02/02/2018
Thứ Sáu đầu tháng, tuần 4 thường niên
DÂNG CHÚA GIÊSU TRONG ĐỀN THÁNH (Lễ nến).
Lễ kính.
* Dâng Chúa trong Đền Thánh, Chúa Kitô gặp gỡ dân thánh nơi con người cụ già Simêon, Đức Maria được thanh tẩy theo luật Môsê, lễ Nến, đó là những tên gọi khác nhau để chỉ ngày lễ hôm nay, bốn mươi ngày sau lễ Giáng Sinh, kết thúc những ngày lễ trọng mừng việc Thiên Chúa tỏ mình ra cho con người nơi Ngôi Lời mặc xác phàm.
Bài Ðọc I: Ml 3, 1-4
"Ðấng Thống Trị
mà các ngươi tìm kiếm, đến trong đền thánh Người".
Trích sách Tiên tri
Malakhi.
Này đây Chúa là Thiên
Chúa phán: "Ðây Ta sai thiên thần Ta đi dọn đường trước mặt Ta!" Lập
tức Ðấng Thống Trị mà các ngươi tìm kiếm, và thiên thần giao ước mà các ngươi
mong ước, đến trong đền thánh Người. Chúa các đạo binh phán: "Này đây Người
đến". Ai có thể suy tưởng đến ngày Người đến, và có thể đứng vững để trông
nhìn Người? Vì Người sẽ như lửa thiêu đốt, như thuốc giặt của thợ giặt. Người sẽ
ngồi như thợ đúc và thợ lọc bạc, Người sẽ thanh tẩy con cái Lêvi, và làm cho
chúng nên sạch như vàng bạc. Chúng sẽ hiến dâng lễ tế cho Chúa trong công bình.
Lễ tế của Giuđa và Giêrusalem sẽ đẹp lòng Chúa, như ngày xưa và như những năm
trước. Ðó là lời Chúa toàn năng phán.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 23, 7. 8. 9.
10
Ðáp: Vua hiển vinh là ai vậy? (c. 8a)
Xướng: 1) Các cửa ơi,
hãy ngẩng đầu lên; vươn mình lên, hỡi cửa ngàn thu! để Vua hiển vinh Người ngự
qua. - Ðáp.
2) Nhưng Vua hiển vinh
là ai vậy? Ðó là Chúa dũng lực hùng anh, đó là Chúa anh hùng của chiến chinh. -
Ðáp.
3) Các cửa ơi, hãy ngẩng
đầu lên, vươn mình lên, hỡi cửa ngàn thu, để vua hiển vinh Người ngự qua. -
Ðáp.
4) Nhưng Vua hiển vinh
là ai vậy? Ðó là Chúa đạo thiên binh, chính Người là Hoàng Ðế hiển vinh. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Dt 2, 14-18
"Người phải
nên giống anh em Mình mọi đàng".
Trích thư gửi tín hữu
Do-thái.
Vì các con trẻ cùng
chung thân phận máu thịt, chính Chúa Giêsu cũng giống như chúng, cũng thông phần
điều đó, để nhờ cái chết của Người mà Người huỷ diệt kẻ thống trị sự chết là ma
quỷ, và để giải thoát tất cả những kẻ sợ chết mà làm nô lệ suốt đời. Vì chưng
Người không đến cứu giúp các thiên thần, nhưng đến cứu giúp con cái Abraham. Bởi
thế, Người nên giống anh em Mình mọi đàng, ngõ hầu trong khi phụng sự Chúa, Người
trở thành đại giáo trưởng nhân lành và trung tín với Chúa, để đền tội cho dân.
Quả thật, bởi chính Người đã chịu khổ hình và chịu thử thách, nên Người có thể
cứu giúp những ai sống trong thử thách.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Lc 2,32
Alleluia, alleluia! -
Ánh sang đã chiếu soi muôn dân, và là vinh quang của Israel dân Chúa. -
Alleluia.
Phúc Âm: Lc 2, 22-32 [hoặc 22-40]
"Mắt tôi đã
nhìn thấy ơn cứu độ".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, đủ ngày thanh
tẩy theo luật Môsê, cha mẹ Chúa Giêsu liền đem Người lên Giêrusalem để hiến
dâng cho Chúa, như đã chép trong Lề luật Chúa rằng: "Mọi con trai đầu lòng
sẽ được gọi là người thánh thuộc về Chúa". Và cũng để dâng lễ vật cho
Chúa, như có nói trong Luật Chúa, là một đôi chim gáy, hay một cặp bồ câu con.
Và đây ở Giêrusalem,
có một người tên là Simêon, là người công chính, kính sợ Thiên Chúa, và đang đợi
chờ niềm ủi an của Israel. Thánh Thần cũng ở trong ông. Ông đã được Thánh Thần
trả lời rằng: Ông sẽ không chết, trước khi thấy Ðấng Kitô của Chúa. Ðược Thánh
Thần thúc giục, ông vào đền thờ ngay lúc cha mẹ trẻ Giêsu đưa Người đến để thi
hành cho Người những tục lệ của Lề luật. Ông bồng Người trên cánh tay mình, và
chúc tụng Thiên Chúa rằng:
"Lạy Chúa, giờ
đây, Chúa để cho tôi tớ Chúa ra đi bình an theo như lời Chúa đã phán: vì chính
mắt con đã nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân,
là Ánh sáng chiếu soi các lương dân, và vinh quang của Israel dân Chúa".
[ Cha mẹ Người đều kinh ngạc về những điều đã nói về
Người. Simêon chúc lành cho hai ông bà và nói với Maria mẹ Người rằng:
"Ðây trẻ này được đặt lên, khiến cho nhiều người trong Israel phải sụp đổ
hay được đứng dậy, và cũng để làm mục tiêu cho người ta chống đối. Về phần bà,
một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà để tâm tư nhiều tâm hồn được biểu lộ!"
Lúc ấy, cũng có bà
tiên tri Anna, con ông Phanuel, thuộc chi họ Asê, đã cao niên. Mãn thời trinh nữ,
bà đã sống với chồng được bảy năm, rồi thủ tiết cho đến nay đã tám mươi tư tuổi.
Bà không rời khỏi đền thờ, đêm ngày ăn chay cầu nguyện phụng sự Chúa. Chính giờ
ấy, bà cũng đến, bà liền chúc tụng Chúa, và nói về trẻ Giêsu cho tất cả những
người đang trông chờ ơn cứu chuộc Israel.
Khi hai ông bà hoàn tất
mọi điều theo Luật Chúa, thì trở lại xứ Galilêa, về thành mình là Nadarét. Và
con trẻ lớn lên, thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng
Người. ]
Ðó là lời Chúa.
SUY NIỆM : Dâng con trẻ
Trong ngày lễ hôm
nay, chúng ta mừng kính hai biến cố: đó là việc thanh tẩy của Đức Maria và việc
dâng Chúa Giêsu nơi đền thờ.
Trước hết là việc
thanh tẩy của Đức Maria.
Theo luật Maisen, người
đàn bà sau khi sinh nở, thì bị coi là uế tạp... Suốt 40 ngày, người ấy không được
lên đền thờ tham dự vào những nghi lễ đạo đức. Sau đó người ấy phải đến trình
diện trước thầy cả để được thanh tẩy.
Trên nguyên tắc Mẹ
Maria không cần phải giữ luật Maisen vì Mẹ là Đấng trong sạch tuyệt vời. Nhưng
cũng như Đức Kitô, Mẹ muốn hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha, nên hôm nay Mẹ
đã chịu thanh tẩy theo như đã quy định.
Tiếp đến là việc dâng
Chúa nơi đền thờ.
Kể từ khi thiên thần
đã giết các con đầu lòng của người Ai cập, còn dân Do Thái lên đường, ra khỏi đất
nước này với kiêp sống nô lệ lầm than, thì những con đầu lòng của người Do Thái
được coi như là thuộc về Thiên Chúa và có bổn phận lo việc phụng tự Ngài. Thế
nhưng sau đó, công việc phụng tự này được trao lại cho chi họ Lêvi. Vì vậy, những
người con trai đầu lòng phải được cha mẹ chuộc lại bằng một số tiền nhỏ.
Ngày hôm nay Mẹ Maria
cũng tuân giữ điều luật này khi dâng hài nhi Giêsu nơi đền thờ.
Hiện giờ tại nhiều xứ
đạo, người ta tổ chức nghi lễ dâng những người mẹ và những đứa con cho Đức
Maria. Đây không phải là một nghi lễ thanh tẩy của người Do Thái, vì bí tích
Hôn nhân là một cái gì thánh thiện, và khi sinh sản con cái, cha mẹ tham dự vào
công việc sáng tạo của Thiên Chúa, nhưng nghi lễ này có mục đích tôn vinh người
mẹ.
Cũng như Mẹ Maria
không tới đền thờ một mình, nhưng tới với hài nhi Giêsu. Người mẹ hôm nay đến
nhà thờ với những đứa con nhỏ của mình. Vị linh mục mặc áo các phép, tiến đến cửa
nhà thờ để chào đón các bà. Ngài cầm cây nến, tượng trưng cho tình trạng ơn sủng
mà mỗi người chúng ta đã lãnh nhận trong ngày chịu phép Rửa tội. Rồi sau đó những
người mẹ và những đứa con tiến vào nhà thờ trong tiếng hát tạ ơn của lời kinh
Magnificat: “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa và thần trí tôi hoan hỉ trong Đấng
cứu độ tôi”.
Vị linh mục dâng lên
Thiên Chúa và Mẹ Maria lời cầu nguyện:
- Lạy Chúa, nhờ lời bầu
cử của Đức Trinh Nữ Maria, xin cho những người mẹ và những đứa con này, sau cuộc
sống trần gian, được đạt tới niềm hạnh phúc vĩnh cửu.
Sau đó, ngài cầu xin
Chúa Giêsu, Đấng đặt biệt yêu thương các trẻ nhỏ, chúc lành và gìn giữ những em
nhỏ này khỏi mọi sự dữ, để các em được lớn lên trong sự khôn ngoan và ân sủng của
Chúa, hầu ngày sau cùng được Chúa đón nhận vào quê hương Nước Trời.
Linh mục rảy nước
thánh và ban phép lành:
- Xin Thiên Chúa là
Cha, và Con và Thánh Thần ban phúc lành cho anh chị em.
Nghi thức và những lời
kinh thập đẹp. Ước chi mỗi bà mẹ cũng hãy cảm tạ Thiên Chúa vì thiên chức cao cả
mà Ngài đã dành cho chúng ta. Đồng thời hãy noi gương bắt chước Mẹ Maria dâng
con mình cho Chúa để Chúa nâng đỡ và phù trợ chúng luôn mãi, hôm nay và sau
này, trên vạn nẻo đường đời.
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Dâng Con Trong Đền Thờ (Ngày 2 tháng 2)
Bài đọc: Mal
3:1-4; Heb 2:14-18; Lk 2:22-32.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chúa Giêsu vào Đền Thờ để gặp
gỡ dân Người.
Đền Thờ là dấu chỉ sự
hiện diện của Thiên Chúa giữa con người: bắt đầu với Lều Hội Ngộ khi con cái
Israel vẫn còn lang thang suốt 40 năm trường trong sa mạc; sau khi ổn định
trong Đất Hứa, vua Solomon đã xây dựng một Đền Thờ và di chuyển Hòm Bia vào nơi
Cực Thánh, để con người đến cầu nguyện và dâng lễ hy sinh đền tội; khi Đền Thờ
Jerusalem bị phá hủy toàn bộ vào năm 70 AD, sự hiện diện của Thiên Chúa không
chỉ còn giới hạn tại Jerusalem, nhưng lan tràn mọi nơi, bất cứ nơi nào có nhà
thờ, nơi đó có Chúa Giêsu hiện diện với con người cho đến Ngày Tận Thế.
Các bài đọc hôm nay muốn
nhấn mạnh đến sự hiện diện của Thiên Chúa trong Đền Thờ để gặp gỡ dân Ngài.
Trong bài đọc I, tiên-tri được coi như cuối cùng của Cựu Ước, Malachi, nhìn thấy
trước ngày Thiên Chúa thân hành hiện đến thăm viếng dân Người để thanh tẩy họ
khỏi mọi tội lỗi; một sứ giả sẽ đi trước chuẩn bị đường cho Ngài. Trong bài đọc
II, tác giả Thư Do-thái mô tả cách thức hiện diện của Thiên Chúa: Ngài sẽ mặc lấy
xác phàm của con người để ở với con người, để con người có thể trông thấy Ngài
bằng xương thịt. Ngài sẽ trải qua tất cả những đau khổ của kiếp người để cảm
thông, để trợ giúp, và để xóa sạch tất cả tội lỗi của con người. Trong Phúc Âm
Lucas, cụ già Simeon là người đầu tiên được xem thấy Chúa khi cha mẹ mang Ngài
đến để gặp gỡ dân Người. Simeon sẵn sàng nhắm mắt ra đi, vì ông đã được nhìn thấy
ơn cứu độ bằng xương thịt như lời các tiên tri loan báo.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Kìa, vị sứ giả của giao ước mà các ngươi đợi trông đang đến.
Sách tiên-tri Malachi
được viết sau Thời Lưu Đày, khoảng 515 BC. Cũng như nhiều các tiên-tri khác,
tiên-tri Malachi tin triều đại của Đấng Thiên Sai đã gần đến: “Này Ta sai sứ giả
của Ta đến dọn đường trước mặt Ta. Và bỗng nhiên Chúa Thượng
mà các ngươi tìm kiếm, đi vào Thánh Điện của Người. Kìa, vị sứ giả của
giao ước mà các ngươi đợi trông đang đến, Đức Chúa các đạo binh phán.” Theo lời
tiên-tri Malachi, một Sứ-giả sẽ đến trước để dọn đường trước khi Đấng Thiên Sai
tới; và khi đã dọn đường xong, Đấng Thiên Sai sẽ đến bất cứ lúc nào.
1.1/ Vai trò của Sứ-giả: Truyền thống Do-thái tin Ngày Đấng Thiên Sai tới sẽ là
ngày kinh hoàng của kẻ dữ, nhưng sẽ mang hy vọng cho những người Israel còn
sót. Tiên-tri Malachi nói về Ngày này như sau: “Ai chịu nổi ngày Người đến? Ai
đứng được khi Người xuất hiện? Quả thật, Người như lửa của thợ luyện kim, như
thuốc tẩy của thợ giặt. Người sẽ ngồi để luyện kim tẩy bạc; Người sẽ thanh tẩy
con cái Lêvi và tinh luyện chúng như vàng, như bạc.”
Hai nhiệm vụ chính của
Sứ-giả dọn đường cho Đấng Thiên Sai là thanh tẩy và tinh luyện tâm hồn dân
chúng để họ sẵn sàng cho Ngày của Thiên Chúa. Hai chất liệu được dùng là lửa của
người luyện kim và thuốc tẩy của người thợ giặt. Lửa được dùng để thử cho biết
vàng nào là vàng thực và tinh luyện nó khỏi mọi vết dơ bẩn. Thuốc tẩy được dùng
để tẩy sạch những vết dơ bám vào trong quần áo. Điều Sứ-giả cần thanh tẩy và
tinh luyện chính là tâm hồn con người, sao cho xứng đáng để có thể đứng vững
trong Ngày của Đức Chúa.
Tiên-tri Malachi lên
án những lỗi lầm của hàng tư tế vì họ lười biếng và khinh thường Thiên Chúa
trong việc thờ phượng. Đó là lý do tại sao Thiên Chúa không nhận lễ vật của họ,
Ngài sẽ chọn lễ vật trong sạch hơn (Mal 1:1-2:17). Vì thế, đối tượng chính mà
tác giả nhắm tới là hàng tư tế Levi và tâm hồn của họ: “Bấy giờ, đối với Đức
Chúa, chúng sẽ là những kẻ đến dâng lễ vật, theo lẽ công chính. Lễ vật của
Judah và của Jerusalem sẽ làm đẹp lòng Đức Chúa như những ngày xa xưa, như những
năm thuở trước.”
1.2/ Tiên-tri Elijah là Sứ-giả
dọn đường cho Đấng Cứu Thế: “Này Ta sai
ngôn-sứ Elijah đến với các ngươi, trước khi Ngày của Đức Chúa đến, Ngày trọng đại
và kinh hoàng. Nó sẽ đưa tâm hồn cha ông trở lại với con cháu và đưa tâm hồn
con cháu trở lại với cha ông, kẻo khi Ta đến, Ta sẽ đánh phạt xứ sở đã bị án
tru diệt.”
Song song bổn phận của
con người đối với Thiên Chúa là bổn phận của con người đối với tha nhân; nhất
là những người trong gia đình. Một khi mối liên hệ chiều dọc với Thiên Chúa bị
lơ là thì mối liên hệ chiều ngang với tha nhân cũng bị thiệt hại. Sứ-giả dọn đường
cho Thiên Chúa cũng phải chú trọng đến sứ vụ hòa giải giữa con người với con
người, trong gia đình cũng như ngòai xã hội.
2/ Bài đọc II: Người đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện.
Khi Kitô Giáo lan tràn
vào thế giới La-Hy, hai vấn nạn khó khăn Giáo Hội phải đương đầu với là phải giải
thích cho người Hy-lạp biết:
(1) Tại sao Thiên Chúa
phải nhập thể: Đối với người Hy-lạp, Thiên Chúa hòan tòan là Thần Khí, nơi Ngài
không có một chút vật chất nào cả. Để được giải thóat và kết hợp với Thiên
Chúa, con người phải cố gắng làm sao để thóat khỏi ngục tù thân xác đang giam
hãm linh hồn con người, để chỉ còn thần khí mà thôi. Kitô Giáo đi ngược lại,
Con Thiên Chúa phải nhập thể để cứu chuộc con người!
(2) Tại sao Thiên Chúa
phải chịu đau khổ: Người Hy-lạp và người Do-thái không tin Thiên Chúa phải chịu
đau khổ; chỉ có con người mới phải chịu đau khổ mà thôi. Một Thiên Chúa phải chịu
đau khổ không còn là Thiên Chúa nữa. Họ lý luận: Nếu Thiên Chúa không có uy quyền
để vượt thóat đau khổ, làm sao Ngài có thể giúp người khác vượt qua đau khổ được?
Kitô Giáo cũng đi ngược lại, không thể có Ơn Cứu Độ nếu con Thiên Chúa không chịu
chết trên Thập Giá!
Tác giả Thư Do-thái cố
gắng trả lời hai vấn nạn này như sau:
2.1/ Chúa Giêsu phải nhập
thể để mang lấy thân phận con người: Để có
thể tiêu diệt tội lỗi và sự chết, Chúa Giêsu phải mang lấy thân xác con người để
có thể chịu chết và đền tội cho con người. Nếu không có thân xác, làm sao chết?
“Vì con cái thì đều chung một huyết nhục, nên Đức Giêsu đã cùng mang lấy huyết
nhục đó. Như vậy, nhờ cái chết của Người, Người đã tiêu diệt tên lãnh chúa gây
ra sự chết, tức là ma quỷ, và đã giải thoát những ai vì sợ chết mà suốt đời sống
trong tình trạng nô lệ. Vì những kẻ được Người giúp đỡ không phải là các thiên
thần, mà là con cháu Abraham.” Dĩ nhiên, Chúa Giêsu không chết muôn đời; Ngài
đã sống lại vinh quang, và trở nên hoa quả đầu tiên của những người từ trong
cõi chết sống lại. Ngài là “người tiên phong” đi mở đường, để tất cả các anh em
của Ngài cũng được đi con đường đó.
2.2/ Chúa Giêsu phải trở
nên con người về mọi phương diện: Tác giả
Thư Do-thái nhận ra sự cần thiết của việc Chúa Giêsu phải trở nên con người về
mọi phương diện, ngọai trừ tội lỗi: “Bởi thế, Người đã phải nên giống anh em
mình về mọi phương diện, để trở thành một vị Thượng Tế nhân từ và trung tín
trong việc thờ phượng Thiên Chúa, hầu đền tội cho dân.” Mục đích của việc “hòan
toàn trở nên con người” là để:
(1) Ngài có thể thực sự
được coi là một con người: Đã là con người, ai cũng phải chịu đựng đau khổ và
ngang qua cái chết.
(2) Ngài có thể thông
cảm và đồng cảm với thân phận con người: Nếu một người không ngang qua những
kinh nghiệm đau khổ và sự chết, người đó sẽ không thể hòan tòan hiểu và thông cảm
những ai bị ở trong hòan cảnh đó.
(3) Ngòai ra, Ngài có
thể giúp đỡ một cách hiệu quả cho những ai ở trong hòan cảnh đó: “Vì bản thân
Người đã trải qua thử thách và đau khổ, nên Người có thể cứu giúp những ai bị
thử thách.”
Nói tóm, Thiên Chúa có
uy quyền trên cả sự sống và sự chết. Ngài có thể cho Con của Ngài nhập thể, chịu
đau khổ, ngang qua sự chết, và phục sinh vinh hiển. Chẳng có gì là không thể đối
với Thiên Chúa; chúng ta đừng áp dụng cách thức suy nghĩ của con người cho
Thiên Chúa.
3/ Phúc Âm: Các mẫu gương của những người sống theo đường lối của Thiên
Chúa.
3.1/ Gia Đình Thánh tuân
giữ Lề Luật của Thiên Chúa: Khi đã đến ngày
lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Moses, bà Maria và ông Giuse đem con lên
Jerusalem, để tiến dâng cho Chúa, như đã chép trong Luật Chúa rằng: "Mọi
con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa," và cũng để
dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non.
3.2/ Ông Simeon tin vào Lời
Thiên Chúa hứa và sự thúc đẩy của Thánh Thần.
(1) Ông Simeon là người
công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của Israel, và Thánh Thần
hằng ngự trên ông. Ông đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy
cái chết trước khi được thấy Đấng Kitô của Đức Chúa. Được Thánh Thần thúc đẩy,
ông lên Đền Thờ.
(2) Lúc cha mẹ Hài Nhi
Giêsu đem con tới, ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:
"Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an
bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân:
Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Israel Dân
Ngài."
3.3/ Ông Simeon nói tiên
tri:
(1) Về con trẻ: “Thiên
Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel ngã xuống hay đứng
dậy. Cháu còn là mục tiêu cho người đời chống đối; và như vậy, những ý nghĩ từ
thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra.” Nhiều người bị ngã xuống hay được đứng dậy là
hòan tòan tùy thuộc vào phản ứng của họ đối với Đức Kitô. Trong cuộc đời của
Chúa, người bị ngã xuống là phần đông là các Kinh-sư và Biệt-phái, vì họ từ chối
không tin và luôn tìm cách bắt bẻ và tiêu diệt Ngài. Những người được đứng dậy
là các người thu thuế, gái điếm, và dân ngọai; tuy bị coi là tội lỗi, nhưng khi
được Chúa tỏ lòng thương xót, họ đã ăn năn và tin vào Ngài.
(2) Về Mẹ Maria: “Còn
chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà." Cuộc đời của Chúa Giêsu
là cuộc đời của Mẹ; đau khổ của Con là của Mẹ. Mẹ Maria đã đồng hành với con từ
lúc sinh ra trong máng cỏ cho tới lúc sinh thì tên Thập Giá.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Nhà thờ là nơi con người
gặp gỡ Thiên Chúa để bàn chuyện, để được hướng dẫn, và để lãnh nhận những ơn
thánh cần thiết cho cuộc sống con người.
- Chúng ta cần phải
chuẩn bị tâm hồn mỗi khi đến nhà thờ để gặp gỡ Thiên Chúa. Nếu chúng ta đến nhà
thờ với một tâm hồn khô khan, vội vã và bất kính, chúng ta sẽ không thể gặp gỡ
Thiên Chúa và lãnh nhận những hồng ân của Ngài.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN,OP.
02/02/2018
THỨ SÁU TUẦN 4 TN
Dâng Chúa Giê-su trong Đền Thánh
Lc 2,22-40
Dâng Chúa Giê-su trong Đền Thánh
Lc 2,22-40
NIỀM VUI ĐƯỢC THẤY
CHÚA
“Chính mắt con nhìn thấy ơn cứu độ.” (Lc 2,30)
Suy niệm: Cụ già
Si-mê-on thật mãn nguyện khi được thấy tận mắt, bồng ẵm tận tay Hài Nhi Giê-su,
mà nhờ được Thánh Thần mách bảo, cụ nhận ra là chính “Đấng Ki-tô của Đức
Chúa”. Cụ đại diện cho cả nhân loại đang mỏi mòn trông đợi lời tiên tri hằng
thiên niên kỷ nay được ứng nghiệm. Được gặp Hài Nhi cũng là được thấy “ơn
cứu độ Chúa dành sẵn cho muôn dân,” cho toàn thể nhân loại. Cuộc gặp gỡ,
dù chỉ trong giây lát thôi, cũng làm cho cụ được vui mừng, thoả mãn; cụ đã sẵn
sàng thanh thản “ra đi bình an” “theo như lời Ngài đã hứa”. Gặp
được Chúa chỉ một thoáng chốc thôi, ngay lập tức cụ đã thực thi sứ vụ ngôn sứ
cho Đức Ki-tô.
Mời Bạn: Qua Mầu nhiệm Nhập Thể,
Thiên Chúa đã đến, hiện diện như một thành viên của đại gia đình nhân loại. Các
Ki-tô hữu cũng tìm được niềm an vui và hạnh phúc với Chúa và trong Chúa khi lắng
nghe Lời Ngài và đặc biệt khi đón nhận Bí tích Thánh Thể. Nơi đó, chúng ta được
lãnh nhận chính Chúa Giê-su là Đấng Cứu Độ của mình. Chúng ta có sẵn sàng để nhận
ra Ngài đang hiện diện nơi này để tin kính, mến yêu và tôn thờ Ngài không? Bạn
có thật sự cảm thấy vui mừng và mãn nguyện khi sống với Chúa trong lời kinh
nguyện và khi đón nhận Ngài qua bí tích Thánh Thể không?
Sống Lời Chúa: Khát khao Chúa và mong được
trở nên một với Ngài là tâm tình và mục tiêu của mỗi Ki-tô hữu; do đó, chúng ta
phải tìm kiếm và khám phá để cảm nhận được sự bình an và hạnh phúc trong những
giờ cầu nguyện cũng như khi gặp gỡ Chúa nơi Lời Ngài và nơi Bí tích Thánh Thể.
Cầu nguyện: Đọc Kinh Cám Ơn.
(5 phút Lời Chúa)
Ánh sáng và vinh quang (2.2.2018 – Thứ sáu: Dâng Chúa Giêsu trong Đền thánh)
Để gặp được Chúa trong đời thường, chúng ta cần có lòng mong ngóng, cần sống đời sống đẹp lòng Chúa và cần được Thánh Thần mách bảo.
Suy niệm:
“Thứ bốn thì ngắm, Đức Bà dâng Chúa Giêsu trong đền
thánh,
ta hãy xin cho được vâng
lời chịu lụy.”
Đức Mẹ đã muốn giữ Luật Chúa
một cách nghiêm chỉnh.
Luật trong sách Lêvi (12,
2-8) đòi buộc người mẹ 40 ngày sau khi sinh con trai
phải lên đền thờ để được
thanh tẩy và phải dâng lễ vật nữa.
Nếu không đủ khả năng
dâng một con chiên và một bồ câu non
thì phải dâng một cặp bồ
câu non hay một đôi chim gáy.
Ngày nay chúng ta không
thể hiểu tại sao Đức Mẹ phải dâng lễ tạ tội
và phải được thanh tẩy
sau khi sinh Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa.
Tại sao việc sinh nở lại
bị coi là ô uế?
Dù sao Mẹ Đấng Cứu Thế đã
vâng theo Luật dạy.
Hơn nữa, cùng với thánh
Giuse, Mẹ đã dâng Con cho Chúa trong đền thờ.
Điều này Luật không buộc,
nhưng Mẹ đã làm vì lòng sốt sắng.
Thật ra để chuộc lại con
trai đầu lòng,
chỉ cần trả cho tư tế gần
60 gam bạc (Ds 18, 15-16).
Mẹ sung sướng đem Con lên
đền thờ dâng cho Thiên Chúa
vì hơn ai hết Mẹ biết
rằng Hài Nhi Giêsu này là quà tặng Chúa ban cho mình.
Dâng Con là nhìn nhận Con
mình mãi mãi thuộc trọn về Chúa,
ở với Chúa và làm việc
cho Chúa suốt đời,
dù mình đã chuộc Con về
bằng một số bạc được ấn định theo Luật dạy.
Bài Tin Mừng hôm nay có 4
lần nói đến “Luật” (cc.23.24.27.39).
Về việc giữ Luật, Đức
Maria đã không đòi một ngoại lệ hay đặc ân nào.
Hãy nhìn ngắm Thánh Gia
lên đền thờ.
Một đôi vợ chồng nghèo
bồng một đứa con còn rất nhỏ.
Ai có thể nhận ra đứa bé
này là Đấng Kitô, là ơn cứu độ cho muôn dân?
Đó là cụ Simêon, một
người đạo hạnh, luôn mong chờ điều Chúa hứa.
Hơn nữa cụ là người có
Thánh Thần hằng ngự trên (c.25),
người được Thánh Thần
linh báo (c. 26), và thúc đẩy lên đền thờ (c. 27).
Chính Thánh Thần làm cụ
nhận ra điều mắt thường không thấy,
Và cụ sung sướng, mãn
nguyện bồng Hài Nhi trên tay.
Cụ bà ngôn sứ Anna cũng
nhận ra Đấng Cứu chuộc đến với mình.
Cụ là người đạo đức, ăn
chay cầu nguyện, đêm ngày thờ phượng Thiên Chúa.
Cụ bà Anna đã công khai
giới thiệu Hài Nhi cho những người chung quanh.
Để gặp được Chúa trong
đời thường, chúng ta cần có lòng mong ngóng,
cần sống đời sống đẹp
lòng Chúa và cần được Thánh Thần mách bảo.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin nhận lấy trọn cả tự
do, trí nhớ, trí hiểu,
và trọn cả ý muốn của
con,
cùng hết thảy những gì
con có,
và những gì thuộc về con.
Mọi sự ấy, Chúa đã ban cho con,
lạy Chúa, nay con xin
dâng lại cho Chúa.
Tất cả là của Chúa,
xin Chúa sử dụng hoàn
toàn theo ý Chúa.
Chỉ xin ban cho con lòng
mến Chúa và ân sủng.
Được như thế, con hoàn
toàn mãn nguyện. Amen.
(Kinh dâng hiến của thánh
I-Nhã)
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
2 THÁNG HAI
Uy Quyền
Ẩn Giấu Trong Cái
Đơn Sơ
Thiên Chúa, Đấng Tạo
Thành của muôn loài, Đấng toàn năng của trời và đất, Đấng là Vua Vinh Hiển, đã
đến trong hình hài một đứa bé nhỏ nhoi. Biến cố Thiên Chúa vào đền thờ của dân
Ngài được bao phủ trong mầu nhiệm của sự yếu đuối và bất lực. Tuy nhiên, uy quyền
của Ngài ẩn giấu trong vẻ đơn sơ và yếu đuối ấy của một em bé.
Tất cả biến cố này là
một mầu nhiệm. Rất tình cờ, ngay chính giữa mầu nhiệm này, một tiếng nói đã cất
lên. Đó là ông già Si-mê-on. Thánh sử Luca cho biết Thánh Thần hằng ngự trên
ông già này (cf. Lc 2, 25).
Nghĩa là, Si-mê-on đã
lên tiếng trong tư cách một nhà tiên tri. Lời ông nói khiến người ta sửng sốt.
Ông chúc tụng Thiên Chúa: “Muôn lạy Chúa, giờ đây, theo lời Ngài đã hứa, xin để
tôi tớ này được an bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ mà Chúa
đđành sẵn cho muôn dân: Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của
It-ra-en dân Ngài” (Lc 2, 29 – 32).
Kỳ lạ biết bao khi đó
là những lời nói về một em bé. Nhưng sấm ngôn của Si-mê-on hoàn toàn chân thực.
Và lời thánh vịnh xưa đã được ứng nghiệm. Đấng vào đền thờ Giê-ru-sa-lem hôm
nay đây chính là ánh sáng và là ơn cứu độ của toàn thế giới. Ngài đã mang ánh
sáng và ơn cứu độ đến trong cung cách như thế đấy. Ngài chính là Vua Vinh Hiển.
Nhưng, vị vua vinh hiển
này sẽ thiết lập triều đại vinh quang của Ngài trên trái đất bằng cách nào đây?
Bằng cách nào đây, em bé Giê-su sinh hạ ở Bê-lem ấy sẽ trở thành ánh sáng và ơn
cứu độ của trần gian? Ông già Si-mê-on đã trả lời cho những vấn nạn trên khi
ông tiên báo: “Cháu bé này sẽ là dấu hiệu cho người đời chống báng” (Lc 2, 34).
Những lời ấy bộc lộ toàn
bộ con đường cứu độ của Đức Kitô từ khi chào đời cho đến lúc chết trên thập
giá. Người là ánh sáng của các dân tộc; nhưng Người cũng là một dấu chống đối của
mọi thời đại, một dấu khơi lên sự thù địch, sự mâu thuẫn.
Các ngôn sứ của
It-ra-en ngày xưa, trước Người, cũng đã từng như thế. Đó là số phận của Gio-an
Tẩy Giả, và cũng sẽ là số phận của bất cứ ai nối gót theo Người. Giê-su đã thực
hiện biết bao dấu lạ lớn lao. Người chữa lành các bệnh nhân, Người hóa bánh và
cá ra nhiều để phân phối cho đám đông dân chúng, Người truyền cho giông tố im lặng,
và thậm chí Người cho kẻ chết được sống lại.
Đám đông tuôn đến với
Đức Giêsu từ khắp mọi nơi, họ lắng nghe Người vì Người giảng dạy với uy quyền.
Thế nhưng, Người gặp phải sự chống đối kịch liệt của những kẻ không chịu mở
lòng trí ra để đón nhận Người.
Rốt cục, sự chống đối
của người ta leo lên đến tột đỉnh trong cuộc khổ nạn và cái chết thập giá của Đức
Giêsu. Sấm ngôn ngày ấy của ông già Si-mê-on hoàn toàn ứng nghiệm.
Sấm ngôn ấy ứng nghiệm
cho cuộc đời của Đức Giêsu – và ứng nghiệm cho cuộc đời của các môn đệ Người mọi
nơi và mọi thời.
Hạnh Các Thánh
2 Tháng Hai
Dâng Hài Nhi Giêsu
Vào Ðền Thánh
Vào
cuối thế kỷ thứ tư, một phụ nữ tên Etheria đã hành hương đến Giêrusalem. Cuốn hồi
ký của bà, được khám phá vào năm 1887, thật bất ngờ đã đem lại một nét đại
cương về sinh hoạt phụng vụ ở đây. Trong các dịp lễ mà bà viết lại là lễ Hiển
Linh, kỷ niệm ngày Ðức Giêsu giáng sinh, và một cuộc rước để kính nhớ việc Dâng
Chúa Trong Ðền Thờ vào 40 ngày sau -- ngày 15 tháng Hai. (Trong luật Môisen, về
phương diện lễ nghi, người phụ nữ được coi là "ô uế" sau khi sinh
con, và bà phải "thanh tẩy" bằng cách đến trình diện với tư tế và
dâng của lễ trong đền thờ. Tiếp xúc với bất cứ ai đã chạm đến bí ẩn của sự sinh
nở và sự chết, đều bị loại trừ khỏi viêïc thờ phượng).
Ngày lễ này được lan tràn khắp Giáo Hội Tây Phương trong thế kỷ thứ năm và thứ
sáu. Nhưng Giáo Hội Tây Phương mừng sinh nhật Ðức Giêsu vào ngày 25 tháng Mười
Hai, do đó lễ Dâng Chúa Trong Ðền Thờ được dời sang ngày 2 tháng Hai -- 40 ngày
sau Giáng Sinh.
Vào
đầu thế kỷ thứ tám, Ðức Giáo Hoàng Sergius mở đầu buổi lễ bằng một cuộc rước nến;
cho đến cuối thế kỷ ấy việc làm phép và phân phát nến đã trở thành một phần của
việc cử hành, bởi đó, cho đến ngày nay, ngày lễ này thường được gọi là:
Candlemas (Lễ Nến).
Lời Bàn
Theo phúc âm Thánh Luca, Hài Nhi Giêsu được tiếp đón vào đền thờ bởi hai người
lớn tuổi, là ông Simeon và bà Anna. Họ biểu hiện cho dân Israel đang kiên nhẫn
trông chờ; họ xác nhận Hài Nhi Giêsu là đấng Messiah họ trông đợi từ lâu.
Lời Trích
"Chính Ðức Kitô đã nói, 'Ta là sự sáng thế gian.' Và chúng ta là ánh sáng,
chính chúng ta, nếu chúng ta tiếp nhận ánh sáng từ Ngài... Nhưng làm thế nào để
chúng ta tiếp nhận ánh sáng ấy, làm thế nào để ánh sáng ấy bùng lên? ... Hình ảnh
cây nến nói với chúng ta: qua sự cháy, và sự tàn lụi. Một ánh lửa, một tia đức
ái, một hy sinh không thể tránh như cây nến tinh tuyền, thẳng tắp đang tuôn
trào nguồn ánh sáng của nó, và đã tự tan biến trong sự hy sinh âm thầm" (Ðức
Phaolô VI).
Trích từ NguoiTinHuu.com
2 Tháng Hai
Người Mẹ Bồng Con
Một buổi trưa hè nóng bức. Những người
hành khách trên chuyến xe đò lặng lẽ nhìn con đường độc điệu. Cái nắng chói
chang và cuộc sống buồn tẻ như giam hãm mọi người trong một thứ thinh lặng nặng
nề.
Nhưng ở một trạm dừng nào đó, mọi người
bỗng ra khỏi sự thinh lặng của mình để đưa mắt nhìn về một người thiếu phụ trẻ
vừa mới bước lên xe. Chuyến xe từ từ chuyển bánh trở lại. Người thiếu phụ bắt đầu
cười và đùa giỡn với đứa con thơ dại chị đang bế trên tay. Cử chỉ của người thiếu
phụ, tiếng cười hồn nhiên của đứa bé đã thu hút sự chú ý của mọi hành khách.
Trong phút chốc một ngọn gió mát của hiếu kỳ của liên đới, của tham dự và của
chính sức sống đã đem lại một bầu khí tươi mát cho mọi người. Mọi người như bừng
tỉnh từ nỗi thinh lặng của oi bức, của ngái ngủ. Nơi đây, người ta nghe có tiếng
người bắt đầu nói chuyện. Nơi kia có tiếng người cười. Sự đối thoại như một
dòng điện chạy xuyên qua mọi người. Giờ thì chuyến đi không còn là một cuộc độc
hành buồn tẻ nữa.
Trên chiếc xe già cỗi và buông tẻ của thế giới, một người đàn bà đã bước lên:
Tình Yêu và Sự Sống đã bừng dậy. Người đàn bà đó chính là mẹ Maria. Thế giới bắt
đầu đi vào một gia đoạn lịch sử mới kể từ giây phút ấy. Mẹ đã bước lên chiếc xe
cằn cỗi của thế giới cùng với Chúa Giêsu để biến nó trở thành một cuộc hành
trình vui tươi và đầy ý nghĩa.
Thiên Chúa đã không ngừng tạo dựng Mẹ Maria như biểu tượng cao vời nhất của người
đàn bà, của người vợ, của người mẹ, Ngài còn muốn cho chúng ta nhìn thấy nơi Mẹ
con đường lý tưởng, mẫu gương lý tưởng mà môic người phải noi theo để đạt đến cứu
cánh vĩnh cửu.
Mẹ
đã sinh ra như mọi người, Mẹ đã lớn lên như mọi người, Mẹ đã sống cuộc sống con
người như mọi người, nghĩa là Mẹ cũng đã trải qua những tháng năm của buồn vui,
của thử thách, của mất mát, cuộc hành trình đó là bởi vì lúc nào Mẹ cũng sống kết
hiệp với Chúa và tin tưởng ở quyền năng Yêu thương của Ngài. Mang Chúa Giêsu đến
cho trần thế, Mẹ đã biến cuộc hành trình buồn tẻ của thế giới thành một Ðại Lễ
của gặp gỡ, của chia sẻ, của hân hoan và tin tưởng. Từ nay, tuyến đường mà nhân
loại đang đi kết thúc bằng một điểm đến rõ rệt là chính Thiên Chúa.
Trích sách Lẽ Sống
Lectio Divina:
Dâng Chúa Giêsu trong Đền Thánh
Thứ Sáu 2 Tháng Hai,
2018
Dâng Chúa Giêsu
trong Đền Thánh
Lc 2:22-40
1. Lời nguyện mở đầu
Lạy Thiên Chúa, Đấng Tạo
Hóa và là Cha của chúng con, Chúa đã muốn Con Chúa, Đấng đã sinh ra trước khi
thế gian được tạo dựng, phải trở thành một thành viên của gia đình nhân loại.
Xin Chúa hãy nhen nhúm lại trong chúng con lòng biết ơn về ân sủng của sự sống,
để các bậc cha mẹ có
thể tham dự vào sự sinh sản của tình yêu Chúa, để người già có thể truyền lại
cho thế hệ con cháu sự khôn ngoan trưởng thành của họ, và thế hệ con cháu có thể
lớn lên trong sự khôn ngoan, đạo đức và ân sủng, tất cả mọi người ca tụng tôn
vinh thánh danh Chúa. Nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
2. Bài Đọc: Lc 2:22-40
Khi ấy, đủ ngày thanh
tẩy theo luật Môisen, cha mẹ Chúa Giêsu liền đem Người lên Giêrusalem để hiến
dâng cho Chúa, như đã chép trong lề luật Chúa rằng: “Mọi con trai đầu lòng sẽ
được gọi là người thánh thuộc về Chúa”. Và cũng để dâng lễ vật cho Chúa,
như có nói trong luật Chúa, là “một đôi chim gáy, hay một cặp bồ câu con”.
Và đây, ở Giêrusalem,
có một người tên là Simêon, là người công chính, kính sợ Thiên Chúa, và đang đợi
chờ niềm ủi an của Israel. Thánh Thần cũng ở trong ông. Ông đã được Thánh Thần
trả lời rằng: Ông sẽ không chết, trước khi ông thấy Đấng Kitô của Chúa. Được
Thánh Thần thúc giục, ông vào đền thờ ngay lúc cha mẹ trẻ Giêsu đưa Người đến để
thi hành cho Người những tục lệ của lề luật. Ông bồng Người trên cánh tay mình,
và chúc tụng Thiên Chúa rằng: “Lạy Chúa, bây giờ Chúa để cho tôi tớ Chúa đi
bình an, theo như lời Chúa. Vì chính mắt con đã thấy ơn cứu độ mà Chúa đã sắm sẵn
trước mặt muôn dân. Ánh sáng đã chiếu soi các lương dân. Vinh quang cho Israel
dân Chúa.”
Cha mẹ Người đều kinh
ngạc về những điều đã nói về Người. Simêon chúc lành cho hai ông bà và nói với
Maria mẹ Người rằng: “Đây trẻ này được đặt lên, khiến cho nhiều người trong
Israel phải sụp đổ hay được đứng dậy, và cũng để làm mục tiêu cho người ta chống
đối. Về phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà, để tâm tư nhiều tâm hồn
được biểu lộ.”
Lúc ấy, cũng có bà
tiên tri Anna, con ông Phanuel, thuộc chi họ Asê, đã cao niên. Mãn thời trinh nữ,
bà đã sống với chồng được bảy năm. Rồi thủ tiết cho đến nay đã tám mươi bốn tuổi.
Bà không rời khỏi đền thờ, đêm ngày ăn chay cầu nguyện phụng sự Chúa. Chính giờ
ấy, bà cũng đến, bà liền chúc tụng Chúa, và nói về trẻ Giêsu cho tất cả những
người đang trông chờ ơn cứu chuộc Israel.
Khi hai ông bà hoàn tất
mọi điều theo luật Chúa, thì trở lại xứ Galilêa, về thành mình là Nagiarét. Và
con trẻ lớn lên, thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng
Người.
3. Giây phút thinh lặng cầu nguyện
– Để Lời của Chúa có thể ngự thấm trong chúng ta và để
soi sáng đời sống chúng ta.
– Để trước khi chúng ta đưa ra bất kỳ một ý kiến nào,
xin cho ánh sáng Lời Chúa được tỏa sáng và chiếu soi với mầu nhiệm về sự hiện
diện sống động của Chúa.
4. Một vài câu hỏi gợi ý
Để giúp chúng ta trong
việc suy gẫm cá nhân.
a) Tại sao Đức Giêsu, Con Một của Đấng Tối Cao, và Đức
Maria mẹ Người, đã được thụ thai không vướng tội lỗi, mà lại tuân theo các lề
luật của Môisen? Có phải bởi vì Đức Maria chưa nhận thức được sự vô nhiễm và
thánh thiện của bà không?
b) Lời nói và thái độ của ông Simêon và bà tiên tri
Anna có ý nghĩa đặc biệt nào không? Hành động và sự vui mừng của họ có làm gợi
nhớ lại phong thái của các tiên tri ngày xưa không?
c) Làm thế nào chúng ta có thể giải thích được
câu “một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn”: đó có phải là việc xé nát
lương tâm trước những thách thức và sự phong phú của Chúa Giêsu không? Hay đó
chỉ là nỗi đau lòng của Đức Mẹ?
d) Cảnh này có thể có một ý nghĩa nào đó cho các bậc
phụ huynh ngày nay không: về ý thức tôn giáo của con cái họ; về kế hoạch của
Thiên Chúa dành cho mỗi con cái của Người; về những nỗi sợ hãi và đau khổ mà
cha mẹ mang trong tâm tư họ những khi họ nghĩ về thời điểm khi con cái họ lớn
khôn?
5. Chìa khóa dẫn đến bài đọc
Dành cho những ai muốn
đào sâu vào văn bản.
a) Như
đã chép trong lề luật Môisen hay lề luật của Chúa. Đây là một loại điệp khúc được lặp lại nhiều lần. Thánh sử
Luca hòa lẫn hai hệ thống lề luật mà không có sự phân biệt. Luật
thanh tẩy của người mẹ đã được viết trong sách Lêvi (12:2-8) và được diễn ra bốn
mươi ngày sau khi sinh con. Cho đến lúc đó, người phụ nữ không được phép đến gần
những nơi thiêng liêng, và buổi lễ được kèm theo với của lễ dâng là một con
vật nhỏ. Việc thánh hiến con đầu lòng đã được quy định trong sách Xuất Hành
13:11-16, và được coi như là một loại “tiền chuộc” để tưởng nhớ đến hành động cứu
chuộc của Thiên Chúa đã giải thoát dân tộc Israel khỏi ách nô lệ ở Ai-Cập. Vì
lý do này lễ vật dâng tiến là một con vật nhỏ. Trong mọi trường
hợp, các bậc cha mẹ có vẻ như trong thủ tục hiến dâng con trai của họ như đã được
làm với vật hiến tế và tư tế Lêvi, trong khi ấy qua các nhân vật như ông Simêon
và cụ bà Anna, dường như Thiên Chúa lại là Đấng dâng hiến Con của Người để cứu
độ nhân loại.
b) Ông Simêon và bà
Anna: Đây là những nhân vật với đầy
đủ giá trị biểu tượng. Vai trò của họ là một sự công nhận, xuất phát từ việc
soi sáng lẫn hành động của Chúa Thánh Thần và một đời sống trong sự mong chờ và
đức tin. Đặc biệt ông Simêon được mô tả như là một người hoàn toàn đắm chìm
trong sự chờ đợi (prodekòmenos), và là kẻ bước tới để chào đón. Ông cũng
xuất hiện để tuân giữ lề luật, lề luật của Chúa Thánh Thần, Đấng hướng dẫn ông
về phía con trẻ trong đền thờ. Bài ca vịnh ông công bố biểu lộ khuynh hướng sống
cho người khác của ông, ông đã sống để chờ đến thời điểm này và giờ đây ông rút
lui để cho những người khác có thể nhìn thấy ánh sáng và ơn cứu độ đến cho dân
tộc Israel cũng như dân ngoại. Bà Anna hoàn thành bức tranh, bằng vào số tuổi của
bà (con số tượng trưng: 84 = 7 x 12; mười hai chi tộc Israel; hoặc 84 – 7 = 77,
con số toàn thiện kép), nhưng hơn hết cả là bằng lối sống của bà (ăn chay và cầu
nguyện) và bằng lời công bố của bà cho tất cả những ai “nhìn về tương lai”. Bà
được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần về việc nói tiên tri, phụng thờ Chúa và sự
trinh khiết trong lòng của bà. Ngoài ra, bà thuộc về một chi tộc nhỏ bé nhất,
chi họ Asê, một dấu chỉ cho thấy rằng những người nhỏ bé và mong manh là những
người có khuynh hướng nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế hơn. Cả hai ông bà lão
này – trông có vẻ như là một cặp đôi nguyên thủy – là những biểu tượng đẹp nhất
của Do Thái giáo, của thành Giêrusalem trung thành và hiền lành, đang chờ đợi
và vui mừng và rằng từ bây giờ sẽ để cho nguồn ánh sáng mới lan tỏa.
c) Một lưỡi
gươm sẽ đâm thấu: thông thường những
chữ này được hiểu như có nghĩa là Đức Maria sẽ chịu đau khổ, một cảnh được thấy
rõ ràng là hình ảnh Đức Mẹ Sầu Bi. Thay vào đó, chúng ta cần xem Đức Mẹ như là
một biểu tượng của dân tộc Israel. Ông Simêon linh cảm được cảnh tượng dân tộc
của ông sẽ bị chia rẽ sâu xa bởi lời sắc bén và hằng sống của Đấng Cứu Thế (xem
Lc 12:51-53). Đức Maria đại diện cho đường đi: bà phải tín thác, nhưng sẽ phải
trải qua những thời gian đau thương và đen tối, sự im lặng đớn đau và những thử
thách. Câu chuyện của Đấng Mêssia đau khổ sẽ làm cho mọi người đau đớn, ngay cả
đối với Đức Mẹ. Người ta không thể đi theo ánh sáng mới của toàn thế giới mà
không phải trả giá, mà không phải bị khích động để chọn các quyết định đầy rủi
ro, mà không phải được tái sinh từ trời và trong sự mới mẻ. Nhưng hình ảnh của
“lưỡi gươm đâm thấu” này, về một hài nhi sẽ “làm vấp ngã” và giao động những
trái tim khỏi sự thờ ơ của họ, thì không thể bị tách rời khỏi hành động đầy ý
nghĩa của hai người già lão: một người là ông Simêon, kẻ đã bế Chúa Hài Đồng
trên tay mình để cho thấy rằng đức tin là một sự gặp gỡ và vòng tay ôm, chứ
không phải là một lý thuyết suông; còn người kia, cụ bà Anna, đảm nhận vai trò
công bố và nhen nhóm lại ánh sáng rực rỡ trong lòng tất cả những ai “đã nhìn về
phía” Người.
d) Đời sống hằng
ngày, sự hiển linh của Thiên Chúa: Cuối
cùng, thật là thú vị khi nhận thấy rằng toàn bộ câu chuyện nhấn mạnh đến hoàn cảnh
giản dị và chất phác nhất: một cặp vợ chồng trẻ với một đứa con trong tay, một
ông già vui mừng và ôm ấp đứa bé, một bà lão cầu nguyện và nói tiên tri, những
kẻ lắng nghe dường như là những người đang gián tiếp tham gia. Ở phần cuối của
đoạn Tin Mừng, chúng ta cũng có một cái nhìn thoáng qua về làng Nagiarét, về sự
phát triển của đứa trẻ có năng khiếu khác thường với sự khôn ngoan và tốt lành.
Chủ đề của sự khôn ngoan được đan dệt vào trong tấm vải của đời sống bình thường
và lớn lên trong một bối cảnh của ngôi làng, để cho câu chuyện dường như treo
lơ lửng, và nó sẽ được nhắc lại lần nữa đúng với chủ đề sự khôn ngoan của cậu
bé ở giữa các luật sĩ trong đền thờ. Thật vậy, đây là cảnh kế tiếp ngay sau đây
(Lc 2:41-52).
6. Cầu Nguyện: Thánh Vịnh 122:
Vui dường nào khi
thiên hạ bảo tôi:
“Ta cùng trẩy lên đền thánh CHÚA! ”
Và giờ đây, Giêrusalem hỡi,
cửa nội thành, ta đã dừng chân.
“Ta cùng trẩy lên đền thánh CHÚA! ”
Và giờ đây, Giêrusalem hỡi,
cửa nội thành, ta đã dừng chân.
Giêrusalem khác nào đô
thị
được xây nên một khối vẹn toàn.
Từng chi tộc, chi tộc của CHÚA,
trẩy hội lên đền ở nơi đây,
để danh CHÚA, họ cùng xưng tụng,
như lệnh đã truyền cho Israel.
được xây nên một khối vẹn toàn.
Từng chi tộc, chi tộc của CHÚA,
trẩy hội lên đền ở nơi đây,
để danh CHÚA, họ cùng xưng tụng,
như lệnh đã truyền cho Israel.
Cũng nơi đó, đặt ngai
xét xử,
ngai vàng của vương triều Đavít.
Hãy nguyện chúc Giêrusalem được thái bình,
rằng: “Chúc thân hữu của thành luôn thịnh đạt,
tường trong lũy ngoài hằng yên ổn,
lâu đài dinh thự mãi an ninh.”
ngai vàng của vương triều Đavít.
Hãy nguyện chúc Giêrusalem được thái bình,
rằng: “Chúc thân hữu của thành luôn thịnh đạt,
tường trong lũy ngoài hằng yên ổn,
lâu đài dinh thự mãi an ninh.”
Nghĩ tới anh em cùng
là bạn hữu,
tôi nói rằng: “Chúc thành đô an lạc.”
Nghĩ tới đền thánh CHÚA, Thiên Chúa chúng ta thờ,
tôi ước mong thành được hạnh phúc, hỡi thành đô.
tôi nói rằng: “Chúc thành đô an lạc.”
Nghĩ tới đền thánh CHÚA, Thiên Chúa chúng ta thờ,
tôi ước mong thành được hạnh phúc, hỡi thành đô.
7. Lời nguyện kết
Lạy Cha, chúng con ngợi
khen và chúc tụng Cha bởi vì nhờ Con Cha, được sinh ra bởi một người phụ nữ do
việc làm của Chúa Thánh Thần, được sinh ra theo lề luật, đã cứu chuộc chúng con
khỏi lề luật và Cha đã làm đầy cuộc sống chúng con với ánh sáng và niềm hy vọng
mới mẻ. Nguyện xin cho gia đình chúng con hân hoan chào đón và trung
thành với chương trình của Cha, nguyện xin cho những người trong gia đình chúng
con giúp đỡ và duy trì trong con cái họ những giấc mơ và sự nhiệt tình mới, xin
Cha ấp ủ chúng trong sự dịu dàng khi chúng yếu ớt mong manh, xin Cha dạy dỗ
chúng trong tình yêu cho Cha và cho tất cả tha nhân. Lạy Cha, tất cả mọi
danh dự và vinh quang đều quy về Cha.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét