi theo cùng cách thức Chúa Cha đã sai Ngài (x. 13,16.20; 17,18).
6. Ông Tôma chẳng dễ tin vào những lời chứng của các môn đệ khác. Ông không chỉ muốn “được thấy Chúa”, mà còn được tự mình kiểm chứng dấu đinh nơi tay và dấu đòng nơi cạnh sườn Chúa (x. c25).
7. Trong lần hiện ra 8 ngày sau đó, Đấng Phục Sinh sẵn lòng cho ông Tôma thực hiện những điều ông muốn. Nhưng đồng thời, Ngài cũng mời gọi ông “đừng cứng lòng, nhưng hãy tin” (x. c27). Dịp này, ông Tôma đã diễn tả đức tin ở tầm mức cao nhất của người môn đệ vào Đức Giêsu: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (c28). Toàn bộ Tin Mừng Gioan được viết ra cũng nhằm mục đích này, đó là đưa người đọc đến niềm tin vào Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa, để qua đó, họ được sự sống nhờ danh Ngài (x. c31).
8. “Phúc cho những người không thấy mà tin” là lời chúc phúc Đấng Phục Sinh dành cho tất cả chúng ta, là những Kitô hữu đang tin vào Đức Giêsu Kitô không chỉ ngang qua lời chứng vị thánh sử Gioan về Ngôi Mộ Trống, về việc Đức Giêsu hiện ra với nhiều môn đệ, mà còn ngang qua kinh nghiệm thường ngày chúng ta có được với Đấng Phục Sinh, được thể hiện qua việc suy niệm và cầu nguyện với Lời Chúa, qua đời sống Phụng Vụ và các Bí Tích, qua việc tiếp xúc với nhiều người, qua công việc và những môi trường sống khác nhau, v.v.
II. GỢI Ý SUY TƯ PHẢN TỈNH
1. Tại sao các tín hữu thời sơ khai có thể sống được những nét đẹp như được trình bày trên đây? Ai là suối nguồn hiệp nhất cho họ? Tôi thấy mình cần phải noi gương các tín hữu thời sơ khai ở điểm nào? Tại sao và làm thế nào?
2. Đâu là những phẩm chất cần có nơi cộng đoàn tôi đang sống, nơi môi trường đức tin tôi đang thực hành, để khuôn mặt của Đấng Phục Sinh có thể được con người hôm nay dễ dàng nhận ra hơn?
3. Không có sự tách biệt giữa lòng mến Chúa và yêu người. Tôi có thể minh họa nhận định này thế nào qua kinh nghiệm sống của mình?
4. Thánh Gioan dạy chúng ta: “Chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm” (3,18). Điều này đã được cụ thể hóa thế nào nơi cuộc đời tôi? Nơi giáo xứ của tôi? Nơi cộng đoàn tu của tôi?
5. Đức Giêsu Phục Sinh đến ban bình an cho các môn đệ, đến trao ban Thánh Thần của Ngài cho họ, đến để củng cố những lời Ngài đã hứa trước đó, đến để sai các môn đệ ra đi thi hành sứ vụ của Ngài, đến để cho kẻ cứng lòng tin được dịp kiểm chứng và mời gọi kẻ ấy đặt lòng tin vào Ngài, đến để nói lời chúc phúc cho những kẻ không thấy mà tin. Trong Mùa Phục Sinh này, tôi cảm thấy mình mong đợi Đấng Phục Sinh đến để ban cho tôi điều gì? Tại sao?
6. Thiên Chúa đã thể hiện lòng xót thương của Người cho chúng ta thế nào qua biến cố Phục Sinh của Đức Giêsu Kitô, qua việc Ngài hiện ra với các môn đệ? Tôi còn nghiệm thấy Thiên Chúa đang tỏ lòng xót thương đối với tôi qua những cách thức nào khác?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Đức Giêsu Phục Sinh đã hiện ra để củng cố đức tin cho các tông đồ, ban bình an và Thánh Thần để các ông chu toàn sứ mạng được ủy thác. Trong tâm tình ngợi khen và cảm tạ Chúa, chúng ta cùng dâng lời nguyện xin.
1. “Như Cha đã sai Thầy thì Thầy cũng sai anh em.” Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho mọi thành phần trong Hội Thánh luôn ý thức và chu toàn sứ mạng loan báo Tin Mừng Phục Sinh qua những nỗ lực hiệp nhất và thực thi công bình bác ái.
 2. Bình an là quà tặng của Chúa Phục Sinh cho nhân loại. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho mọi người cùng mọi dân tộc trên thế giới được đón nhận bình an và sức sống của Chúa Kitô, tích cực cùng nhau xây dựng hoà bình và biểu dương công lý.
3. “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần.” Chúng ta cùng cầu xin cho những người đang hoang mang trong niềm tin và lạc hướng trong cuộc sống, được Thánh Thần của Đấng Phục Sinh nâng đỡ hướng dẫn, luôn sống trong niềm vui và bước đi trong ánh sáng.
4. “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con.” Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho mỗi người trong cộng đoàn chúng ta, biết can đảm tuyên xưng niềm tin của mình bằng một đời sống phó thác, dấn thân phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu Kitô, Đấng Phục Sinh vinh hiển, xin nhậm lời chúng con cầu nguyện và củng cố niềm tin nơi chúng con, để chúng con luôn trung thành bước theo Chúa và can đảm làm chứng cho Người giữa thế giới hôm nay. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.


CHỦ ĐỀ
BÀI GIÁO LÝ I VỀ CUỘC SỐNG KITÔ HỮU

TIN YÊU VÀ GIỮ CÁC GIỚI RĂN

"Phúc cho những ai không thấy mà tin"
(Ga 20,29)
Sợi chỉ đỏ
- Bài đọc I (Cv 4,32-35) : các kitô hữu ở giáo đoàn Giêrusalem thực hiện giới răn yêu thương bằng việc chia xẻ : họ đã tự nguyện để của riêng thành của chung.
- Bài đọc II (1 Ga 5,1-6) : nếu tin thì yêu, và nếu yêu thì giữ các giới răn Chúa.
- Bài Tin Mừng (Ga 20,19-30) : 2 mức độ tin : tin vì thấy và tin dù không thấy.
Như thế, bài giáo lý I này nhấn mạnh 3 điểm : tin, yêu và giữ giới răn.

I. DẪN VÀO THÁNH LỄ:
Mặc dù đã được tái sinh thành con Chúa qua bí tích Rửa tội, chúng ta vẫn còn rất yếu như một đưa trẻ sơ sinh. Chúng ta cần được nuôi dưỡng thêm  bằng Lời Chúa và bánh Thánh thể. Chúng ta cần được nâng đỡ bởi một cộng đoàn. Nhất là chúng ta cần được tác động bởi Chúa Thánh Thần. Ngày xưa Đức Giêsu phục sinh đã thổi hơi ban Thánh Thần cho các tông đồ, thì hôm nay chúng ta cũng xin Ngài ban Thánh Thần cho chúng ta và nói với chúng ta "Bình an cho chúng con".

II. GỢI Ý SÁM HỐI
- Chúng ta còn ích kỷ, cần được Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta tình bác ái huynh đệ.
- Chúng ta còn hoài nghi, cần được Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta lòng tin tưởng cậy trông.
- Chúng ta còn yếu tin, cần được Chúa Thánh Thần giúp cho đức tin chúng ta vững mạnh thêm.

III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I : Cv 4,32-35
Trong hai tác phẩm của mình là sách Tin Mừng và sách Công vụ, Thánh Luca thường viết những bảng toát yếu để thỉnh thoảng tóm lược lại những điểm chính của những đoạn mà Ngài đang viết. Trong phần thứ nhất của sách Công vụ (1,12—5,42) mô tả cách sống của các tín hữu trong giáo đoàn Giêrusalem tiên khởi, có 3 bảng toát yếu tóm lại những nét chính của cuộc sống này (2,42-47 ; 4,32-35 ; 5,12-16). Đoạn được chọn hôm nay là bảng toát yếu thứ hai. Ngoài những nét chung với 2 bảng toát yếu kia, nét riêng biệt của bảng này là việc để của riêng thành của chung :

- Đây không phải là một quy định có tính bó buộc (xem Cv 5,3-4 lời Phêrô nói với Khanania : "Khi đất còn đó, nó chẳng là của anh sao ? Bán đi rồi thì anh chẳng có quyền sử dụng tiền bán đó sao ?"), nhưng là việc làm tự nguyện để thực thi cách cụ thể giới luật yêu thương, vì yêu thương không phải chỉ bằng tình cảm hay bằng lời mà còn phải bằng hành động cụ thể.

- Thể thức : các tín hữu bán những bất động sản như ruộng đất, nhà cửa rồi đem tiền giao cho Hội Thánh giữ. Hội thánh phân phối lại cho các tín hữu theo nhu cầu từng người. Như thế, có kẻ góp ít (hoặc không góp gì) mà được hưởng nhiều và có kẻ góp nhiều mà được hưởng ít. Nhưng không ai phân bì, vì họ đã ý thức việc chia xẻ cho nhau.

- Kết quả là trong giáo đoàn không có ai phải túng thiếu.

2. Đáp ca : Tv 117
(như Chúa nhật I Ps)
Thánh vịnh này là tâm tình của người đã cảm nghiệm được tình thương và quyền năng của Thiên Chúa. Quyền năng và tình thương ấy đã chiến thắng tất cả, cho dù là khổ đau, là chết chóc. Tác giả muốn sống mãi để có thể ca tụng Thiên Chúa đến muôn đời.

3. Bài Tin Mừng : Ga 20,19-30
Đoạn này tường thuật hai cuộc hiện ra của Đức Giêsu phục sinh với các tông đồ cách nhau 8 ngày :

- Trong lần hiện ra thứ nhất, Đức Giêsu cho các ông thấy tay và cạnh sườn Ngài (tức là thấy những vết thương Ngài đã chịu trong cuộc chịu nạn). Khi thấy những dấu chứng đó, các tông đồ đã tin rằng người đang ở trước mặt họ là Thầy họ nên họ vui mừng. Sau đó, Đức Giêsu ban Thánh Thần cho các ông và sai các ông đi (nhưng chưa nói là đi đâu và đi để làm gì). Nhưng lần đó không có mặt Tôma. Khi Tôma trở về và được các tông đồ kia thuật lại thì ông không tin. Ông đòi điều kiện là phải thấy (chẳng những thấy mà còn sờ) những thương tích của Đức Giêsu thì mới tin.

- 8 ngày sau, Đức Giêsu hiện ra lần thứ hai. Lần này có mặt Tôma. Đức Giêsu bảo riêng Tôma hãy đưa tay ông ra chạm trực tiếp vào các vết thương của Ngài. Nhưng khi đó Tôma không còn bảo lưu yêu cầu thấy của mình nữa. Ông tuyên xưng đức tin ngay. Ông gọi Đức Giêsu là "Chúa" và là "Thiên Chúa". Tôma đã vươn tới mức độ cao của đức tin : tin mà không cần thấy.

Như thế đoạn Tin Mừng này trình bày hai mức độ tin : mức độ thấp là tin vì thấy, nghĩa là tin dựa vào bằng chứng ; mức độ cao là tin mà không cần thấy, nghĩa là tin không dựa trên bằng chứng mà dựa trên tình yêu.

Đức Giêsu đánh giá mức độ thứ hai là cao hơn, và kêu gọi chúng ta – qua lời nói với Tôma - hãy cố vươn lên mức độ cao ấy : "Tôma, vì con đã xem thấy Thầy nên con tin. Nhưng phúc cho kẻ nào không thấy mà tin".

4. Bài đọc II : 1 Ga 5,1-6
Lý do khiến thánh Gioan viết bức thư này là để giúp tín hữu khỏi bị lây nhiễm những tư tưởng sai lệch của thuyết ngộ đạo.

Nói một cách rất tóm lược, thuyết ngộ đạo chủ trương rằng chỉ cần biết ("ngộ") thì được cứu độ. Đành rằng "biết" là một điều rất quan trọng (trong quyển Tin Mừng thứ tư, thánh Gioan cũng rất nhấn mạnh vào sự "biết" này), nhưng sai lầm của thuyết này là do quá đề cao sự "biết" nên bỏ đi hai điều khác cũng quan trọng không kém, đó là tin và yêu. Trong đoạn thư này, thánh Gioan lưu ý tín hữu về hai điều ấy :

- Tín hữu là người đã tin rằng Đức Giêsu là Kitô. Mà tin vào Đức Giêsu Kitô thì cũng phải yêu mến Đấng đã sinh ra Đức Giêsu Kitô, tức là Thiên Chúa.

- Mà làm sao để biết mình yêu mến Thiên Chúa ? Thưa là qua cách sống cụ thể là thực hành các giới răn của Ngài.

IV. GỢI Ý GIẢNG:

* 1. Hành trình của Tôma
Hành trình của Tôma đi qua ba giai đoạn : vắng mặt – hồ nghi – và tuyên xưng đức tin. Đó cũng là hành trình đức tin của kitô hữu chúng ta.

- Khi Đức Giêsu hiện ra lần thứ nhất, Tôma không có mặt, cho nên ông không tin. Ông đòi thấy bằng chứng rồi mới tin. Thế nhưng nếu có bằng chứng rồi thì đã là chuyện hiển nhiên, đâu còn phải là đức tin nữa. Đức tin không thuộc phạm vi khoa học hay lý luận, nên không dựa trên bằng chứng.

- Nhưng đức tin không phải là mù quáng. Tuy không đòi bằng chứng nhưng phải có lý do. Lý do để tin là lời làm chứng của những người có uy tín. Tôma chưa tin khi nghe lời thuật của các bạn, nhưng khi nghe lời của Đức Giêsu thì ông tin ngay. Sau này ông còn trở thành nhân chứng để cho nhiều người khác cùng tin nữa. Tin theo lời làm chứng của ai đó bao hàm một tình cảm với người đó : vì mình có tình cảm với người đó nên khi người ấy nói thì mình tin. Điều này làm nên giá trị của sự tin vào lời chứng, cho nên Đức Giêsu nói "Phúc cho kẻ không thấy mà tin".

- Lý do để tin còn là những dấu chỉ. Dấu chỉ Đức Giêsu cho Tôma là những thương tích của Ngài. Chỉ cần thấy những dấu chỉ ấy, ông không đòi đụng chạm và sờ mó nữa, ông tin ngay. Ngày nay chúng ta không thấy Chúa, nhưng chúng ta có những dấu chỉ Ngài ban, đó là các bí tích, các biến cố và gương sống quảng đại của các tín hữu nhiệt thành. Chính chúng ta cũng phải là những dấu chỉ cho người khác nhận biết Chúa.

* 2. Hạnh phúc của tín hữu Giêrusalem
Các tín hữu Giêrusalem đã thể hiện đức tin bằng việc chia xẻ, không phải chia xẻ những cái mình dư thừa mà chia xẻ chính tiền bạc và tài sản của mình. "Đồng tiền liền khúc ruột", chia xẻ tất cả tiền bạc của mình là chia xẻ chính sự sống của mình.

Kết quả của chia xẻ như thế là trong Hội Thánh không có ai bị túng thiếu và mọi người đều hạnh phúc.

Gương của các tín hữu Giêrusalem cho chúng ta hiểu được rằng : một đức tin sống động sẽ biến thành tình yêu. Và khi sống đức tin và tình yêu như thế thì người ta sẽ hạnh phúc, vì khi đó người ta sống sự sống của chính Thiên Chúa, Đấng luôn yêu thương và chia xẻ.

* 3. Dấu chỉ của yêu thương
Làm sao biết được người đó thực sự yêu thương ta ?

- Có phải vì người đó luôn quấn quít bên ta ? Chưa chắc.
- Có phải vì người đó thường tặng quà cho ta ? Chưa chắc.
- Có phải vì người đó đề nghị sống chung với ta ? Chưa chắc.

Người thương ta thật là người tế nhị biết ý của ta và luôn làm theo ý ta.
Đó là điều Thánh Gioan nói : "Cứ dấu này chúng ta nhận biết rằng chúng ta yêu mến Thiên Chúa, là chúng ta thực hành các giới răn của Ngài".
* 4. Phúc cho ai không thấy mà tin
Bài Tin Mừng này khiến tôi phải suy nghĩ rất nhiều.
Điều thứ nhất khiến tôi suy nghĩ là điều kiện mà Tôma đặt ra : "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Ngài, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Ngài thì tôi không tin". Mặc dù xem ra Đức Giêsu không tán thành thái độ của Tôma, nhưng trong thâm tâm tôi, tôi vẫn tán thành, bởi vì đó là thái độ của người chín chắn, cẩn thận, không nhẹ dạ. Trong những giao tế xã hội, tôi vẫn giữ thái độ cẩn thận ấy. Chẳng hạn khi tôi đi mua hàng, tôi không thể chỉ dựa vào những lời quảng cáo của người bán hàng để rồi mau chóng tin theo mà bỏ tiền ra mua ngay một món hàng mà tôi chưa thử. Huống chi câu chuyện mà Tôma nghe các bạn thuật lại là một chuyện "động trời" chưa bao giờ xảy ra : một người chết sống lại ! Đòi hỏi phải kiểm nghiệm xong rồi mới tin là một đòi hỏi hợp lý.
Nhưng khi tôi tán thành với Tôma, phải chăng là tôi không tán thành với Đức Giêsu ? Ngài đòi tôi "không thấy mà tin". Phải chăng Ngài đòi hỏi một điều không hợp lý ?
Suy nghĩ thêm, tôi mới hiểu rằng Đức Giêsu không coi nhẹ sự hợp lý, nhưng Ngài đề cao sự hợp tình. Trong tương quan giữa những người yêu thương nhau, không nên cái gì cũng đối xử với nhau bằng lý, mà phải đối xử với nhau bằng tình. Thí dụ cha mẹ nói với đứa con rằng "Con đừng thọc tay vào ổ điện nhé, điện giật chết đấy !" Nếu đứa con không tin, đòi thử nghiệm xong rồi mới tin thì nó sẽ ra sao ? Nó phải tin cha mẹ chứ, vì nó biết cha mẹ yêu thương nó. Vì Đức Giêsu yêu tôi nên Ngài có quyền đòi hỏi cao hơn sự hợp lý, Ngài có quyền đòi hỏi sự hợp tình.
Tôi cũng suy nghĩ về chữ "Phúc" trong câu Đức Giêsu nói với Tôma : "Phúc cho những ai không thấy mà tin". Đọc Tin Mừng theo Thánh Matthêu, tôi đã biết có tám mối phúc. Bây giờ tôi biết thêm mối phúc thứ chín nữa. Tại sao không thấy mà tin thì có phúc ? Tôi nghĩ rằng hạnh phúc thường đi đôi với tình yêu. Khi yêu ai thì người ta dễ tin vào người ấy. Tin thể hiện Yêu, và chính vì yêu nên hạnh phúc. Đến đây tôi khám phá một dây liên hệ giữa ba điều : Yêu – Tin – và Hạnh phúc.
Và kết luận tôi rút ra được từ bài Tin Mừng này là :
- Trong tương quan với những người không thân thiết lắm, tôi có thể cẩn thận đòi hỏi sự hợp lý.
- Nhưng trong tương quan với những người thân yêu, tôi phải cư xử sao cho hợp tình.
- Nhất là trong tương quan với Chúa, tôi phải tin Ngài để chứng tỏ là tôi yêu Ngài. Và nếu tôi tin yêu Ngài như thế thì tôi là người hạnh phúc.
Cha Anthony de Mello kể một câu chuyện về vị tu sĩ Hồi Giáo Nasruddin như sau :
Một ngày nọ, nhà của thầy bốc cháy. Để được an toàn, thầy vội trèo lên mái nhà. Các bạn hữu tụ tập bên dưới rất lo lắng, vì mạng sống Thầy chỉ còn "ngàn cân treo sợi tóc". Họ liền căng một tấm thảm, giữ lấy bốn góc rồi giơ cao và hô lớn :
- Nhảy đi, Thầy nhảy xuống đi !
Thầy Nasruddin nói :
- Không được, tôi không nhảy đâu. Thế nào các anh cũng rút tấm thảm đi, để biến tôi thành một trò hề !
- Ôi, Thầy ơi ! Không phải trò đùa đâu, Thầy nhảy mau đi !
Thầy Nasruddin vẫn ngoan cố :
- Không ! Tôi chẳng tin ai cả. Cứ trải thảm xuống đất đi, tôi sẽ nhảy.
*
Tin là chấp nhận bấp bênh, là chấp nhận có thể bị lừa dối. Nhưng không thể sống mà không tin. Người ta không thể nói : "Có thấy mới tin". Trên đời này có biết bao điều chúng ta không thấy mà vẫn tin. Chẳng ai thấy rõ lòng dạ con người, nhưng họ vẫn tin vào tình yêu, tình vợ chồng, tình bạn, tình làng xóm… Người ta cũng không thể nói : "Tôi chỉ tin vào Chúa nếu có bằng chứng". Paul Misraki nói : "Nếu bạn chỉ đợi có bằng chứng mới tin, thì đức tin đã trở thành khoa học rồi".
Khủng hoảng lớn nhất của thế giới ngày nay là khủng hoảng niềm tin. Người tín hữu Kitô luôn được mời gọi hãy giữ vững niềm tin.
- Tin vào Thiên Chúa và tin vào con người.
- Tin vào thế giới do Người tạo nên.
- Tin vào cuộc đời mà Người gởi ta đến.
- Tin vào vẻ đẹp và hạnh phúc Người tặng ban.
"Phúc cho ai không thấy mà tin" (Ga.20,28). Người tín hữu Kitô là những người không thấy mà tin. Họ không thấy Chúa bằng con mắt thường, nhưng họ thấy Người bằng con mắt đức tin. Họ không thấy Chúa bằng giác quan, nhưng họ thấy Người với cả trái tim. Thiên Chúa muốn cho giác quan chúng ta ra tăm tối, để niềm tin được ăn rễ sâu trong Người.
Miguel de Unamuno viết : "Tôi tin vào Thiên Chúa như tin vào một người bạn, vì tôi cảm nhận được hơi thở tình yêu của Người, cảm nhận được bàn tay vô hình và khả giác của Người tác động đến tôi".
Nhà sinh vật học Jean Henry Fabre sau 87 năm khảo sát và suy tư đã phải thốt lên : "Tôi không thể nói rằng tôi tin vào Thiên Chúa, mà là tôi trông thấy Người". Thấy Chúa là Cha rất nhân từ hằng yêu thương chăm sóc con người, và thấy mọi người là anh em với nhau. Cha Michel Quoist có viết : "Tin Chúa, không phải là hướng mắt về Người để chiêm ngưỡng, nhưng đồng thời cũng là nhìn vào trần gian với ánh mắt của Đức Kitô".
*
Lạy Chúa, xin cho chúng con được thấy Chúa đi ngang qua cuộc đời chúng con, để chúng con tin Chúa đang sống động, hiện diện, thật gần, ngay bên cạnh chúng con, trong cuộc sống và trong người anh em. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")

* 6. Mảnh suy tư
- Điều cốt yếu thường không nhìn thấy được.
- Thế giới hữu hình chỉ là một phần của thế giới rộng lớn hơn bao gồm nhiều điều vô hình.
- Nhiều khi thị giác, thính giác và xúc giác lại là trở ngại cho cảm xúc và suy nghĩ.
- Đôi khi cần phải tin thì mới thấy được.
- Tối quá người ta không thấy, nhưng sáng quá người ta cũng chẳng thấy.

V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế : Anh chị em thân mến, thánh Tôma đã đòi đụng chạm đến Đức Giêsu Phục sinh để có dấu hiệu chắc chắn nâng đỡ niêm tin của mình. Niềm tin của chúng ta cũng còn yếu kém lắm, chúng ta hãy sốt sắng nguyện xin :

1. Xin cho Hội thánh Chúa ngày nay / là những người chỉ gặp Đức Giêsu trong đức tin / luôn vững tin vào Chúa Phục sinh / để nâng đỡ niềm tin cho nhiều người khác.
2. Xin cho những người còn "cứng lòng tin" trên khắc thế giới / có được cơ hội gặp gỡ Đức Giêsu để dẹp bỏ thành kiến và mặc cảm / mà đón nhận tình thương cứu độ của Người.
3. Xin cho những người đang gặp khủng hoảng về đức tin / hoặc đánh mất niềm tin vì gặp nhiều gian nan thử thách / tìm được những người biết cảm thông và chia sẻ niềm tin cho họ.
4. Xin cho mọi người trong họ đạo chúng ta biết nêu gương sáng về đức tin cho nhau / bằng việc sống đức tin và truyền bá đức tin cho người khác.
Chủ tế  : Lạy Đức Giêsu, Chúa đã phán rằng : "Phúc cho ai không thấy mà tin". Xin cho chúng con là những người không được thấy Chúa, cũng luôn vững vàng tin rằng Chúa đã sống lại và ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận thế. Chúa là đáng hằng sống và hiển trị muôn đời.

VI. TRONG THÁNH LỄ
- Trước kinh Lạy Cha : Nhờ Đức Kitô, với Đức Kitô và trong Đức Kitô, chúng ta đã trở thành con Thiên Chúa. Vậy chúng ta cũng hãy cùng với Ngài và trong Ngài dâng lên Thiên Chúa lời kinh Lạy Cha.
- Chúc bình an : Sau khi sống lại, Đức Giêsu đã ban bình an cho các môn đệ. Giờ đây chúng ta cũng hãy chúc cho nhau được bình an.

VII.  GIẢI TÁN
Anh chị em hãy nhớ lời Đức Giêsu nói trong bài Tin Mừng hôm nay "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con". Chúa sai anh chị em đi, anh chị em hãy đi bình an.

Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI

Lectio Divina: Chúa Nhật II Phục Sinh (B)
Chúa Nhật, 12 Tháng 4, 2015
Sứ vụ của các môn đệ và  
Lời chứng của Tông Đồ Tôma
Ga 20:19-31 


1.  Lời nguyện mở đầu

Lạy Cha, Đấng trong ngày của Chúa đã tề tựu con cái Người để ca tụng Đấng Trước Hết và là Sau Hết, Đấng hằng sống đã chiến thắng sự chết, xin ban cho chúng con sức mạnh của Chúa Thánh Thần, Đấng đã chế ngự được sự dữ, để làm trầm tĩnh các sự lo lắng và do dự của chúng con, xin cho chúng con có thể mạnh dạn đáp trả với sự vâng lời và lòng yêu mến, để ngự trị trong vinh quang với Đức Kitô.
2.  Bài Đọc
a)  Chìa khóa dẫn đến bài đọc:

Chúng ta đang đọc ở trong quyển được gọi là “sách của sự sống lại”, trong đó chúng ta được cho biết, không hẳn theo một thứ tự hợp lý, một số sự việc liên quan đến việc Đức Kitô Phục Sinh và các sự thật chứng minh điều đó.  Theo sách Tin Mừng thứ tư, những sự việc đã được xảy ra vào buổi sáng (20:1-18) và buổi tối ngày đầu tiên sau ngày thứ bảy, và tám ngày sau đó, tại cùng một địa điểm và cùng ngày trong tuần.  Chúng ta đang đứng trước một biến cố quan trọng nhất trong lịch sử loài người, một biến cố thách đố từng bản thân chúng ta.  Thánh Phaolô tông đồ đã nói:  “Nếu Đức Kitô đã không sống lại thì việc rao truyền của chúng ta trở thành vô ích và đức tin của chúng ta cũng nên vô dụng … và chúng ta vẫn còn sống trong tội lỗi” (1Cr 15:14, 17), vị tông đồ đã không biết Đức Giêsu trước khi Người phục sinh, nhưng lại là người sau này đã đi rao giảng một cách thiết tha trọn cả quãng đời của ông.  Chúa Giêsu được sai đi bởi Chúa Cha.  Và Chúa cũng sai chúng ta đi. Sự sốt sắng của chúng ta để “đi” xuất phát từ chiều sâu đức tin của chúng ta vào Đấng Đã Sống Lại.  Chúng ta có sẵn sàng để nhận lãnh “sự ủy thác” của Người và dâng hiến cuộc đời chúng ta cho Nước Trời của Người chưa?  Đoạn Tin Mừng này không chỉ nói về đức tin của những kẻ chưa thấy (lời chứng của Tôma), nhưng nó còn nói về sứ vụ được ủy thác cho Giáo Hội bởi Đức Kitô.

b)  Phân đoạn bài Tin Mừng để trợ giúp cho bài đọc:

Ga 20:19-20:  Chúa hiện ra với các môn đệ và cho các ông xem những vết thương
Ga 20:21-23:  Ân sủng Chúa Thánh Thần ban cho sứ vụ
Ga 20:24-26:  Chúa hiện ra đặc biệt với ông Tôma tám ngày sau đó
Ga 20:27-29:  Cuộc đối thoại của Chúa với Tôma
Ga 20:30-31:  Mục đích của bài Phúc Âm theo thánh Gioan

c)  Phúc Âm:

19  Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do Thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho các con”.  20 Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người.  Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa.  21 Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng:  “Bình an cho các con.  Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”.  22 Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông:  “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, 23 các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha.  Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại”.
24 Bấy giờ trong mười hai tông đồ, có ông Tôma gọi là Điđymô, không cùng ở với các ông, khi Chúa Giêsu hiện đến. 25 Các môn đệ khác đã nói với ông rằng: “Chúng tôi đã xem thấy Chúa”.  Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng:  “Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin”.
26 Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán:  “Bình an cho các con”.  27 Đoạn Người nói với Tôma:  “Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin”.  28 Tôma thưa rằng:  “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi!” 29 Chúa Giêsu nói với ông:  “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin.  Phúc cho những ai đã không thấy mà tin”.
30  Chúa Giêsu còn làm nhiều phép lạ khác trước mặt các môn đệ, và không có ghi chép trong sách này;  31 nhưng các điều này đã được ghi chép để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người.

 3.  Giây phút cầu nguyện trong thinh lặng


Để cho Lời Chúa được thấm nhập vào tâm hồn chúng ta

4.  Suy Niệm

a)  Một vài câu hỏi gợi ý để giúp cho sự suy niệm của chúng ta:

Người nào hoặc điều gì trong bài Tin Mừng đã tạo sự chú ý và thích thú cho tôi? Có thể nào một người tự nhận là Kitô hữu mà lại chưa tin vào sự Phục Sinh của Chúa Giêsu được chăng?  Việc tin vào sự phục sinh thật là quan trọng đến mức như thế ư?  Điều gì sẽ bị thay đổi nếu chúng ta không còn rao giảng Lời Chúa và không tiếp tục làm chứng nhân của cuộc sống?  Ân sủng của Chúa Thánh Thần cho sứ vụ có ý nghĩa gì đối với tôi?  Sứ vụ của Đức Giêsu trên thế gian được tiếp tục như thế nào sau khi Chúa Phục Sinh?  Nội dung của bản công bố sứ vụ truyền giáo là gì?  Việc làm chứng của ông Tôma mang một giá trị gì đối với tôi?  Tôi có sự nghi ngờ nào về tín lý không?  Nếu có, đó là những điều gì?  Tôi sẽ giải quyết và vượt qua những nghi ngại ấy bằng cách nào? Tôi có khả năng biện minh cho đức tin của tôi không?

b)  Dẫn giải:

Vào buổi chiều cùng ngày, ngày thứ nhất trong tuần:  Các môn đệ đang trải qua một ngày đặc biệt.  Đối với cộng đoàn, vào lúc quyển Tin Mừng thứ tư được viết, ngày sau ngày Sabát đã là “ngày của Chúa” (Kh 1:10), Chúa Nhật (Dies Domini), và nó còn quan trọng hơn cả ngày Sabbát trong truyền thống của người Do Thái.

Những cửa nhà các môn đệ đều đóng kín:  Một chi tiết cho thấy rằng thân thể của Đức Giêsu phục sinh, dù rằng vẫn có thể nhận ra, đã không bị chi phối bởi các điều kiện vật lý như người phàm.

Bình an cho các con:  Đây không phải là một lời ước nguyện, nhưng đó chính là sự bình an thực sự đã được hứa hẹn với các ông khi các ông buồn rầu vì cái chết của Chúa (Ga 14:27; 2Tx 3:16; Rm 5:3), sự bình an cứu chuộc, sự viên mãn những lời hứa bởi Thiên Chúa, giải thoát khỏi tất cả mọi sợ hãi, chiến thắng tội lỗi và cõi chết, giao hòa với Thiên Chúa, hoa trái cuộc khổ nạn của Người, tặng phẩm cho không từ Thiên Chúa.  Sự bình an này được lặp lại ba lần trong đoạn Kinh Thánh này cũng như trong phần dẫn nhập (20:19) và tiếp theo sau đó (20:26) trong cùng một thể cách.

Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người:  Chúa Giêsu cho thấy bằng chứng hiển nhiên và rõ ràng rằng chính Người là kẻ đã bị đóng đinh vào thập giá. Chỉ có Gioan đã ghi lại chi tiết về vết thương nơi cạnh sườn Người là do ngọn giáo của một tên lính La-mã đâm vào, trong khi ấy Phúc Âm của Luca lại nhắc đến vết thương nơi chân (Lc 24:39).  Khi cho các môn đệ xem các vết thương, Chúa Giêsu muốn nói rằng sự bình an mà Người ban tặng cho các ông đến từ cây thập giá (2Tm 2:1-13).  Những vết thương này là một phần căn tính của Người như Đấng Đã Sống Lại Từ Cõi Chết (Kh 5:6).

Các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa:  Niềm vui mừng này giống như niềm vui mừng được diễn tả bởi tiên tri Isaia khi ông diễn tả về bữa tiệc thiêng liêng (Is 25:8-9), nỗi vui ngày tận thế đã được báo trước trong lời từ biệt và rằng không ai có thể cất đi được (Ga 16:22, 20:27).  (Xin xem thêm Lc 24:39-40; Mt 28:8; Lc 24:41).

Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con:  Chúa Giêsu là người truyền giáo đầu tiên, “chúng tôi xác nhận là tông đồ và vị linh mục thượng tế của đức tin” (Kh 3:1). Sau khi trải qua kinh nghiệm của thập giá và sự phục sinh, lời cầu nguyện của Chúa Giêsu cùng Chúa Cha đã trở thành sự thật (Ga 13:20; 17:18; 21:15, 17).  Đây không phải là một sứ vụ mới, nhưng đó là sứ vụ của Đức Giêsu mở rộng đến những người là môn đệ của Chúa, gắn liền với Người như các cành nho gắn liền với cây nho (15:9), vì thế các môn đệ cũng gắn liền với Giáo Hội của Người (Mt 28:18-20; Mc 16:15-18; Lc 24:47-49).  Con Thiên Chúa hằng sống đã được sai đến thế gian để “thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” (Ga 3:17) và tất cả sự hiện diện của Người trên thế gian, được gắn bó với ý định cứu chuộc của Chúa Cha, là sự hiện diện liên tục của thánh ý Chúa để cho tất cả được cứu rỗi. Người lưu lại như một di sản cuộc cứu chuộc lịch sử này cho toàn thể Giáo Hội và, nhất là những người đã được tuyển chọn trong Giáo Hội.

Người thổi hơi vào các môn đệ:  Cử chỉ này gợi nhớ lại việc Thiên Chúa đã thổi hơi ban sức sống vào con người (St 2:7), việc này đã không thấy nhắc đến một nơi nào khác trong Tân Ước.  Nó đánh dấu cho sự khởi đầu của một cuộc tác tạo mới.

Hãy nhận lấy Thánh Thần:  Sau khi Đức Giêsu đã được tôn vinh, Thần Khí Chúa sẽ được trao ban (Ga 7:39).  Ở đây Thần Khí được truyền đến cho một sứ vụ đặc biệt, trong ngày Lễ Ngũ Tuần (Cv 2) Chúa Thánh Linh hiện xuống trên toàn thể dân Thiên Chúa.

Các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha.  Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại:  Chúng ta cũng có thể tìm thấy quyền năng của việc tha tội hoặc không tha tội trong Phúc Âm của thánh Mátthêu dưới một hình thức có vẻ pháp lý hơn (Mt 16:19; 18:18).  Theo những người Luật Sĩ và Biệt Phái (Mc 2:7), và theo truyền thống (Is 43:25), chỉ có Thiên Chúa là đấng có quyền tha tội.  Chúa Giêsu có quyền này (Lc 5:24) và Người truyền lại cho Giáo Hội Người.  Trong lúc suy niệm, tốt hơn hết là chúng ta không nên vướng bận với lời văn của sự phát triển về thần học trong truyền thống giáo hội và những cuộc tranh cãi về thần học sau đó.  Trong quyển Tin Mừng thứ tư, sự diễn đạt có thể được hiểu theo một ý nghĩa rộng.  Ở đây nó là vấn đề về quyền tha tội trong Giáo Hội như là cộng đoàn cứu rỗi và một cách đặc biệt cho những ai đã được tuyển chọn với quyền năng này là những người chia sẻ trong các đặc sủng qua sự thừa kế và sứ vụ tông đồ.  Trong quyền năng tổng quát này được bao gồm cả quyền tha tội sau khi đã rửa tội, mà chúng ta gọi là “bí tích hòa giải” được nhắc đến qua nhiều hình thức khác nhau trong suốt chiều dài lịch sử của Giáo Hội.

Bấy giờ trong nhóm Mười Hai tông đồ, có ông Tôma gọi là Điđymô:  Ông Tôma là một trong những nhân vật chính trong quyển Phúc Âm thứ tư và đặc tính đa nghi của ông, dễ bị hoang mang nản lòng, đã được làm nổi bật (11:16; 14:5).  “Một môn đệ trong Nhóm Mười Hai” vào bấy giờ là một lời nói khuôn sáo (6:71), bởi vì thật ra họ chỉ còn lại mười một người.  “Điđymô”  có nghĩa là “Sinh Đôi”, và chúng ta có thể cũng là “anh em song sinh” của ông bởi vì sự cứng lòng tin của chúng ta vào Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, Đấng đã chết và đã sống lại.

Chúng tôi đã xem thấy Chúa!  Khi các ông Anrê, Gioan, và Philípphê đã gặp được Đấng Cứu Thế, họ liền chạy đi loan báo cho các người khác (Ga 1:41-45).  Bây giờ lại có lời tuyên bố chính thức bởi những người chứng tận mắt (Ga 20:18).

Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin:  Ông Tôma không tin lời những người chứng.  Ông muốn chính mình chứng kiến tận mắt. Quyển Tin Mừng thứ tư ý thức về sự khó khăn rằng có một số người có thể có lòng hoài nghi về việc Chúa Phục Sinh (Lc 24:34-40; Mc 16:11; 1Cr 15:5-8), nhất là những kẻ chưa được gặp Đấng Đã Sống Lại.  Tôma là người diễn đạt cho họ (và cho cả chúng ta).  Ông đã sẵn sàng để tin, nhưng ông muốn làm sáng tỏ tất cả những hoài nghi riêng trong lòng, vì lo rằng sẽ bị sai lầm.  Chúa Giêsu đã không nhìn Tôma như một người theo chủ nghĩa hoài nghi, mà xem ông như một người muốn đi tìm sự thật và mong muốn được đáp ứng trọn vẹn.  Tuy nhiên, đây là một dịp để thể hiện một sự cảm kích các tín hữu tương lai (Câu 29).

Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy.  Hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy.  Chớ cứng lòng, nhưng hãy tin!  Chúa Giêsu lặp lại những lời của Tôma và bắt đầu cuộc đối thoại với ông.  Người hiểu lòng hoài nghi và các ước muốn của Tôma nên giúp ông.  Chúa Giêsu biết rằng Tôma yêu mến Chúa và vì vậy Người động lòng trắc ẩn vì Tôma chưa tận hưởng được sự bình an đến từ đức tin.  Chúa Giêsu giúp ông lớn lên trong đức tin.  Để đi sâu hơn vào trong chủ đề này, chúng ta có thể đọc thêm: 1Ga 1-2; Tv 78:38; 103:13-14; Rm 5:20; 1Tm 1:14-16.

Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi!:  Đây là lời tuyên xưng đức tin vào Đấng Đã Sống Lại và vào thiên tính của Người như đã được công bố ở chương đầu của Phúc Âm theo thánh Gioan (1:1).  Trong Cựu Ước, những chữ “Chúa” và “Thiên Chúa” được tương ứng với các chữ “Giavê” và “Elohim” (Tv 35:23-24; Kh 4:11). Đây là lời tuyên xưng đức tin vào bản tính Thiên Chúa của Đức Giêsu Phục Sinh một cách đầy đủ và trực tiếp nhất.  Đối với những người Do Thái, các từ ngữ này mang một ý nghĩa giá trị hơn vì họ đã dùng trong các văn bản về Chúa Giêsu liên quan đến bản tính Thiên Chúa.  Chúa Giêsu đã không chỉnh sửa những lời của Tôma như Người đã hiệu chỉnh những lời mà các người Do Thái đã dùng để buộc tội Người là đã mong muốn được “bằng Thiên Chúa” (Ga 5:18 và các câu tiếp theo); do đó Chúa đã xác nhận việc mang bản tính Thiên Chúa của Người.

Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin.  Phúc cho những ai đã không thấy mà tin!  Chúa Giêsu không thể tha thứ cho những kẻ chỉ biết đi tìm những dấu lạ và điềm thiêng để mà tin (Ga 4:48) và Người đã dùng ông Tôma để chỉnh đốn việc ấy. Ở đây chúng ta nên nhớ đến một đoạn Phúc Âm khác nói về một đức tin chân chính hơn, một “phương cách hoàn hảo” hướng về một đức tin mà chúng ta phải khao khát nhưng không có các điều đòi hỏi của Tôma, một đức tin được nhận lãnh như một món quà tặng và như là một hành động của lòng tin, giống như gương đức tin của cha ông chúng ta (Kh 11) và của Đức Maria (Lc 1:45).  Chúng ta, những người sống sau Chúa Giêsu hai ngàn năm, đã được bảo cho biết về Người, dù rằng chúng ta chưa hề gặp Người, nhưng chúng ta vẫn có thể yêu mến và tin tưởng vào Người để chúng ta có thể chan chứa với “một niềm vui vinh quang và rực rỡ khôn tả” (1Pr 1:8).

Các điều đã được ghi chép để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người:  Sách Phúc Âm thứ tư, cũng như các sách Phúc Âm khác, không là phương tiện để viết một cuốn tiểu sử đầy đủ về Chúa Giêsu, nhưng chỉ để cho chúng ta biết là Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, Đấng Mêssia đang được mong đợi, Đấng Giải Thoát, và Người chính là Con Thiên Chúa.  Tin tưởng vào Người có nghĩa là chúng ta có sự sống đời đời.  Nếu Đức Giêsu không phải là Thiên Chúa, thì đức tin của chúng ta trở nên vô ích!

5.  Cầu Nguyện

Thánh Vịnh 118 (117)

Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ;
Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương!
Israel hãy nói lên rằng:
“Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương”.
Nhà Aaron hãy nói lên rằng:
“Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương”.
Ai kính sợ CHÚA hãy nói lên rằng:
“Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương”.

Chúng xô đẩy tôi, xô cho tôi ngã,
nhưng Chúa đã phù trợ thân này.
Chúa là sức mạnh tôi, là Đấng tôi ca ngợi;
chính Người cứu độ tôi.
Kìa nghe tiếng reo mừng chiến thắng trong doanh trại chính nhân:

Tảng đá mà người thợ xây loại bỏ
lại trở nên tảng đá chính góc tường.
Đó chính là công trình của Chúa;
công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta.
Đây là ngày Chúa đã làm ra,
nào ta hãy vui mừng hoan hỷ.
Lạy Chúa, xin ban ơn cứu độ, lạy Chúa! 
Ôi lạy Chúa, xin thương giúp thành công.
6.  Chiêm Niệm

Lời nguyện kết

Lạy Chúa Giêsu, con xin cảm tạ Chúa, Chúa là Chúa của con và là Thiên Chúa của con, Chúa đã yêu thương con và đã cất tiếng gọi con, Người đã cất nhắc con trở thành môn đệ Chúa.  Chúa đã ban cho con Thần Khí Chúa, Đấng được sai đến, để con ra đi công bố và làm chứng cho sự phục sinh của Chúa, về lòng từ ái của Chúa Cha, để cho mọi người trên thế giới được nhận lãnh ơn cứu độ.  Chúa chính là đường, là sự thật và là sự sống, Chúa là ánh bình minh không bao giờ xế tà, là vầng thái dương của công lý và hòa bình.  Xin Chúa hãy ban cho con được cư ngụ trong tình yêu của Chúa, xin ràng buộc con vào Chúa như cành nho gắn liền với cây nho.  Xin Chúa hãy ban cho con sự bình an của Chúa để con có thể khắc phục được những yếu đuối của con, đối diện với những nghi ngại của con và mạnh dạn bước theo ơn gọi của Chúa và để con sống trọn vẹn với nhiệm vụ Chúa đã giao phó cho con, ca tụng Chúa đến muôn đời.  Chúa là đấng hằng sống, hằng trị muôn đời.  Amen.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét