28/06/2016
Thứ ba tuần 13 thường niên
Thánh Irênê, giám mục, tử đạo.
Lễ nhớ
* Chào đời khoảng năm
130, lớn lên học ở Miếc-na,
Irênê trở thành môn đệ của thánh Pô-ly-cáp, giám mục thành này. Năm 177, người chịu chức linh mục tại Ly-ông (Pháp). Sau đó một thời gian
ngắn, người làm giám mục giáo phận này. Trong nhiệm vụ mục tử, người lo loan báo Tin Mừng cho
các dân xứ Gô-lơ, nhưng người cũng
lo bảo vệ đức tin tinh tuyền, chống lại những sai lầm của phái ngộ đạo. Các tác phẩm của người cho ta
có được cái nhìn sâu sắc về kế hoạch của Thiên Chúa, về ơn gọi của con người và mầu nhiệm Hội Thánh. Người lãnh nhận triều thiên tử đạo khoảng năm 200.
Bài Ðọc I: (Năm II) Am 3,
1-8; 4, 11-12
"Chúa
phán: Ai lại chẳng nói tiên tri".
Trích
sách Tiên tri Amos.
Hỡi
con cái Israel, hãy nghe lời Chúa phán về các ngươi, và cả dòng giống mà Ta đã
đem ra khỏi đất Ai-cập: "Trong muôn dân trên mặt đất, Ta chỉ nhận biết một
mình các ngươi. Vì thế, Ta sẽ đến sát hạch các ngươi về mọi gian ác của các
ngươi. Hai người, nếu không đồng ý với nhau, có bao giờ lại đi chung với nhau
không? Khi chưa bắt được mồi, có bao giờ sư tử gầm lên giữa rừng không? Khi sư
tử con chưa bắt được gì, có bao giờ người ta nghe thấy tiếng nó không? Nếu
không có gì cạm bẫy, chim có bao giờ sa lưới không? Nghe tiếng kèn thổi trong
thành, có bao giờ người dân không lo sợ không? Có tai hoạ nào trong thành mà
không do Chúa điều khiển không? Thực ra, Chúa là Thiên Chúa không làm điều gì
mà lại không mạc khải ý định của Người cho các tiên tri tôi tớ của Người. Sư tử
gầm thét, ai lại không run sợ? Chúa là Thiên Chúa phán, ai lại chẳng nói tiên
tri?
"Ta
đã triệt hạ các ngươi như Thiên Chúa đã triệt hạ Sôđôma và Gômôra, các ngươi đã
trở thành như thanh củi cháy dở rút khỏi đống lửa, thế mà các ngươi không trở lại
với Ta! - Chúa đã phán như thế. Vì vậy, hỡi Israel, Ta sẽ làm cho ngươi những
điều này: nhưng sau khi Ta đã làm cho ngươi như vậy, hỡi Israel, ngươi hãy sửa
soạn đón rước Thiên Chúa của ngươi".
Ðó là
lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 5, 5-6. 7. 8
Ðáp: Lạy Chúa, xin dẫn con trong đức
công minh (c. 9a).
Xướng:
1) Chúa không phải là Chúa tể ưa điều gian ác; kẻ độc dữ không được cư trú nhà
Ngài; đứa bất nhân không thể đứng trước thiên nhan; Chúa ghét những kẻ làm điều
gian ác. - Ðáp.
2)
Ngài tiêu diệt những đứa nói man; người độc ác và gian giảo thì Chúa ghê tởm
không nhìn. - Ðáp.
3) Phần
con, bởi gội nhuần sủng ái, con sẽ vào tới hoàng đài của Chúa; con sấp mình gần
bên thánh điện với lòng tôn sợ Ngài, thân lạy Chúa. - Ðáp.
Alleluia: 1 Sm 3, 9
Alleluia,
alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có
lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 8, 23-27
"Người
chỗi dậy, truyền lệnh cho gió và biển, và biển yên lặng như tờ".
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy,
Chúa Giêsu xuống thuyền, có các môn đệ theo Người. Và đây biển động dữ dội, đến
nỗi sóng phủ lên thuyền, thế mà Người vẫn ngủ. Các môn đệ lại gần đánh thức Người
dậy mà rằng: "Lạy Thầy, xin cứu lấy chúng con kẻo chết mất!" Chúa
phán: "Hỡi những kẻ yếu lòng tin! Sao các con nhát sợ?" Bấy giờ Người
chỗi dậy, truyền lệnh cho gió và biển. Và biển yên lặng như tờ! Cho nên những
người ấy kinh ngạc mà rằng: "Ông này là ai mà gió và biển đều vâng phục?"
Ðó là
lời Chúa.
Suy Niệm: Xin cứu chúng con
Ông
John Newton sống nghề buôn bán các nô lệ. Trong lần vượt đại dương, thuyền của
ông gặp bão lớn gần chìm; lúc đó, vì quá lo sợ, ông đã thốt lên: "Lạy
Chúa, xin cứu con; qua được cơn nguy hiểm này, con sẽ từ bỏ nghề buôn bán vô
nhân đạo này và sẽ làm nô lệ Chúa". Và rồi, khi thuyền ông cập bến Mỹ Châu
sau đó, ông đã từ bỏ mọi sự, trở thành nhà rao giảng Tin Mừng nổi tiếng.
Sự
quan phòng của Thiên Chúa đã cho phép cơn bão tố xảy ra trong cuộc sống con người
để thức tỉnh con người trở về với Ngài. Ðiều quan trọng không phải là không có
bão tố hoặc khó khăn thử thách, nhưng là có Chúa hiện diện dù lúc đó xem ra
Ngài ngủ, không màng chi đến nguy hiểm đang xảy ra. Thật thế, gian nan thử
thách Thiên Chúa cho xẩy đến là để con người ý thức về sự yếu đuối, mỏng dòn của
mình, đồng thời đặt niềm trông cậy vào Chúa. Cơn bão xẩy ra đã làm cho các Tông
Ðồ không còn dựa vào phương tiện vật chất là chiếc thuyền đang nâng đỡ chở che
các ông, cũng như không còn tự phụ vào tài năng vượt biển của mình; trái lại,
các ông ý thức mình cần đến Chúa. "Lạy Thầy, xin cứu chúng con, chúng con
chết mất". Chính nhờ lời cầu nguyện trong lúc gian nan nguy hiểm, các Tông
Ðồ được chứng kiến phép lạ và quyền năng của Chúa.
Tôi đã
có thái độ nào khi gặp những cơn bão tố trong cuộc đời? Những cơn bão tố đó làm
cho tôi gặp Chúa hay xa rời Ngài?
Ước gì
chúng ta cũng có thái độ như các Tông Ðồ xưa: "Lạy Thầy, xin cứu chúng
con". Xin Chúa mở mắt cho chúng ta nhìn thấy sự hiện diện của Chúa trong đời
sống chúng ta. Xin cho chúng ta ý thức rằng chúng ta cần đến Chúa hơn cơm bánh
hằng ngày, hơn không khí để thở. Chúa là sức mạnh, là khiên thuẫn chở che, xin
Ngài gìn giữ chúng ta luôn vững mạnh trong đức tin giữa những cơn thử thách.
Veritas
Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Ba Tuần 13 TN2
Bài đọc: Amo
3:1-8, 4:11-12; Mt 8:23-27.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sợ hãi và bình an
Có lửa
phải có khói, có quả phải có cây, có tội sớm muộn gì cũng phải đền tội. Người
có tội lúc nào cũng phải thấp thỏm sợ hãi: sợ người khác phanh phui tội của
mình và sợ những hậu quả xảy ra do tội gây nên. Họ không bao giờ tìm được sự
bình an như khi chưa phạm tội.
Các
bài đọc hôm nay muốn nêu bật sự sợ hãi do tội lỗi đem lại, và sự bình an khi
con người sạch tội và đặt trọn vẹn niềm tin nơi Thiên Chúa. Trong bài đọc I,
ngôn sứ Amos được Thiên Chúa gởi tới để phanh phui tất cả tội lỗi của con cái
Israel và đe dọa: họ sẽ phải đi gặp Thiên Chúa và lãnh nhận những hình phạt mà
Ngài đã sắp sẵn cho họ. Trong Phúc Âm, các môn đệ kinh ngạc khi thấy Chúa Giêsu
vẫn ngủ an bình khi biển gầm thét và thuyền chòng chành sắp chìm. Họ còn sợ hãi
hơn khi họ đánh thức Ngài dạy vì Ngài ra lệnh cho sóng biển phải im lặng và
sóng biển phải tuân theo.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Đức Chúa không làm điều gì mà không bày
tỏ kế hoạch của Người cho các ngôn sứ.
1.1/ Đức
Chúa nói với dân qua các ngôn sứ của Đức Chúa.
(1)
Ngôn sứ xuất hiện là cho một lý do: Từ câu 3-6 là một loạt những câu hỏi hùng
biện và thách thức, tác giả có ý muốn nói Thiên Chúa có lý do để can thiệp vào
nội bộ Israel. Đây là những hình ảnh quen thuộc mỗi ngày và chúng ám chỉ một sự
liên hệ giữa nguyên nhân và hậu quả. Khán giả của Amos phải trả lời “không” cho
tất cả những câu hỏi này. Mọi sự xảy ra trên đời đều có lý do của nó: Trước khi
đồng hành phải có sự thỏa thuận. Sư tử chỉ gầm vang khi thấy hay bắt được mồi.
Chim sẻ chỉ rơi vào bẫy khi có mồi nhử. Bẫy chỉ bật lên khi con mồi sa bẫy. Người
ta chỉ rúc tù và trong thành khi có chuyện nguy hiểm xảy ra. Quan trọng hơn hết
là tai họa xảy ra trong thành là chắc chắn do bàn tay của Đức Chúa.
(2)
Ngôn sứ phải tuân hành để truyền đạt sứ điệp của Thiên Chúa: Amos muốn chứng tỏ
cho dân thấy, sự can thiệp của ông là cũng có một lý do. Đức Chúa sai ông tới để
nói tiên tri cho dân chúng biết về những chuyện sắp xảy ra. Người ngôn sứ phải
nói những lời Đức Chúa truyền, ông không còn cách nào khác là phải làm theo ý Đức
Chúa nếu không muốn cơn giận của Ngài đổ trên ông.
1.2/ Hình
phạt mà Israel phải lãnh nhận:
Sodom
và Gomorrha là hai thành bị tiêu diện bởi lửa diêm sinh từ trời vì các tội lỗi
của họ đã xúc phạm đến Đức Chúa, được tường thuật trong Sách Khởi Nguyên (Gen
19). Tội của họ có nhiều, nhưng tội gớm ghê nhất là tội đồng tính luyến ái, đến
độ muốn có liên hệ tình dục với cả thiên sứ của Đức Chúa gởi tới. “Thanh củi được
rút khỏi đống lửa cháy” có lẽ ám chỉ tai họa xảy ra mà Đức Chúa cứu họ trong giờ
phút cuối, thế mà họ vẫn không nhận ra tội lỗi của họ và trở về bới Thiên Chúa.
Những
lời dạy của Amos là những lời cảnh cáo của Đức Chúa cho con cái Israel. Họ sẽ
phải đối diện với cơn thịnh nộ của Đức Chúa nếu họ không ăn năn sám hối: “Vậy,
hỡi Israel, Ta sẽ xử với ngươi như thế này, và bởi vì Ta sẽ xử với ngươi như vậy
nên, hỡi Israel, ngươi hãy chuẩn bị đi gặp Thiên Chúa của ngươi.
2/ Phúc Âm: "Sao nhát thế, hỡi những người kém
lòng tin!"
2.1/ Hai
phản ứng khi phải đương đầu với sóng gió:
(1) Phản
ứng của Chúa Giêsu: Tin Mừng tường thuật: "Biển động mạnh đến độ sóng nước
ập vào thuyền, nhưng Người vẫn ngủ!" Tại sao Chúa Giêsu có thể ngủ được
khi sóng biển động mạnh như thế? Thưa có hai lý do: Thứ nhất, Ngài không sợ hãi
chi cả. Chỉ một người không biết sợ là gì mới có tâm hồn bình an như vậy; như
chúng ta thường khôi hài chọc nhau: "Điếc không sợ súng!" Nếu một người
không nghe thấy tiếng súng, người ấy sẽ không sợ súng đạn. Thứ hai, mọi quyền lực
thế gian phải sợ Ngài. Khi các môn đệ hoảng hốt đánh thức Chúa dậy, "Người
chỗi dậy, ngăm đe gió và biển: biển liền lặng như tờ."
(2) Phản
ứng của các môn đệ: Có ngư phủ nào mà không sợ sóng gió, vì họ biết sóng gió chẳng
những đe dọa, mà có thể lấy đi mạng sống của họ bất cứ lúc nào. Truyền thống ngư
phủ có thói quen cầu trời khấn Phật bắt đầu mùa tôm cá và trước khi ra khơi, để
xin Trời Phật phù hộ cho qua khỏi những cơn sóng gió lúc nào cũng đe dọa. Nếu
đã cầu xin, họ phải tin tưởng sự phù hộ của Trời Phật; nhưng phản ứng sợ hãi
khi sóng gió xảy đến chứng tỏ họ không tin, hay đức tin của họ còn yếu kém như
Chúa mắng các môn đệ hôm nay. Các môn đệ đã từng nhìn thấy Chúa Giêsu làm các
phép lạ mà sức con người không thể làm nổi; vả lại, các ông đang có Chúa Giêsu
quyền năng trong thuyền, thế mà các ông vẫn lo sợ sóng gió!
2.2/ Niềm
tin cần thiết để con người chống chọi với sóng gió của cuộc đời: Đức Giêsu nói với các môn đệ:
"Sao nhát thế, hỡi những người kém lòng tin!" Đức tin có thể ví như
kinh nghiệm mà một người sở hữu trong đời. Người đã có kinh nghiệm hay từng trải
không dễ sợ hãi như người mới ra trường, chưa có kinh nghiệm. Cũng vậy, người
đã có đức tin vững mạnh, sẽ không sợ hãi trước những đe dọa và bắt bớ của các
quyền lực thế gian, ngay cả việc chấp nhận cái chết để làm chứng cho Đức Kitô.
Khi
con người không sợ hãi ngay cả cái chết, họ bắt đầu sống và sống tròn đầy. Khi
con người không sợ hãi các quyền lực thế gian, thế gian phải sợ hãi họ. Chúng
ta có thể thấy điều này nơi các môn đệ của Đức Kitô: Trước khi Ngài về trời,
các môn đệ là những người nhát sợ khi phải đương đầu với quyền lực thế gian,
nên các ông chạy trốn Chúa và Phêrô đã chối Ngài 3 lần; nhưng khi đã thấy Chúa
sống lại từ cõi chết, các ông không còn sợ hãi chi cả. Tại sao vậy? Vì các ông
biết rằng quyền lực thế gian có thể lấy đi sự sống thể lý, nhưng Đức Kitô sẽ
cho các ông sống lại; và không một quyền lực thế gian nào có thể động tới linh
hồn của các ông. Vì thế, sau khi được Thánh Thần tác động, các ông mở tung cửa
để vào đời làm chứng cho Đức Kitô. Những người trong Thượng Hội Đồng phải ngạc
nhiên, vì thấy các ông không còn sợ hãi họ nữa. Các ông tranh luận với họ cách
công khai và họ không thể đối đầu với các ông. Thay vì thẳng tay đàn áp như trước,
giờ đây họ sợ phải đàn áp các ông. Lý do không phải họ không còn quyền, nhưng
vì họ sợ dân chúng ném đá họ khi dân chúng đã nhận ra sự giả hình của họ.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Chúng ta phải cố gắng hết sức để tránh tội vì sớm muộn gì chúng ta cũng phải đối
diện và lãnh án công thẳng của pháp luật và của Thiên Chúa.
- Tội
làm cho chúng ta luôn sợ hãi và lấy đi sự bình an của tâm hồn. Khi phạm tội,
chúng ta hãy đến ngay với tòa cáo giải để xưng thú tội lỗi hầu có thể tìm lại
được sự bình an cho tâm hồn.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên,
OP
28/06/16 THỨ BA TUẦN 13 TN – C
Th. I-rê-nê, giám mục, tử đạo
Mt 8,23-27
Th. I-rê-nê, giám mục, tử đạo
Mt 8,23-27
Suy niệm: Người ta thường ví cuộc đời con người, từ khi sinh cho đến lúc chết, tựa như một cuộc vượt biển, đi từ bến bờ này sang bến bờ bên kia. Thế nhưng, biển cuộc đời chẳng mấy khi phẳng lặng. Không sóng gió, đá ngầm, băng sơn thì cũng bão nổi giông gào. Những lúc ấy, ai sẽ chia sẻ, nâng đỡ ta, nếu không phải là chính Chúa? Tin là hoàn
toàn tín thác cuộc đời cho sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa, để lúc an vui hạnh phúc, ta biết dâng lời tạ ơn; khi gặp đau thương thử thách, ta xin Chúa ủi an nâng đỡ. Trên chuyến đò cuộc đời, Chúa là bạn đồng hành đưa ta cặp bến đến bờ an toàn. Có Ngài hiện diện hộ phù, chúng ta được vui sống bình an.
Mời Bạn: Nhớ lại, chính những lúc mọi phương thế nhân loại đã phải bó tay, bạn mới thấy rõ bàn tay của Thiên Chúa vẫn che chở bạn. Nhìn lại đời sống đức tin của mình, bạn có thấy Chúa thực sự là điểm tựa vững vàng, giúp bạn bình an vui sống không? Khi bình an, bạn có nhớ đến Chúa, hay chỉ khi gặp thử thách đau khổ, bạn mới chạy đến với Ngài?
Chia sẻ: Bạn hiểu thế nào là Thiên Chúa quan phòng? Hãy chia sẻ một lần nào đó trong đời, bạn cảm nhận được sự quan phòng của Chúa đối với bạn.
Sống Lời Chúa: Tôi dâng
lên Chúa những dự định, kế hoạnh, vì tin Chúa có đủ quyền năng để giúp đỡ mình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, con tin cậy vào Chúa, nhưng xin thương lòng tin còn quá yếu kém của con. Xin ban cho con niềm trông cậy vững vàng, để con dám trao cả vận mạng đời mình vào bàn tay quan phòng của Chúa. Vì có Ngài ở bên, lòng con chẳng nao núng bao giờ. Amen.
Người vẫn ngủ
“Thiên Chúa ngủ” mãi mãi là điều khó hiểu và khó chịu. Đừng ngại đánh thức Ngài và kêu cứu... Nhưng cũng nên nhìn Ngài ngủ bình an, để khỏi bị hốt hoảng.
Suy
niệm:
Nếu
mức nước biển dâng lên thêm một mét do nạn toàn cầu ấm lên,
nhiều
vùng đất của nước Việt Nam sẽ bị chìm dưới mặt
nước.
Bão
lụt, hạn hán, động đất, núi lửa, vẫn là những thảm họa cho con người.
Ngày
nay người ta biết rằng phần lớn thiên tai không do Trời,
nhưng
do con người phá hoại trái đất là công trình tốt đẹp của Trời cao.
Bài
Tin Mừng hôm nay cho thấy uy quyền của Đức Giêsu,
không
phải trên ma quỷ hay bệnh tật, nhưng trên thiên nhiên.
Ngài
đã dùng quyền đó để bảo vệ các môn đệ khỏi bị dập vùi bởi sóng gió.
Thầy
Giêsu đã ra lệnh cho họ qua bên kia hồ (Mt 8, 18).
Ngài
xuống thuyền trước, các môn đệ theo sau (c. 23).
Đi
theo Thầy Giêsu, trên cùng một con thuyền, đâu hẳn được bình an.
Cơn
bão lớn ngoài biển đến thật bất ngờ,
khiến
con thuyền của Thầy trò chao đảo vì sóng gió.
Giữa
cơn cuồng nộ của biển cả, giữa sự kinh hoàng nhốn nháo của các môn đệ,
Thầy
Giêsu vẫn ngủ yên.
Dường
như chẳng có gì khuấy động được giấc ngủ bình an của Thầy.
“Thưa
Ngài, xin cứu, chúng con chết mất” (c. 25).
Lời
đánh thức vội vã, hối thúc, khi cái chết đã gần kề.
Nhưng
Thầy Giêsu lại chẳng có vẻ gì vội vã.
Giữa
tiếng thét gào của sóng gió và sự chòng chành của con thuyền,
Thầy
Giêsu đã quở trách các môn đệ vì sự cuống cuồng sợ hãi của họ,
hậu
quả của việc thiếu lòng tin (c. 26).
Thầy
đã không làm cho biển lặng sóng yên ngay lập tức,
vì
tập bình an giữa sóng gió là điều khó và cần hơn nhiều.
Lắm
khi chúng ta không hiểu tại sao thuyền đời chúng ta gặp bão,
dù
có Thầy trong thuyền, dù chúng ta đã theo Thầy nghiêm túc.
Chúng
ta lại càng không hiểu tại sao Thầy có thể ngủ được bình an,
khi
chúng ta gặp muôn vàn thử thách và rơi vào tuyệt vọng.
Nhưng
Thầy Giêsu cũng không hiểu tại sao chúng ta lại sợ đến thế (c. 26).
Tại
sao chúng ta lại sợ thuyền chìm hay sợ chết ?
Nếu
có đức tin vào Thầy thì sóng gió đâu nhận chìm được chúng ta.
“Thiên
Chúa ngủ” mãi mãi là điều khó hiểu và khó chịu.
Đừng
ngại đánh thức Ngài và kêu cứu.
Đừng
ngại la to át tiếng sóng, để làm cho Ngài nghe được.
Nhưng
cũng nên nhìn Ngài ngủ bình an, để khỏi bị hốt hoảng.
Không
hẳn là Ngài sẽ trỗi dậy ngay và dẹp tan bão tố.
Không
hẳn là chúng ta sẽ được giải thoát ngay khỏi mọi nỗi hiểm nghèo.
Điều
quan trọng là lòng ta được bình an,
vì
biết Ngài vẫn bình an ở lại trong con thuyền đời ta.
Cầu
nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
con chẳng dám xin đi trên mặt nước như Phêrô,
nhưng nhiều khi con cảm thấy
sống đức tin giữa lòng cuộc đời
chẳng khác nào đi trên mặt nước.
Có bao thứ sóng gió đẩy đưa và lôi cuốn.
Có
bao cám dỗ muốn hút con vô vực sâu.
Cả
sự nặng nề của thân xác con
cũng
kéo ghì con xuống.
Đi
trên mặt nước cuộc đời chẳng mấy dễ dàng.
Nhiều
khi con thấy mình bàng hoàng sợ hãi.
Xin cứu con khi con hầu chìm.
Xin nắm lấy tay con khi con quỵ ngã.
Xin nâng đỡ niềm tin yếu ớt của con,
để con trở nên nhẹ tênh
mà bước những bước dài hướng về Chúa. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
28
THÁNG SÁU
Sự
Quan Phòng Của Thiên Chúa: Một Xác Nhận Nền Tảng
Việc
tách biệt công cuộc sáng tạo khỏi sự quan phòng thần linh (thuyết tự nhiên thần
giáo) và việc phủ nhận hoàn toàn sự hiện hữu của Thiên Chúa (thuyết duy vật) mở
ngõ cho sự sai lầm của thuyết tất định duy vật (materialistic determinism). Ở
đây con người và đời sống của con người trở thành hoàn toàn phụ thuộc vào một
tiến trình phi ngã. Đối đầu với những tấn công này, chân lý về sự hiện hữu của
Thiên Chúa và về sự quan phòng thần linh của Ngài giúp bảo đảm cho con người sự
tự do và chỗ đứng của mình trong vũ trụ.
Chúng
ta nhận thấy sự thật này được khẳng định trong Cựu Ước. Chẳng hạn, Thiên Chúa
được xem như một sự đỡ nâng mạnh mẽ và không gì có thể tiêu diệt được: “Con yêu
mến Ngài, lạy Chúa là sức mạnh của con; lạy Chúa là núi đá, là thành lũy, là Đấng
giải thoát con; lạy Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con trú ẩn, là khiên mộc,
là Đấng cứu độ quyền năng, là thành trì bảo vệ!” (Tv 18, 2-3). Thiên Chúa là nền
tảng vững chắc để con người có thể tựa vào, như lời tác giả thánh vịnh thốt lên
đầy xác tín: “Lạy Chúa, số mạng con, chính Ngài nắm giữ” (Tv 16, 5).
Sự
quan phòng của Thiên Chúa là lời xác nhận hùng hồn của Ngài đối với tạo vật, nhất
là đối với con người – triều thiên của mọi tạo vật. Sự quan phòng ấy đảm bảo
quyền cai quản tối cao của con người trong thế giới này. Điều này không có
nghĩa rằng các qui luật tự nhiên bị quyền cai quản tối cao của con người xóa bỏ.
Trái lại, nó có nghĩa rằng chúng ta phải loại trừ thuyết tất định duy vật kia –
một chủ thuyết giảm trừ toàn bộ sự hiện hữu của con người đến chỉ còn như một
cái gì hoàn toàn tất định. Trong thực tế, một cái nhìn như vậy sẽ hủy diệt sự tự
do chọn lựa của con người.
Thiên
Chúa – trong sự quan phòng của Ngài – chính là sự đỡ nâng tối thượng cho sự tự
do của chúng ta. Đó là điều tốt lành và quí hóa biết bao!
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày
28 – 6
Thánh
Irênê, giám mục, tử đạo
Am
3,1-8.11-22; Mt 8,23-27.
Lời
suy niệm: “Đức Giêsu xuống thuyền, các môn đệ đi theo
Người. Bổng nhiên, biển động mạnh, khiến sóng ập vào thuyền, nhưng Người vẫn ngủ.”
Trong
cuộc sống của người Kitô hữu, luôn tin: có sự hiện diện với ơn ban của Chúa;
tin Chúa luôn là Đấng cầu bàu cùng Chúa Cha cho chúng ta trong mọi hoàn cảnh, với
tất cả niềm hy vọng, ngày sau được Chúa đón nhận trong Nước Trời. Nhưng rồi
trong cuộc sống của mỗi người vẫn vấp phải bồn chồn lo sợ như các Tông Đồ khi bị
sóng biển ập vào thuyền.
Lạy
Chúa Giêsu. Xin ban thêm ơn sức mạnh đức tin, để chúng con không phải bị Chúa
kiển trách: “sao nhát thế, hỡi những kẻ kém lòng tin” nhưng vững tin vào quyền
năng yêu thương của Chúa mà phó thác đời mình trong tay Chúa.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
28-06: Thánh IRENÊ
Giám
mục, Tử Đạo (Thế kỷ II)
Thánh
Irenê sinh tại Tiểu Á và giữa thế kỷ II. Chúng ta biết được phần nào ngày sinh
của Ngài, dựa vào bản tường thuật Ngài viết về thánh Policarpô. Ngài viết cho
Flôrinô:
-
"Tôi có thể nói với ông nơi thánh Pôlicarpô ngồi khi Ngài rao giảng lời
Chúa, tôi được thấy Người ra vào. Bước chân, phong thái, cách sống và lời Ngài
nói in sâu vào lòng tôi. Tôi như còn nghe thấy Người kể lại cách người đàm luận
với thánh Gioan và các tông đồ khác đã thấy mặt Chúa. Người nói lại cho chúng
tôi những lời nói và những điều các Ngài đã học được liên quan đến Chúa Giêsu.
Các phép lạ và giáo thuyết của Chúa.
Thánh
Irenê còn phấn khởi ghi thêm: - "Tôi ghi nhận các hành vi và lời nói ấy
không phải trên bảng viết mà là trong sâu thẳm tâm hồn. Thiên Chúa cho tôi được
ơn không ngừng nhớ lại những kỷ niệm ấy trong lòng".
Như vậy,
thánh Irenê luôn nhớ mãi hình ảnh sống động của thánh Policarpô qua đời năm
155. Vậy có thể là thánh Irenê ra đời khoảng từ năm 130 đến 135, và Ngài được
giáo dục tại Smyrna, làm môn đồ của thánh Pôlicarpô. Hấp thụ nền giáo dục gần với
các tông đồ. Nhất là với thánh Gioan, thánh Irenê còn ở trong vòng ánh sáng mà
tâm điểm là tình yêu đằm thắm giữa thánh Gioan với Chúa Kitô. Trong tác phẩm
dài "Adversus Haereses" của Ngài. Chúng ta cảm thấy Ngài là người được
thấm nhiễm một trực giác hiếm có.
Thánh
Pôlicarpô gọi Irênê sang Gaule. Tại đây thánh Pôthinô, giám mục Lyon phong chức
linh mục cho Ngài. Phần đóng góp của thánh Irenê cho Giáo hội thật lớn. Ngài
chú tâm tới mọi khoa học, chuyên cần suy gẫm thánh kinh. Khi nghiên cứu huyền
thoại và các hệ thống triết học ngại giáo, Ngài biết tìm ra nguồn gốc các sai lầm
và bác bỏ các lạc thuyết pha trộn huyền thoại vào Kitô giáo. Tertulianô đã
tuyên nhận rằng không có ai nỗ lực tìm tòi hơn là thánh Irênê. Thánh Hiêrônimô,
nại đến thánh nhân để củng xố uy tín của mình. Ngài được coi như là ánh sáng
các vùng Gaules ở Phương Tây.
Năm
177, thánh Irenê được cử làm đại diện về Rôma, bên cạnh Đức giáo hoàng để thực
hiện một sứ mệnh tế nhị là dàn xếp ngày mừng lễ phục sinh
Trở lại
Lyon, thánh Irênê gặp lại một giáo đoàn côi cút. Marcô Aureliô vừa mới giết hại
các Kitô hữu. Đức cha Pothinô đã bị sát hại. Thánh Irenê được bầu lên kế vị.
Ngài trở thành thủ lãnh Giáo hội tại xứ Gaule, bận rộn với công việc rao giảng,
thánh nhân vẫn viết sách để chống đỡ chân lý. Ngài phải chiến đấu không ngừng,
bởi vì cuộc bách hại tưởng chấm dứt khi Marcô Aureliô qua đời, nhưng các lạc
giáo lại nổi lên chống phá Giáo hội.
Thánh
Irenê dùng hết tâm trí và đức tin chống lại các lạc thuyết nhưng vẫn yêu thương
những lẻ lầm lạc, Ngài cầu nguyện cho họ van nài họ trở về với Giáo hội thật:
-
"Hợp nhất với Chúa là sự sống và là Sự sống .... Khốn khổ cho ai lìa xa sự
hợp nhất ấy. Hình phạt đổ xuống họ không phải do Thiên Chúa mà do chính họ, vì
khi chọn quay mặt khỏi Thiên Chúa, họ đánh mất mọi tài sản".
Các
tác phẩm lừng danh Ngài đã soạn khiến cho Ngài đang được gọi là "Anh sáng
bên trời Tây".
Dưới
sự dẫn dắt của thánh Irênê, Lyon đã trở thành một trường dạy phụng sự Chúa đào
tạo nhà tri thức và có khả năng truyền giáo. Thế hệ đầu tiên của trường đã bảo
vệ đức tin tinh tuyền bằng những nghiên cứu và sách vở của họ. Thế hệ thứ hai
phổ biến Tin Mừng đến những miền khác.
Hoàng
đế Seltinô - Severô tái diễn cuộc bách hại. Ông gia hình cho đến chết những ai
kiên trì với đức tin. Lyon là thành phố diễn ra cuộc hãm xác tập thể các Kitô hữu
thật khủng khiếp. Máu chảy thành suối trên đường phố tiếp nối dòng máu các giám
mục tử đạo, thánh Irênê, cũng bị hạ sát với đàn chiên mình. Một tài liệu cố tìm
được cho thấy có đến 19 ngàn Kitô hữu cùng chịu khổ chịu chết vì đạo với Ngài.
(daminhvn.net)
28
Tháng Sáu
Ngợi Khen Con Người
Trong
tập thơ có tựa đề "Nhật ký", nữ thi sĩ công giáo Pháp là Marie Noel
đã tưởng tượng ra một mẩu chuyện như sau: Hôm đó là ngày cuối năm. Từ trên
Thiên Quốc nhìn xuống dương trần, Chúa thấy dân chúng đổ xô về một ngôi nhà thờ
đổ nát, không có chuông, cũng chẳng có tháp chuông. Vị linh mục già đành phải
khua mõ vào bất cứ đồ vật nào có thể gây ra tiếng vang để giục giã dân chúng đến
giáo đường đọc Kinh "Te Deum" ngợi khen Cúa nhân ngày cuối năm.
Trời
mưa lạnh như cắt. Vậy mà, từ khắp nơi trong xóm giáo, người ta vẫn đổ xô về
ngôi giáo đường. Chúa theo dõi từng cử động một của một người đàn bà đơn độc mà
ngôi nhà vừa bị thiêu rụi trong một trận hỏa hoạn. Chúa lại nhìn thấy một thiếu
phụ mà cách đó không lâu bọn Ðức Quốc Xã đã tước đoạt mọi tài sản. Một người
đàn bà khác, mà chồng đã bị giết trước mắt, cũng lặng lẽ tiến đến nhà thờ. Có cả
thiếu phụ mất con mà người ta không tìm ra tung tích. Có cả người đàn ông mà vợ
và con bị chôn vùi dưới đống gạch vụn... Còn bao nhiêu người khốn khổ khác nữa.
Họ không biết đi đâu, họ không có gì để ăn bởi vì quân thù đã đốt phá và cướp
đi tất cả những lương thực dự trữ.
Vậy
mà những người khốn khổ ấy có mặt đày đủ trong ngôi giáo đường. Có một vài tiếng
khóc. Nhưng tất cả đều cất tiếng hát bài "Te Deum" ngợi khen Chúa
trong ngày cuối năm vì những ơn huệ Ngài ban trong năm qua.
Nhìn
thấy cảnh tượng ấy cũng như lắng nghe lời ca ngợi của những con người khốn khổ,
Thiên Chúa vô cùng cảm động. Ngài nói với các Thiên Thần như sau: "Quả thực,
quả thực, Ta bảo các ngươi: con người là loài thụ tạo thánh thiện. Các ngươi
hãy nhìn xuống đám người đáng thương kia. Cách đây 12 tháng, họ đã phó dâng cho
Ta cả năm để được hạnh phúc, an khang. Vậy mà tai ương và thảm sầu đã xảy đến với
họ... Họ đã kêu cầu bình an, nhưng chiến tranh đã đè bẹp họ. Họ đã xin lương thực
hằng ngày, nhưng họ chỉ toàn gặp là đói khát. Họ đã phó dâng cho ta gia đình,
người thân và tổ quốc của họ, nhưng tổ quốc, gia đình và người thân của họ lại
bị xâu xé trăm bề. Dĩ nhiên, Ta có những lý do riêng của Ta... Ta không thể
thanh tẩy thế giới mà không thể thử thách nó như thời Noe. Nhưng đây là công việc
của một Thiên Chúa, không ai có thể hiểu được việc Thiên Chúa làm. Nhưng con
người lại phải gánh chịu mọi sự. Vậy mà họ vẫn tiếp tục ngợi khen và cảm tạ Ta
cứ như Ta đã bảo vệ họ trong từng phút giây của cuộc sống họ... Quả thực, lòng
tin của họ lớn lao... Các ngươi có nghe họ hát "Thánh, thánh" với tất
cả trang trọng không? Hỡi các Thiên Thần và các Thánh, nào các ngươi hãy hát
lên một bài ca để tôn vinh những ai, mặc dù gặp gian lao khốn khó, vẫn lên tiếng
tôn vinh Ta".
Nói
xong, Thiên Chúa cùng với các thần thánh trên trời cất lên bài ca "Ngợi
khen con người".
Thiên
Chúa là Tình Yêu, Ngài không thể không say mê con người, Ngài không thể không
chung thủy với con người. Giữa muôn ngàn khó khăn của cuộc sống hiện tại và những
khắc khoải lo âu cho tương lai, chúng ta hãy tiếp tục dâng trọn niềm tín thác
cho Thiên Chúa.
Tin
tưởng ở tình yêu Thiên Chúa, chúng ta tin tưởng ở tình người. Tình người dù có
bội bạc, mỗi một con người, dù có đốn mạt, xấu xa đến đâu, cũng vẫn còn chất chứa
trong đáy thẳm tâm hồn mình vẻ đẹp cao vời phản ảnh chính tình yêu của Thiên
Chúa. Ðáp lại với những phản trắc lừa đảo, đáp lại với những thấp hèn đê tiện,
người có niềm tin nơi Thiên Chúa và tin ở tình người hãy giữ mã
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét